Dấu hiệu Athena - Chương 34
The Mark of Athena _ Chương 34
Annabeth
KHI ANNABETH LỦNG LẲNG TRÊN KHÔNG, tay nọ tiếp tay kia lần xuống trên cái thang đung đưa dữ dội, cô biết ơn Chiron vì bao năm huấn luyện leo trèo ởTrại Con Lai. Cô từng hay to tiếng phàn nàn rằng leo dây sẽ chả bao giờ giúp mình đánh bại được lấy một con quái vật nào cả. Chiron đã chỉ mỉm cười, như thể biết ngày này sẽ tới.
Cuối cùng Annabeth cũng xuống được tới đáy. Cô trượt khỏi rìa gạch và đáp xuống con rạch, nhưng nó hóa ra lại chỉ sâu có vài icnh. Nước lạnh cóng xộc vô giày của cô.
Cô giơ cao con dao phát sáng. Con rạch cạn chạy xuống giữa một đường hầm bằng gạch. Cứ vài thước lại có những ống nước bằng gốm nhô ra từ tường. Cô đoán chúng là ống thoát nước, một phần của hệ thống dẫn nước La Mã cổ đại, dù thế, cô thấy thật tuyệt khi một đường hầm thế này còn tồn tại dày đặc dưới lòng đất với những đường ống, tầng hầm và cống rãnh trị giá hàng thế kỷ.
Một ý nghĩ đột ngột khiến cô ớn lạnh hơn cả nước. Vài năm trước, Percy cùng cô từng thực hiện một nhiệm vụ ở mê cung Daedalus-một mạng lưới ngầm các đường hầm và phòng ốc, mê hoặc mạnh mẽ và đầy cạm bẫy, chạy khắp dưới lòng tất cả các thành phố của Mỹ.
Khi Daedalus chết trong Trận chiến chốn Mê cung, toàn bộ mê cung đã sụp đổ – hoặc Annabeth tin thế. Những giả sử đó chỉ là ở Mỹ thôi thì sao? Giả như đây là phiên bản cổ hơn của mê cung thì sao? Daedalus từng bảo cô là mê cung của ông ta có một cuộc sống riêng. Nó không ngừng thay đổi và phát triển. Có lẽ mê cung có thể tái tạo, như quái vật chẳng hạn. Có thể lắm. Đó là một thế lực nguyên thủy, như Chiron từng nói – những thứ không bao giờ có thể thực sự chết đi.
Nếu đây là một phần của mê cung…
Annabeth quyết định nghĩ tới nó nữa, nhưng cô quyết định không cho rằng hướng đi của mình là đúng. Mê cung khiến khoảng cách trở nên vô nghĩa. Nếu cô không cẩn thận, cô có thể đi chệch hướng hai mươi bộ và thành ra tới Ba Lan.
Để an toàn, cô buộc một cuộn dây mới vào phần cuối cái thang dây. Cô có thể gỡ nó ra sau khi tìm hiểu xong. Mánh cũ mà hay.
Cô cân nhắc nên đi hướng nào. Đường hầm trông hệt nhau về cả hai phía. Rồi, khoảng năm mươi bộ về phía trái cô, dấu hiệu Athena lại bùng cháy trên bức tường. Annabeth thề là nó đang chằm chằm nhìn cô bằng đôi mắt to rực lửa, kiểu bảo, Cô bị gì thế hả? Mau lên chứ!
Cô bắt đầu thực sự ghét con cú.
Ngay khi cô tới được chỗ đó, hình đấy mờ đi và cuộn dây đầu tiên đã hết.
Khi buộc thêm cuộn dây mới, cô liếc về phía bên kia đường hầm. Có một phần đổ vỡ trên tường gạch, như thể có cái búa tạ đã dục một lỗ trên tường. Cô tiến tới nhìn cho kỹ. thò dao qua lỗ hổng cho sáng, Annabeth có thể thấy một căn phòng thấp hơn, dài và hẹp, sàn phòng đá khảm, bích họa và các băng ghế chạy xuống hai bên. Căn phòng tạo hình như một toa xe điện ngầm.
Cô chui đầu vào lỗ, hi vọng không có cái gì cắn đứt đầu. Đầu phòng gần đấy là một cánh cửa giả. Đầu phòng phía xa có một cái bàn bằng đá, hay án thờ cũng nên.
Hmm… Đường hầm dẫn nước vẫn còn chạy tiếp, nhưng Annabeth chắc chắn đây là lối chuẩn. Cô nhớ Tiberinus đã nói: Tìm kiếm án thờ của vị thần ngoại quốc. Dường như không có bất kỳ lối nào khỏi phòng thờ, nhưng chỉ có một quãng ngắn tới chiếc ghế phía dưới. Cô có thể lại trèo lên được không vấn đề gì.
Vẫn giữ sợi dây, cô hạ dần xuống.
Trần phòng hình thùng[1] với những mái vòm bằng gạch, nhưng Annabeth không thích hình dạng các cột chống. Ngay trên đầu cô, trên mái vòm gần nhất với cánh cửa chắn gạch, tấm đá bị nứt làm đôi. Khe nứt căng lực chạy ngang trần phòng. Nơi này có lẽ đã giữ được nguyên vẹn tầm hai ngàn năm, nhưng cô quyết định không muốn dành nhiều thời gian ở đây. Với vận may của cô, nó sẽ sụp trong vòng hai phút mất.
[1] Có hai loại như mình search ra, một loại ‘thùng đứng’ một loại ‘thùng ngang’, nhưng nếu nói căn phòng dài và hẹp thì chắc loại dài hẹp đúng hơn rồi.
Sàn nhà là một bức khảm hẹp dài với bảy bức tranh một hàng, như dòng thời gian. Ở ngay chân Annabeth là một con quạ. Canh đấy là con sư tử. Vài cái khác trông như những chiến binh La Mã với vũ khí đủ loại. Phần còn lại hư hại quá mức hoặc phủ bụi quá dày để Annabeth nhìn chi tiết cho được. Hai băng ghế hai bên rải rác các mảnh gốm vỡ. Các bức tường vẽ cảnh các bữa yến tiệc: một người đàn ông mặc áo chùng với một chiếc mũ vành cong như thìa xúc kem, ngồi cạnh là một gã to con hơn, người tỏa ra tia nắng. Ngồi quanh họ là những người cầm đuốc, người hầu và đủ loài động vật khác nhau như quạ, sư tử thẩn thơ làm nền. Annabeth không chắc bức tranh diễn tả cái gì, nhưng nó không gợi cô nhớ tới bất kỳ truyền thuyết Hy Lạp nào mà cô biết.
Đầu phía kia căn phòng, án thờ được chạm trổ công phu với bức phù điêu khắc một người đàn ông đội chiếc mũ-thìa-kem đang dí dao vô cổ bò mộng. Trên án thờ đặt tượng người đàn ông bằng đá bị ngập trong đá tới tận gối, một con dao găm và một ngọn đuốc trên hai tay giương cao. Thêm lần nữa, Annabeth không biết những hình ảnh đó có ghĩa gì.
Cô bước một bước về phía án thờ. Chân cô đánh RẮC một tiếng. Cô nhìn xuống và nhận thấy mình đã xỏ giầy qua một khung xương sườn của con người.
Annabeth nuốt lại tiếng hét vô bụng. Cái đó từ đâu mà có? Cô mới nhìn xuống khoảnh khắc trước và có thấy cái xương nào đâu. Giờ thì sàn phòng rải đầy những sương là xương. Khung xương sườn chắc xưa lắm rồi. Nó tan thành tro bụi ngay khi cô bỏ chân ra. Gần đó đặt một con dao găm bằng đồng rất giống con của cô. Hoặc là vũ khí người chết mang theo, hoặc là vũ khí đã giết chết người này.
Cô giơ con dao của mình ra xa để thấy được phía trước. Xa hơn một chút dưới lối đi khảm đá, một bộ xương hoàn chỉnh hơn nằm dài trên phần còn lại của chiếc áo chẽn thêu màu đỏ, như một người thời kỳ phục hưng. Cổ áo xếp nếp và hộp sọ của anh ta bị cháy rất nặng, như thể anh chàng đã quyết định gội đầu bằng một cây đèn hàn.
Tuyệt, Annabeth nghĩ. Cô ngước mắt lên nhìn bức tượng trên bàn thờ đang cầm con dao và ngọn đuốc.
Một kiểu kiểm tra gì đó, Annabeth đoán định. Hai người này đã thất bại. Đính chính: Không phải chỉ hai người. Còn nhiều xương và mảnh áo quần rải rác trên khắp lối đi đến án thờ. Cô không thể đoán có bao nhiêu bộ xương hiện diện, nhưng cô sẵn sàng cá rằng họ đều là á thần trước kia, con của Athena thực hiện cùng một nhiệm vụ.
“Tôi sẽ không thành một bộ xương nữa trên sàn phòng của ông đâu,” cô nói với bức tượng, hi vọng tiếng mình nghe có vẻ dũng cảm.
Một con bé, một giọng nhạt nhẽo cất lên, vang vọng khắp phòng. Đàn bà con gái không được chấp nhận.
Một nữ á thần, giọng thứ hai bảo. Không thể tha thứ được.
Căn phòng rung ầm ầm. Bụi rơi xuống từ trần nhà bị nứt. Annabeth phóng về cái lỗ cô đã chui qua, nhưng nó đã biến mất. Dây của cô bị cắt đứt. Cô trèo lên băng ghế và đập vô bức tường nơi từng có cái lỗ, mong rằng sự vắng mặt của nó chỉ là ảo ảnh, nhưng bức tường rất rắn.
Cô bị bẫy.
Dọc những băng ghế, một tá các bóng ma lung linh hiện ra – những người đàn ông ánh tím mặc áo chùng La Mã, như các thần Lar cô từng thấy ở trại Jupiter. Họ nhìn cô chằm chằm như thể cô phá đám cuộc họp của mình vậy.
Cô làm điều duy nhất có thể. Cô bước xuống khỏi băng ghế và quay lưng lại lối vào bít gạch. Cô cố tỏ ra tự tin dù những bóng ma màu tím cau có và các bộ xương á thần dưới chân khiến cô chỉ muốn rụt cổ vào trong chiếc áo phông của mình mà hét.
“Tôi là một đứa con của Athena,” cô nói, mạnh dạn hết mức có thể.
“Một đứa Hy Lạp,” một trong những bóng ma ghê tởm nói. “Còn tồi tệ hơn nữa.”
Ở đầu kia căn phòng, một bóng ma trông già nua khó nhọc đứng dậy (ma có bị viêm khớp không nhỉ?) và đứng cạnh án thờ, đôi mắt đen nhìn chăm chăm Annabeth. Ý nghĩ đầu tiên của cô là trông ổng như Đức Giáo Hoàng. Ổng có áo choàng lấp lánh, mũ nhọn và cây trượng mục sư.
“Đây là hang động của Mithras,” bóng ma già nói. “Cô đã quấy rầy nghi lễ thiêng liêng của bọn ta. Cô không thể biết được bí mật của chúng ta mà vẫn sống sót được.”
“Tôi đâu có muốn biết bí mật của các ông cơ chứ,” Annabeth trấn an ông ta. “Tôi đang lần theo Dấu hiệu Athena. Chỉ tôi lối ra và tôi sẽ tự đi đường mình.”
Giọng cô bình tĩnh tới mức làm chính mình ngạc nhiên. Cô không biết làm sao ra được khỏi đây nhưng cô biết mình phải thành công ở nơi anh chị em mình đã thất bại. Con đường của cô đã dẫn đi xa hơn – sâu hơn vào các tầng đất dưới lòng Rome.
Những thất bại của các kẻ tiền nhiệm sẽ chỉ dẫn cô.Sau đó… ta không biết.
Các bóng ma thì thầm với nhau bằng tiếng latin. Annabeth chộp được vài lời không hay về nữ á thần và Athena.
Cuối cùng, bóng ma đội mũ Giáo Hoàng gõ cây trượng mục sư của mình lên sàn phòng. Những thần Lar khác rơi vào im lặng.
“Nữ thần Hy Lạp của cô bất lực ở đây,” giáo hoàng bảo. “Mithras là vị thần của các chiến binh La Mã! Ngài là vị thần của quân đoàn, vị thần của đế chế!”
“Ổng còn chả phải người La Mã nữa,” Annabeth phản đối. “Phải không hả, kiểu như người Ba Tư hay gì gì đó?”
“Phạm thánh!” lão già hét lên, đập cây gậy của mình lên sàn phòng vài lần nữa. “Mithras bảo vệ chúng ta! Ta là pater của hội huynh đệ này...”
“Người cha,” Annabeth dịch ra.
“Đừng có cắt ngang! Là pater, ta phải bảo vệ bí mật của chúng ta.”
“Bí mật nào?” Annabeth hỏi. “Một tá người chết mặc toga ngồi quanh cái động hở?”
Các bóng ma làm bầm với phàn nàn tới khi pater đưa họ về dưới sự kiểm soát bằng một tiếng huýt gọi taxi. Lão già có bộ phổi tốt thật. “Cô là một kẻ vô tín. Như những tên khác, cô phải chết.”
Những tên khác. Annabeth gắng không nhìn những bộ xương.
Tâm trí cô làm việc điên cuồng, nắm bắt bất cứ điều gì cô biết về Mithras. Ông ta có một giáo phái bí mật cho các chiến binh. Ông ta rất nổi tiếng trong quân đoàn. Ông ta là một vị thần, người đã thay thế Athena làm thần chiến tranh. Aphrodite đã nhắc tới ông ta trong bữa trà tán gẫu của họ ởCharleston. Ngoài ra, Annabeth chả biết gì nữa. Mithras không phải là một trong những vị thần họ nói tới ở Trại Con Lai. Cô nghi ngờ các bóng ma sẽ chẳng đợi cô rút máy tính xách tay của Daedalus ra rồi tìm một phát đâu.
Cô lướt nhìn sàn phòng khảm đá – bảy bức tranh một hàng. Cô nghiên cứu các bóng ma và nhận thấy tất cả đều đeo cùng một vài loại huy hiệu trên áo toga – một con quạ, ngọn đuốc hay cây cung.
“Các ông có các nghi lễ thông hành,” cô buột miệng. “Bảy cấp bậc thành viên. Và cấp cao nhất là pater.”
Các bóng ma hít vô tập thể. Rồi họ bắt đầu la lớn cùng lúc.
“Làm sao cô ta biết được?” Một người gặng hỏi.
“Con nhóc đã soi ra bí mật của tụi ta!”
“Im lặng!” Vị pater ra lệnh.
“Nhưng cô ta có thể biết về các thử thách!” Một người khác thét.
“Các thử thách!” Annabeth bảo. “Tôi biết về chúng!”
Một màn há miệng hoài nghi nữa.
“Vớ va vớ vẩn!” Vị pater hắng lên. “Con nhóc nói dối! Con gái Athena, chọn cách chết đi. Nếu cô không chọn, thần sẽ chọn cho cô!”
“Lửa hoặc dao hả,” Annabeth đoán.
Cả vị pater trông cũng kinh hoàng. Chắc chắn lão ta không biết là có các nạn nhân bị trừng trị trước đây nằm dưới sàn.
“Làm... làm sao cô…?” Lão nuốt khan. “Cô là ai?”
“Một đứa con của Athena,” Annabeth lại nói. “Nhưng không phải một đứa bất kỳ. Tôi là… à, mater hội tỷ muội của tôi. Thực ra là Magna mater. Chẳng có gì là bí mật đối với tôi. Mithras chẳng che giấu được gì khỏi tầm mắt của tôi.”
“Magna mater!” Một bóng ra rền rĩ tuyệt vọng. “Mẹ cả!”
“Giết nó!” Một trong những bóng ma tấn công, tay gã giơ ra bóp cổ cô nhưng lại xuyên thẳng qua người cô.
“Ông chết rồi,” Annabeth nhắc gã nhớ. “Ngồi xuống đi thôi.”
Bóng ma trông bối rối quay lại chỗ ngồi.
“Chúng ta không tự tay giết cô,” vị pater càu nhàu. “Mithras sẽ thay bọn ta làm điều đó!”
Bức tượng trên án thờ bắt đầu sáng lên.
Annabeth tì tay vào lối đi bít gạch sau lưng. Đó phải là lối ra. Vữa đang nát ra, nhưng không đủ yếu để cô phá ra bằng sức mạnh tay chân.
Cô tuyệt vọng nhìn quanh phòng – trần nhà nứt toác, sàn khảm, bích họa và án thờ chạm trổ. Cô bắt đầu nói, giải trừ các suy diễn đặt lên mình.
“Không ích gì đâu,” cô bảo. “Tôi biết tất. Các ông kiểm tra các đồng đạo nhập môn của mình bằng lửa bởi đuốc là biểu tượng của Mithras. Một biểu tượng khác của ngài ấy là dao găm, đấy là lý do tại sao các ông lại có thể được kiểm tra bằng dao. Các ông muốn giết tôi… a, như Mithras kết kiễu con bò thiêng chứ gì.”
Toàn là đoán cả, nhưng án thờ khắc hình Mithras giết con bò mộng nên Annabeth phát hiện ra nó rất quan trọng. Các bóng ma rền rĩ và bịt tai lại. Một số tự vả vô mặt như mới tỉnh giấc khỏi cơn ác mộng.
“Mẹ cả biết đấy!” một kẻ nói. “Không thể nào!”
Trừ phi ông nhìn quanh phòng, Annabeth nghĩ, tự tin dâng lên.
Cô chằm chằm nhòn bóng ma mới nói. Ông ta đeo huy hiệu quạ trên toga – cùng biểu tượng với sàn phòng dưới chân cô.
“Ông chỉ ở cấp quạ thôi,” cô mắng. “Đấy là cấp thấp nhất. Im đi và để ta nói với pater của ông.”
Bóng ma rùng mình. “Chao ôi! Chao ôi!”
Phía trước căn phòng, vị pater run lên – hoặc giận hoặc sợ, Annabeth không chắc là tại cái nào. Mũ giáo hoàng nghiêng về một bên như một máy đo khí giảm dần tới mức chân không. “Quả nhiên, cô biết rất nhiều, mẹ cả à. Trí khôn của cô rất tuyệt, nhưng đó là tất cả lý do tại sao cô không thể rời đi được. Người thợ dệt đã cảnh báo chúng tôi cô sẽ tới.”
“Người thợ dệt…” Annabeth cảm thấy nôn nao nhận ra điều vị pater đang nói: thứ trong bóng tối từ giấc mơ của Percy, kẻ canh giữ ngôi đền. Đây là lần duy nhất cô mong sao mình đừng biết câu trả lời, nhưng cô cố duy trì sự bình tĩnh. “Mụ thợ dệt sợ tôi. Bà ta không muốn tôi lần theo Dấu hiệu Athena. Nhưng các ông sẽ để tôi qua.”
“Cô phải chọn một thử thách!” Vị pater khăng khắng. “Dao hay lửa! Sống sót qua một thử thách, và rồi, có khi được!”
Annabeth nhìn xuống những khúc xương của anh em mình. Những thất bại của các kẻ tiền nhiệm sẽ chỉ dẫn cô.
Họ đều đã chọn cái này hoặc cái kia: lửa hay dao. Có lẽ họ đã nghĩ mình có thể vượt qua thử thách. Nhưng họ đều chết cả. Annabeth cần lựa chọn thứ ba.
Cô nhìn bức tượng trên án thờ đang sáng hơn qua từng giây. Cô có thể cảm nhận sức nóng của nó từ bên kia phòng. Bản năng của cô là tập trung vào con dao hoặc ngọn đuốc, nhưng thay vào đấy, cô lại tập trung vào cơ sở bức tượng. Cô tự hỏi sao chân nó lại kẹt trong đá. Rồi ý nghĩ nảy ra trong cô: có lẽ bức tượng nhỏ của Mithras không bị mắc kẹt trong đá. Có lẽ ông ta đang trồi lên từ đá.
“Không phải đuốc hay dao,” Annabeth chắc chắn nói. “Có một bài kiểm tra thứ ba, bài mà tôi sẽ vượt qua.”
“Một bài kiểm tra thứ ba?” Vị pater hỏi gặng.
“Mithras sinh ra từ đá,” Annabeth nói, hy vọng mình đúng. “Ngài ấy sinh ra và lớn lên hoàn toàn từ đá, cầm trong tay đuốc và dao.”
Tiếng la hét và rền rĩ mách cô biết mình đã đoán đúng.
“Mẹ cả biết tất!” Một bóng ma thét lớn. “Đó là bí mật được bảo vệ chặt chẽ nhất của chúng ta!”
Rồi có khi các ông không nên đặt một bức tượng về nó ngay án thờ, Annabeth nghĩ. Nhưng cô rất biết ơn những bóng ma nam ngu ngốc này. Nếu họ chấp nhận nữ chiến binh vào giáo phái, có khi lại học được chút tri thức thông dụng.
Annabeth đột ngột chỉ bức tường chỗ cô vừa đi qua. “Tôi sinh ra từ đá, như Mithras vậy! Do đó, tôi đã vượt qua thử thách của các ông rồi!”
“Phì!” Vị pater nhổ nước bọt. “Cô đến từ một cái lỗ trên tường! Không giống nhau gì sất.”
Được thôi. Thế rõ ràng là vị pater này không đần hoàn toàn, nhưng Annabeth vẫn giữ tự tin. Cô ngước nhìn trần nhà, một ý tưởng khác đến với cô – tất cả các chi tiết khớp vào nhau.
“Tôi từng điều khiển rất nhiều đá.” Cô giương tay lên. “Tôi sẽ chứng minh sức mạnh của mình vượt trên cả Mithras. Bằng một cú duy nhất, tôi sẽ đánh sập căn phòng này.”
Các bóng ma rền rĩ và run run nhìn lên trần nhà, nhưng Annabeth biết họ không thấy cái cô thấy. những bóng ma này là chiến binh, không phải kỹ sư. Con cái Athena có rất nhiều kỹ năng và không chỉ trong chiến đấu mà thôi. Annabeth đã học kiến trúc trong nhiều năm. Cô biết căn phòng cổ này trên bờ đổ sập đến nơi. Cô nhận thấy những khe nứt căng lực trên trần rất tệ, tất cả bắt nguồn từ một điểm duy nhất – đỉnh vòm đá ngay phía trên mình. Phần đá đỉnh sắp sụp và khi điều đó xảu ra, nếu cô có thể căn chuẩn thời gian…
“Bất khả thi!” Vị pater hét. “Người thợ dệt trả chúng ta rất nhiều cống phẩm để tiêu diệt bất cứ đứa con nào của Athena dám vào điện thờ của chúng ta. Bọn ta chưa bao giờ khiến bà ấy thất vọng. Bọn ta không cho cô qua được.”
“Các ông sợ sức mạnh của tôi!” Annabeth bảo. “Ông thừa nhận rằng tôi có thể hủy căn phòng thiêng liêng của các người!”
Vị pater cau mày. Lão khó khăn vuốt thẳng chiếc mũ của mình. Annabeth biết cô đã đặt lão vào một tình huống tiến thoái lưỡng nan. Lão không thể lùi bước mà không tỏ ra hèn nhát.
“Làm tệ hết sức đi, con gái Athena,” lão quyết định. “Không một kẻ nào có thể đánh sập hang động của Mithras, đặc biệt chỉ với một cú đập. Đặc biệt không phải là một con nhóc!”
Annabeth giơ cao con dao. Trần rất thấp. Cô có thể với tới viên đá đỉnh dễ dàng, nhưng cô phải tính toán vừa một cú thôi.
Lối vào phái sau cô đã bị bít, nhưng theo lý thuyết, nếu căn phòng sụp, nếu căn phòng bắt đầu sập, những viên gạch đó sẽ yếu đi và sụp đổ. Cô sẽ có thể phá lấy đường ra trước khi toàn bộ trần nhà sụp xuống – giả như thế, tất nhiên là thế, có cái gì phía sau bức tường gạch, không chỉ là đất cứng; và giả như Annabeth phải đủ nhanh, mạnh và may mắn. Nếu không, cô sẽ thành bánh kếp á thần[2].
[2] Bánh kếp làm bằng bơ, bột mì, trứng là chủ yếu.
“Này, các cậu trai,” cô bảo. “Có vẻ các người đã chọn nhầm thần chiến tranh rồi.”
Cô tấn công phần đỉnh. Lưỡi dao đồng Thiên Thai phá vỡ nó như một viên đường. trong khoảnh khắc, chả có gì xảy ra.
“Ha!” Vị pater hả hê. “Thấy chưa? Athena chả có sức mạnh quái gì ở đây sất!”
Căn phòng rung lắc. Một vết nứt chạy ngang chiều dài của trần phòng và phía bên kia hàng động sụp đổ, chôn vùi bàn thờ và cả vị pater. Các vết nứt rộng thêm. Gạch rơi xuống từ mái vòm. Các bóng ma la hét chạy loạn nhưng họ có vẻ như không xuyên qua được tường. Rõ ràng họ bị ràng buộc với căn phòng này kể cả khi đã chết.
Annabeth quay đi. Cô đập mạnh vô lối vào bị bít hết sức có thể và gạch rời ra. Khi hang động của Mithras nổ sập phía sau cô, cô lao vào bóng tối và thấy mình đang rơi.