Lớn lên trên đảo vắng - Phần I - Chương 03
I - Chương 3
CẢNH ĐẸP BÊN BỜ SUỐI – DỪA – QUẢ BÀU NẬM CHU MỸ - TÌM DẤU VẾT BẠN ĐỒNG HÀNH – MÍA – BẮT KHỈ HÁI DỪA – CON KHỈ NHỎ - BỮA ĂN NGON VỚI MÓN THỊT CHIM QUAY – BÁT ĐĨA MỚI – BÀN CÔNG VIỆC – BÁNH KHÔ PHẾT BƠ.
Bờ suối lởm chởm, chỉ ở gần cửa suối mới có một khoảng bằng phẳng rất hẹp, mấy lần chúng tôi đã ra đó lấy nước. Thấy thế, tôi rất vui mừng vì với địa hình đó, gia đình tôi ở bên này sẽ được yên ổn, mặt sau lều đã có những ngọn núi đá dựng đứng bảo đảm rồi. Muốn vượt suối, chúng tôi phải đi ngược lên đến chỗ nước chảy xối xuống theo một sườn dốc cao trở thành con thác. Chúng tôi bước hoặc nhảy rất thận trọng trên những hòn đá rải rác trong dòng suối và cuối cùng đã sang được bờ bên kia vô sự. Chúng tôi bèn rẽ sang bên trái, len lỏi rất khó nhọc trong đám cỏ cao đã gần khô cháy vì nắng để lần trở ra bờ biển. Tới đó có lẽ sẽ gặp ít trở ngại hơn trong khi đi đường.
Bên phải chúng tôi và cách chừng nửa dặm (Chừng 1,609m (đơn vị dặm Anh) có những chỏm núi trọc chạy dài song song với bờ suối từ chỗ chúng tôi lội qua. Đến đây đã bắt đầu thấy trên đỉnh núi có một đám cây xanh tươi đủ loại. Khoảng giữa những chỏm núi và bờ biển, đây đó có những vạt cỏ cao và những lùm cây chạy dài ra đến bờ biển. Vừa thảnh thơi ngắm cảnh đẹp, chúng tôi men theo bờ biển mà đi, hy vọng hoặc gặp trên mặt nước chiếc xuồng đã chở những bạn đồng hành, hoặc tìm được một vài dấu vết họ đổ bộ lên bờ. Nhưng quả là vô hy vọng! Chẳng có dấu chân họ trên cát mà cũng không có một thứ gì trong các bụi bờ chứng tỏ có người đã qua đó.
Cuối cùng, tới một cánh rừng nhỏ, chúng tôi bèn vào nghỉ chân cho mát. Một dòng suối trong chảy róc rách giữa rừng. Trên cây quanh chúng tôi, một bầy cơ man các giống chim lạ, đủ dáng, đủ màu đương bay, kêu và hót. Phân biệt chúng theo màu lông sặc sỡ có phần dễ hơn là theo tiếng kêu, giọng hót của chúng. Phrê-đê-rích có vẻ tay săn lành nghề, nhìn sâu vào trong rừng và thấy trên cành cây có một con thú nhỏ hình giống con khỉ, nhưng không chắc chắn vì nó chỉ thấy thoáng thôi. Bông nhiên con Tuyếc“gừ” một tiếng chói tai và ngửng đầu nhìn lên ngọn cây to, có vẻ lo lắng. Để xem là cái gì, Phrê-đê-rích bước vội quanh thân cây, bất ngờ dẫm lên một vật tròn lấp lánh trong cỏ. Nó trượt chân suýt ngã. Nó nhặt vật ấy lên đưa hỏi tôi. Nó tưởng là một tổ chim, vì thấy xung quanh có nhiều sợi kết lại. Tôi cười thằng bé về cái tật hay vội vã nhìn bề ngoài đoán mò chứ không chịu nhận xét cho kỹ. Tôi bảo nó:
- Đây chỉ là một loại quả khô và có thể là quả dừa.
Tôi lấy búa bổ đôi ra. Nhưng quả dừa đã già quá rồi, cùi dừa bên trong vừa khô vừa cứng, ăn không ngon nữa.
Thất vọng, chúng tôi lại tiếp tục đi xuyên cánh rừng, luôn luôn phải dùng búa để mở đường giữa cơ man những dây leo bắt chằng bắt chịt lấy nhau chắn đường. Cuối cùng rồi chúng tôi cũng đi tới một chỗ trống trải hơn: bên phải, rừng cây chạy dài cách chừng một tầm súng, trong đó nhiều cây đơn độc hình dáng lại lùng, mọc rải rác cách nhau. Phrê-đê-rích luôn luôn đi trươc nên đã chú ý đến những cây đó:
- Bố ơi! Xem này! Lạ lùng chưa? Nếu những cục gù trên cây kia không phải là những nụ nấm khổng lồ thì đúng là những quả ở thân cây chứ không phải trên cành.
Tôi lại gần và vui mừng vô cùng khi nhận thấy đó là một loại cây bầu ở châu Mỹ nặng trĩu những quả. Chúng tôi nhặt vài quả vừa lớn vừa nhỏ và tôi nói cho con tôi biết những người thổ dân Châu Mỹ đã dùng loại bầu này như thế nào. Vỏ quả bầu chắc và cứng, lại có thể uốn nắn được thành nhiều thứ đồ dùng: đĩa, chậu, bát uống nước và dụng cụ bếp núc kể cả nồi nấu thức ăn nữa. Để cho thằng bé ngơ ngác một chút rồi tôi mới giảng cho nó biết là họ không bắc thứ nồi này lên bếp lửa, họ chỉ đốt đỏ đá cuội lên rồi ném dần vào nồi cho tới khi thức ăn chín theo như ý muốn.
Ngay lúc đó, tôi lấy trong túi dết ra một cuộn dây nhỏ và thắt một cái nút thuyền chài, loại nút có thể rút chặt mấy cũng không tuột. Tôi lấy dây quấn quanh giữa quả bầu và, sau khi rút cái nút cho vừa chặt, tôi lấy sống dao đập mạnh vào sợi đây để in rõ cái đấu xuống chỗ để cắt. Sau đó tôi buộc một đầu dây vào cành cây rồi kép đầu kia thật mạnh, quả bầu đứt đôi ra ngay. Tôi móc hết đám ruột lùng nhùng bên trong và thế là đã có ngay hai cái vỏ chắc chắn và rất cứng. Phrê-đê-rích nhìn có vẻ thán phục lắm. Nó hỏi:
- Nhưng mà làm sao bố lại nghĩ ra được cách cắt bầu không phải dùng dao như thế? Kể cũng tài như là cách nấu nướng mà không cần đến lửa, hoặc ít ra thì cũng không dùng lửa để đốt.
- Bố nhớ là đã đọc thấy những điều ấy trong một cuốn sách kể chuyện du lịch. Đấy, con vốn ít thích đọc sách, con hãy nhớ lấy! Ta cần phải đọc nhiều sách và nhất là phải biết suy nghĩ và đem áp dụng những điều đã đọc được vào những hoàn cảnh cần thiết.
Chúng tôi làm luôn một tá những đồ đựng nhỏ hơn, và Phrê-đê-rích cũng đã khá quen tay trong việc đó. Nhưng khi gọt thìa thì kết quả có phần kém: thìa làm ra lại giống một cái môi hơn là thìa. Thằng con tôi có ý kiến ngay:
- Dẫu sao thì cũng vẫn tốt hơn những cái vỏ sò mỗi lúc thò vào múc xúp toàn bị bỏng tay.
Và tôi cũng nói thêm:
- Vả lại trong lúc cần, thì thứ gì cũng xong.
Chúng tôi xúc đầy cát vào vỏ bầu để khi phơi khô, bầu không bị dăn deo hoặc méo mó. Xong xuôi, chúng tôi ra đi, không quên ngó lại kỹ lưỡng và nhận xét xung quanh để lúc trở về có thể quay lại lấy nồi niêu bát đĩa. Đi được chừng hai tiếng đồng hồ nữa, chúng tôi tới mũi một dải đất chạy dài ra ngoài biển, dưới chân một ngọn đồi khá lởm chởm. Ở đây rất thuận tiện cho chúng tôi thực hiện mục đích dự định trong cuộc đi này, tìm dấu vết những bạn đồng hành trên tàu. Cũng phải bỏ nhiều hơi sức, chúng tôi mới lên được tới đỉnh đồi. Ở đó phóng được tầm mắt ra xa. Nhưng chỉ uổng công! Chúng tôi hướng chiếc kính viễn vọng rất tốt nhìn khắp nơi mà chẳng thấy một chút tăm hơi nào của những người xấu số. Trái lại, cảnh vật thì hiện ra trước mắt chúng tôi thật là duyên dáng, mộc mạc, vui tươi. Một cái vịnh sâu, ven bờ đầy cỏ tươi, hoa thắm tỏa rộng ra tới chân trời xanh biếc. Mặt nước biển phía trong hơi gợn những làn sóng nhẹ lấp loáng ánh nắng, những lớp đá màu xanh đạm nhạt, hương thơm thoang thoảng từ muôn ngàn cây cỏ… Cảnh vật yên tĩnh đáng yêu này cũng giúp cho chúng tôi nguôi bớt nỗi buồn.
Chúng tôi xuống dưới chân đồi và tiến về phía một cánh rừng nhỏ ở xa xa. Muốn đi tới đó, phải qua một cánh đồng mộc tuyền, một thứ cây sậy to lớn, chằng chịt lấy nhau, rẽ được một lối đi cũng khá vất vả. Tôi chặt một cây sậy, xem xét và thấy có nước chảy ra. Tôi nếm thử, thấy nước ngọt nên tin chắc rằng đúng là cây mía. Nhưng tôi cố giữ vẻ bình thản, định bụng dành cho Phrê-đê-rích niềm vui tìm ra được thứ cây quý giá. Tôi gọi bảo nó chặt lấy một cây sậy lớn như của tôi mà khua chung quanh, đề phòng rắn rết. Nó làm ngay theo lời tôi không chút nghi ngờ. Có cậy trong tay, nó vụt lung tung sang phải, sang trái rồi quay tít cây sậy, làm nước ngọt chảy ra dính nhớp nháp cả hai tay. Thằng bé dừng lại, xem xét dòng nước ngọt chảy ra từ khắp những chỗ nứt nẻ trên cây sậy, nếm thử và thấy ngay tầm quan trọng của sự phát hiện này. Nó kêu ầm lên, nhảy nhót cuống cuồng:
- Bố ơi! Bố ơi! Mía đây! Ồ, bố hãy nếm thử một chút! Tuyệt quá! Ồ, mẹ và các em chắc sẽ thích thú vô cùng khi con đưa mía về nhà!
Thế là nó chặt luôn mấy khúc mía, nhai lấy nhai để, nước ngọt chảy ròng ròng từ hai bên mép xuống cằm…
Thế rồi, vì tham ăn mà quên lượng sức, nó chặt luôn mười hai cây mía cỡ lớn nhất, bóc hết lá, bỏ thành một bó khá nặng, vác đi. Chúng tôi đi tới cánh rừng dừa, ngồi nghỉ và ăn bữa trưa. Trong khi chúng tôi sửa soạn cơm nước, một bầy khỉ vào loại khá lớn, thấy chúng tôi và nghe tiếng chó sủa thì sợ hãi, vội từ dưới gốc cây trèo vùn vụt lên cao, nhanh đến nỗi chúng tôi không kịp nhìn thấy chúng rõ ràng nữa! Lên tới ngọn cây, chúng nhìn xuống chúng tôi và nhăn nhó đủ kiểu hết sức buồn cười, rồi lại kêu lên những tiếng chói tai. Nhưng tất cả cái lối đón chào ồn ào đó chẳng làm cho tôi sợ chút nào. Tôi nhặt mấy hòn đá và ném mạnh hết sức lên phía chúng, nhưng cũng chỉ tới giữa chừng cây dừa là cùng còn chúng thì vẫn ngồi ngất ngưởng trên ngọn cây cao ngất. Bản năng hay bắt chước của chúng thúc đẩy chúng cũng ăn miếng trả miếng lại chúng tôi theo cách đó. Chúng giật những quả dừa vừa tầm tay và ném tới tấp xuống chúng tôi, nhiều đến kín cả mặt đất. Khi lũ khỉ đã hết cả “đạn dược” và những cây dừa ở phía ngoài đã trụi hết quả, chúng kéo nhau trốn cả vào trong rừng rậm. Lạ lùng vì thấy mưu mẹo của tôi và kết quả đạt được, Phrê-đê-rích cười như nắc nẻ khi nhìn những trò nhăn nhó và cuộc chạy trốn của lũ khỉ. Sau khi chúng đã trốn hết, chúng tôi bèn lại gần đống dừa, không còn sợ bị ném vỡ đầu. Chúng tôi nhặt dừa rồi kiếm một chỗ ở ngoài vòng hoạt động của lũ khỉ tinh nghịch để ăn một bữa trưa. Nhờ có món ăn phụ mới thêm, bữa ăn càng ngon lành. Trước khi đập vỡ quả dừa, tôi lấy cái khoan dùi thủng một lỗ để uống nước dừa. Nhưng vị nước dừa ở đây nhạt quá, không đúng như “Éc-nét tiên sinh” đã giới thiệu với chúng tôi nên cũng chẳng có gì thích thú. Trái lại, chúng tôi được thưởng thức một bữa thoả thích các món cùi bên trong, nhất là thứ cùi đương còn mềm và béo như kem sữa ở những trái dừa non. Chúng tôi nạo cùi non rồi ép nước mía vào khoắng lên, ăn thật thích miệng. Con Tuyếc thì không thể tận hưởng được cái thú ấy; chúng tôi bèn cho nó chỗ thịt tôm hùm mang theo từ lúc sáng và một miếng bánh khô tuy khá cứng nhưng cũng tạm đủ cho nó qua cơn đói lòng.
Trời đã ngả chiều, không nên phiêu lưu quá xa nữa, chúng tôi tính chuyện trở về. Trong đám dừa còn nguyên vẹn, tôi chọn một số quả còn dính cuống, buộc túm lại với nhau rồi quẩy lên vai. Phrê-đê-rích vác bó mía và thế là chúng tôi quay trở về. Hai cha con đều nặng trĩu quả.
Chẳng mấy chốc đã trở lại chỗ ban sáng phơi nồi niêu bát đĩa bằng vỏ bầu. Những thứ đó đều đã hoàn toàn khô cứng cho nên cũng dễ mang về và tôi nhận nhiệm vụ ấy. Trong khi đi xuyên qua cánh rừng chúng tôi đã nghỉ chân ăn bữa sáng, con Tuyếc bỗng nhảy vụt ra phía trước, hung hăng chồm vào giữa một bầy khỉ đương đùa giỡn trên đám cỏ: chúng không biết có chúng tôi đến. Vừa thấy con chó, cả bọn bỏ chạy tán loạn, trừ một con khỉ cái đã già, chập chạp hơn bọn kia, bị con chó vồ được và cắn chết trước khi chúng tôi kịp can thiệp. Con khỉ mẹ đáng thương đó cõng trên lưng một con khỉ con, có lẽ vì thế mà nó chậm chân hơn bọn kia. Bây giờ con khỉ nhỏ ấy đang nấp dưới đám cỏ mà nhìn cái cảnh khủng khiếp, nghiến răng kèn kẹn. Phrê-đe-rích đã quăng các thứ xuống đất để chạy nhanh lại, cố gắng tìm cách cứu con khỉ mẹ. Thấy vậy khỉ con mò ra khỏi chỗ nấp, nhảy phắt lên lưng thằng bé, bám riết lấy mớ tóc quăn, chặt đến nỗi thằng bé la thét, lắc đầu và làm đủ trò, con khỉ con vẫn không chịu buông.
Thấy con lung túng, tôi cười và tím cách gỡ con vật hoảng hốt và khiếp sợ ấy ra. Tôi bảo Phrê-đê-rích:
- Đó là một nét khôn ngoan của loài khỉ! Con vật non nớt đáng thương này chưa đủ sức để tự kiếm ăn. Bây giờ bị mồ coi mẹ, nó có ý muốn nhận con làm cha nuôi đấy! Nhưng liệu chúng tao sẽ dùng mày vào được việc gì, con vật đáng thương này!
Tôi vừa nói vừa vuốt ve con khỉ, bế nó vào lòng như bế một đứa trẻ con và nói tiếp:
- Chúng tao đã túng thiếu quá chừng, và chúng tao cũng đã có nhiều miệng ăn hơn là tay làm rồi đấy!
- Ờ, bố ạ! – Phrê-đê-rích nói – Xin bố, bố cứ để nó đó cho con và cho phép con chăm nom nó. Con sẽ chăm sóc nó thật chu đáo và biết đâu, do bản năng, một ngày kia nó lại chẳng giúp chúng ta phát hiện ra được một số quả ngon!
Tôi đồng ý và chúng tôi lại tiếp tục đi, để mặc cho con Tuyếc xơi xong bữa tiệc thịt khỉ, bởi vì chút ít thức ăn san sẻ lúc trưa không thể nào thỏa mãn được cái dạ dày háu đói của nó. Con khỉ con đã hơi yên dạ sau khi được chúng tôi vuốt ve, lại trèo lên ngồi trên vai Phrê-đê-rích và thế là tôi lại phải mang luôn cả bó mía nữa. Chúng tôi đi được chừng một khắc đồng hồ thì con Tuyếc chạy theo kịp, mõm còn dính máu đỏ ngòm. Vừa thấy con chó, con khỉ con lại tỏ vẻ vô cùng kinh khiếp. Nó vội nhảy khỏi vai Phrê-đê-rích, chui vào cánh tay và rúc đầu vào trong áo thằng bé. Mang con khỉ theo kiểu ấy cũng mệt lắm, cho nên chẳng mấy chốc thằng bé đã nghĩ cách giao cho con Tuyếc nhiệm vụ ấy. Nó bèn bảo con chó:
- Mày đã giết chết mẹ nó, bây giờ mày phải tạm thay mẹ nó, ít nhất cũng trong việc này.
Thế là nó buộc chú khỉ con lên lưng con chó, nhưng vẫn để dây dài cho con vật có thể xoay sở tự do. Nó lại buộc một cái dây nữa vào cổ con Tuyếc, nắm chặt lấy đầu kia đề phòng con chó bỏ chạy ra xa hoặc giận dữ với con khỉ nhỏ. Mới đầu, kỵ sĩ nhỏ và chó đều bực bội với cái lối vận chuyển đó. Nhưng sau một vài câu dọa dẫm kèm với những cái vuốt ve nhẹ nhàng, chúng quen dần và hơn nữa, chú khỉ con lại còn làm nhiều trò nhăn nhó tức cười, tỏ ra rất khoái chí.
Cứ thế mà đi mãi, chúng tôi đã tới bờ suối vượt qua lúc sáng khi nào không biết. Bên kia bờ suối là khu vực của gia đình chúng tôi. Thấy chúng tôi về, con Bi-ly báo hiệu trước tiên bằng một tiếng sủa dài, con Tuyếc trả lời lại cũng không kém. Tiếng sủa này to đến nỗi làm cho kỵ sĩ tí hon giật mình kinh sợ, nhảy một bước vừa hết tầm sợi dây buộc nó vào con chó, chúi đầu vào cánh tay Phrê-đê-rích, người bảo vệ nó. Cất được gánh nặng trên lưng, con chó lại chạy thằng một mạch, vượt qua dòng suối sang bờ bên kia. Vừa lúc đó, gia đình thân yêu của chúng tôi cũng chạy ra, kẻ trước người sau, từ xa reo lên vui mừng chào đón những người trở về. Chúng tôi mem theo bờ suối, đi đến chỗ cầu đá thiên tạo và chẳng mấy chốc đã được sum họp với những người thân yêu.
Bọn trẻ con vừa mới ôm lấy chúng tôi thì đã nhảy nhót reo lên:
- A, một con khỉ, một con khỉ con? Ồ, nhìn nó kháu quá nhỉ! Bắt được nó ở đâu thế! Làm thế nào mà bắt được nó?
- Rồi thì sẽ cho nó ăn gì? Nhưng mà anh Phrê-đê-rích, anh đem cái bó sậy kia về để làm gì thế? Những cái cục tròn tròn xung quanh có sơ mà bố mang về đó là những cái gì?
Ai cũng rối rít lên xung quanh chúng tôi. Ruýt-ly đỡ khẩu sung của tôi xuống. Éc-nét thì xách chùm dừa, bé Phrít giành lấy những trái bầu khô và vợ tôi mang dùm cái túi dết của tôi, Phrê-đê-rích đem mía chia cho các em.
Chúng tôi về tới lều và vui mừng thấy đã sẵn sàng một bữa ăn ngon lành. Một bên bếp thì đương nướng mấy con cá xóc quanh những cái xiên gỗ gác trên hai chạc cây cắm xuống đất. Trước bếp là một con ngỗng cũng xóc như thế, đương quay chín dần; mỡ vàng từ con ngỗng béo chảy ra nhỏ giọt vào những vỏ sò lớn xếp thành hang dưới đất. Giữa hai thứ chính: cá và ngỗng, trên bếp có đặt một cái nồi, mùi xúp sôi bốc thơm ngào ngạt. cuối cùng, cách bếp một quãng, một cái thùng lớn hôm qua tôi đã vất vả lắm mới đưa được từ ngoài bờ biển về, đã hé mở và để lộ những bánh phô mát Hà Lanh thượng hạng còn bọc kỹ trong giấy thiếc nên không bị nước mặn làm hỏng.
Nhìn thấy việc sửa soạn quá ư vừa ý cái dạ dày của chúng tôi, tôi thích thú nói lên:
- Như thế này tỏ ra “bà con ta” ở nhà cũng không chịu ngồi rồi trong khi chúng tôi đi vắng đấy nhỉ! Nhưng mà, này mẹ chúng nó, sao lại đi giết thịt một con ngỗng của chúng ta như thế kia? Tôi muốn nuôi cho chúng sinh sôi nảy nở, con đàn cháu đống để rồi đây sẽ trở thành một trong những nguồn thức ăn của chúng ta đấy mà!
- Bố nó cứ yên tâm! Cái món thịt quay ngon lành đó chẳng phải là từ đàn ngỗng chúng ta nuôi đâu! Nó là kết quả một cuộc săn của Éc-nét đấy! Thằng bé gọi con chim này bằng một cái tên lạ lùng nhưng nó cam đoan với tôi là thịt chim thì ngon đây!
Tôi đương định kéo dài thêm câu chuyện thì bà nội trợ đã gọi cả nhà vào ăn. Mỗi người tìm lấy một chỗ thuận tiện mà ngồi ăn. Chúng tôi bổ dừa ra lấy nước dừa, và trước hết cho con khỉ con uống cho đỡ đói, bởi vì nó chẳng muốn ăn bất cứ thứ gì đem lại cả. Bọn trẻ con bèn dùng khăn tay vào nước dừa rồi cho con khỉ mút; nó mút một cách thích thú và cuối cùng nó uống được nước dừa. Nhận thấy thức ăn thì rôm rả mà đồ đựng lại thiếu, tôi bèn cưa ngay mấy quả dừa ra làm đôi, nạo hết cùi dừa mềm bên trong, thế là mỗi người có một cái bát rất sạch sẽ. Vợ tôi múc xúp đổ vào bát cho cả nhà. Một niềm vui sướng lộ trên nét mặt bà nội trợ đảm đanh khi thấy mỗi người đều cầm một cái thìa vỏ bầu múc xúp trong bát vỏ dừa, ăn uống sạch sẽ và thuận tiện hơn trước đây nhiều.
Chúng tôi ăn uống rất thích thú. Trong khi ăn, tôi và Phrê-đê-rích được nghe kể chuyện ở nhà: Hai anh em, Ruýt-ly, và bé Phrít, đã bắt cá trên bờ vịnh thần tình thế như thế nào; bà vợ thân yêu và đảm đang của tôi đã đổ mồ hôi trán như thế nào để mở cho được cái thùng đựng pho mát, một món tráng miệng thú vị mà chúng tôi sắp được nếm.
Cơm nước xong thì mặt trời cũng sắp lặn, chúng tôi phải sửa soạn đi ngủ. Lũ gà mái đã yên chỗ trên nóc lều, vịt và ngỗng thì ẩn trong bụi cói và lau trong vịnh, tất cả báo hiệu giờ nghỉ ngơi. Chúng tôi chui vào trong chiếc lều mỏng manh. Hôm nay vợ tôi đã rải thêm một lớp rêu khô xuống dưới giường cho nên chúng tôi nằm ngủ lại càng êm hơn hôm qua. Ai vào chỗ nấy. Con khỉ nhỏ chen vào giữa Phrê-đê-rích và Ruýt-ly, hai người bảo vệ của nó lấy rêu phủ lên, sợ ban đêm nó lạnh. Tôi vào lều cuối cùng, đóng cửa lại và vui mừng lại được gần gũi gia đình thân yêu, tôi ngủ một giấc thật khoan khoái.
Chúng tôi ngủ yên ổn suốt đêm cho tới khi tiếng gà gáy sáng vui vẻ đánh thức tôi dậy. Tôi và vợ tôi dậy trước, còn lũ trẻ thì vẫn ngủ say sưa. Chúng tôi bàn nhau công việc ngày hôm nay:
- Này, E-li-da-bét thân mến! Tôi thấy quá nhiều việc cần thiết phải làm mà chẳng biết nên làm gì trước. Vả lại tôi nghĩ rất cần phải trở ra chiếc tàu vỡ một chuyến nếu chúng ta không muốn để cho lũ gia súc ngoài đó phải chết đói. Tôi lại có thể đem về một mớ những thứ có ích cho chúng ta trong hoàn cảnh này. Mặt khác, tôi cũng thấy còn biết bao nhiêu việc cần phải làm ở đây! Thế nào cũng phải dựng sớm một ngôi nhà chắc chắn để ở cho yên ổn hơn là dưới chiếc lều vải mỏng manh hiện nay.
Vợ tôi an ủi tôi:
- Cứ yên tâm, nhẫn nại và khéo sắp xếp thì mọi việc đều đâu vào đấy cả, bố nó ạ! Cứ thấy bố con đưa nhau ra chiếc tàu vỡ là tôi thấy rất lo lắng, nhưng vì thấy cần thiết đi như thế nên tôi cũng không dám ngăn cản nữa. Vậy hôm nay ta hãy làm mỗi việc đó cho chu đáo là đủ; những việc khác sẽ làm dần sau, ngày nào cho gọn ngày ấy…
Chúng tôi quyết định vợ tôi và ba đứa nhỏ sẽ ở lại trên đất liền, còn Phrê-đê-rích, khỏe mạnh và khéo léo nhất, sẽ cùng đi với tôi. Tôi bèn đứng dậy và đánh thức lũ trẻ:
- Dậy đi thôi! Dậy đi thôi! Nhanh lên! Trời đã sáng rồi và chúng ta còn nhiều công việc lắm đấy!
Tất cả những bộ mặt ngái ngủ ấy đều thò ra khỏi cái tổ rêu êm ấm. Phrê-đê-rích đáp lại trước nhất và chỉ một loáng nó đã ra khỏi lều. Bọn kia ra theo nó và chỉ một lát sau là lũ trẻ đã đòi ăn sáng. Chúng tôi chưa có lương thực gì ngoài một thùng bánh khô, bắt buộc bọn trẻ háu đói phải ăn vậy, mặc dầu bánh thì khô không khốc lại quá cứng! Đứa thì cố gắng ăn kèm với pho mát, đứa đem ngâm vào nước cho mềm đi đôi chút. Riêng chú Éc-nét vốn ít khi chịu bắt chước ai, cứ lò dò quanh một cái thùng vớt ở ngoài bờ bể về còn đóng kín nắp. Bỗng nó chạy lại phía tôi vui vẻ nói:
- Ồ này, bố ạ! Nếu có bơ mà quệt vào bánh mì thì dễ nuốt hơn, bố nhỉ!
- Tất nhiên, nhưng không có bơ thì đành nhịn vậy!
- Nhưng mà, bố ạ! Không thể mở cái thùng kia được hay sao?
- Con nói gì? Cái thùng nào?
- Kia, cái thùng to tướng ở đằng kia kìa! Đầy một thùng bơ đấy! Con biết chắc vì con thấy nó dò ra ở khe hở cái gì beo béo nhầy nhầy mà con đoán đích thị là bơ.
- Ôi! Cái nết kén ăn của con cũng đáng quý biết bao! –Tôi nói với Éc-nét! – Nếu con đoán đúng thì con được vinh dự hưởng miếng bánh phết bơ đầu tiên.
Chúng tôi chạy ùa cả lại bên cái thùng lớn ấy và tôi xác nhận ngay sự phát hiện quý giá đó của thằng bé. Phrê-đê-rích vốn rất tháo vát khi cần giải quyết ngay một việc gì, thì muốn nạy ngay mấy cái đai sắt phía trên mà mở nắp thùng ra. Mẹ nó không tán thành và bảo nó biết nếu làm thế thì chẳng mấy chốc mà phí hết bơ trong thùng, bởi vì nắng lên, bơ sẽ tan ra hết. Tôi bèn lấy cái khoan lớn, khoan một lỗ khá to đủ thò cái môi bằng gỗ vào múc một ít bơ đủ dùng cho hôm nay. Chúng tôi lấy ra được đầy một gáo dừa thứ bơ Hà Lan mặn và ngon, phết ngay một lớp lên bánh khô cho cả nhà. Thực ra thì bánh cũng chẳng bớt cứng đi chút nào, nhưng nhờ sáng kiến đem nướng bánh lên rồi phết bơ, nên cũng dễ ăn hơn và lại cũng ngon nữa.