Cô phương bất tự thưởng (Tập 1) - Chương 32
Chương 32
Khi tuyết ngừng rơi, Hà Hiệp trở về phủ phò mã.
Đêm qua vừa về đến nơi, sáng nay đã dậy sớm, vào cung gặp Công chúa, rồi vì việc của Đông Lâm mà bị các tướng quân vây lại ở phòng nghị sự luận đàm chiến sự, dù thân thể làm bằng sắt, Hà Hiệp cũng cảm thấy mệt mỏi.
Những ngày trước đây, trong mắt Hà Hiệp, phủ phò mã dù rực rỡ huy hoàng, vẫn thiếu chút sinh khí. Nay trên đường từ cung về nhà, hắn bỗng cảm thấy phủ phò mã thêm phần thân thiết, cũng thêm phần sợ hãi không dám đối mặt.
Hai cảm giác ấy đều vì một người.
Nơi Sính Đình ở luôn nhuộm trong màu sắc giống ánh mắt nàng, vang vọng những giai điệu tựa hơi thở của nàng.
Nàng cứ âm thầm len vào hơi thở của người khác, dẫn dắt trái tim người khác, mà bản thân nàng chẳng hề hay biết. Nhưng, đã từng có Hà Hiệp là ngoại lệ.
Mười lăm năm bầu bạn sớm hôm, Hà Hiệp đã từng len vào hơi thở Sính Đình, dẫn dắt trái tim nàng. Vẻ mặt Hà Hiệp không vui, sức khỏe không tốt, trong người hơi khó chịu... đều khiến Sính Đình lưu tâm. Đôi mắt thông tuệ khẽ chuyển, nàng có thể đoán được tâm tư của Hà Hiệp. Nàng đi dạo trong vườn, đánh đàn, nói cười hay làm bất cứ việc gì... chỉ mong hóa giải mọi nỗi niềm bất an của thiếu gia.
Có lúc Sính Đình khuyên một Hà Hiệp u sầu cầm kiếm, múa Kính An kiếm pháp. Nàng thay sang bộ y phục có ống tay rộng, hòa theo ánh kiếm của Hà Hiệp múa điệu Cửu thiên nhẹ nhàng uyển chuyển.
Thấu hiểu lòng nhau, Hà Hiệp rất đỗi thương yêu đóa hoa bên cạnh luôn làm dịu lòng mình.
Nam nhân trong thiên hạ, mấy người có được phúc phận này.
Phúc phận ấy đã từng thuộc về Hà Hiệp.
Thấy ánh mắt Sính Đình nhìn về phía mình, Hà Hiệp kinh ngạc phát hiện ra rằng, có được sự quan tâm của nàng thật quý giá, thực hài lòng biết chừng nào.
Hóa ra sự quý giá ấy không phải ở tiếng đàn, giọng hát, không phải bởi điệu múa lay động lòng người, hay vì nụ cười hấp dẫn, mà bởi cảm giác an tâm khi ở bên nàng.
Hóa ra phúc phận trời cho đến một ngày cũng sẽ biến mất như đã định sẵn.
Phúc phận đã từng của Hà Hiệp chẳng lẽ đời này kiếp này đã an bài thuộc về Sở Bắc Tiệp, vương gia của địch quốc, Trấn Bắc vương đã dùng kế tháo lui, khiêu khích Hà Túc động thủ với vương phủ Kính An, kẻ để lại Ly hồn bảo kiếm khiến Sính Đình lìa hồn?
Bước chân lên bậc thềm có chút trì hoãn.
Bậc cổng trước mắt quá cao, đó là bậc cổng phủ phò mã của Hà Hiệp. Dường như chỉ cần cao thêm chút nữa, nó có thể chắn trước cổng, khiến bên trong trở thành chốn lao tù vững chãi.
Hà Hiệp tự nguyện bước vào, nhưng không đồng nghĩa với việc bằng lòng ở đó cả đời.
Hà Hiệp cúi đầu nhìn những vết chai do kiếm mài mòn nơi lòng bàn tay. Bàn tay ấy có cả sức mạnh và sự linh hoạt, biết cách khéo léo luồn lách, giành thắng lợi cho bản thân.
Tứ quốc đã loạn.
Loạn thế chính là lạc viên của anh hùng.
Vốn là tướng tài bẩm sinh, lại xuất thân từ vương phủ Kính An, Hà Hiệp càng thêm vốn liếng để từ trên cao nhìn xuống quan sát thời cuộc. Trời sinh ra Hà Hiệp đã đứng nơi cao nhất trong chúng sinh nhốn nháo này.
Nhưng, một người khác cũng có vốn liếng hùng hậu như thế, Sở Bắc Tiệp xuất thân cao quý, văn võ song toàn, có tài trị quốc, dũng tướng mưu lược trên sa trường. Quan trọng hơn cả, Sở Bắc Tiệp cũng có khí thế và phong độ khiến người khác thần phục.
Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp, cũng giống như lưỡng cầm Quy Lạc, Dương Phượng và Bạch Sính Đình, cả đời này luôn được đặt cạnh nhau.
Dương Phượng và Sính Đình từ nhỏ đã là hảo hữu.
Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp sinh ra đã là kẻ thù.
Sính Đình đã trở về, Sở Bắc Tiệp không có được nàng, cũng giống như chẳng bao giờ có được thiên hạ.
Ánh mắt toát ra sự kiên quyết, Hà Hiệp ngẩng cao đầu cất bước, qua bậc cổng cao của phủ phò mã.
Vội vã tiến đến tiền sảnh, vòng qua hành lang gấp khúc bên đầm nhỏ, bước chân bỗng khựng lại sau bức bình phong bằng đá, Hà Hiệp chăm chú nhìn bóng dáng trong tiểu đình.
Trên bàn đá trong đình đặt chiếc đàn cổ, khói hương vương vất.
Sính Đình ngồi trước cây đàn, lặng lẽ xoa đầu đàn, như muốn lau sạch vết bẩn nơi đó.
Thấy cảnh này, Hà Hiệp bỗng nhớ ra, đã rất lâu rồi mình chưa được nghe tiếng đàn của Sính Đình.
Hà Hiệp luôn là người ngồi gần Sính Đình nhất, ngắm nhìn mười ngón tay đẹp như tạc bằng ngọc đặt trên đàn cổ, nghe dây đàn run rẩy xướng lên những âm thanh đẹp đẽ, vút bay lên trời, khiến mây lững lờ trôi cũng phải dừng lại lắng tai.
Lâu lắm rồi không được nghe tiếng đàn quen thuộc, Hà Hiệp không dám kinh động Sính Đình, lặng lẽ đứng sau bình phong, chờ tiếng đàn cất lên. Tiếng đàn biết an ủi trái tim mệt mỏi của hắn, dẫn hắn về quê hương phương xa.
Hình như không có tâm tư chơi đàn, Sính Đình chỉ cúi đầu, khẽ xoa cây đàn, ánh mắt thẫn thờ dừng trên những dây đàn thanh mảnh.
Hương vẫn đang cháy, đốm đỏ dần thấp xuống, cố sáng hồi cuối, rồi tắt lịm.
“Sao không đàn?” Hà Hiệp bước ra sau bình phong, giẫm lên con đường rải đá xanh quanh co dưới tuyết, dừng trước đình.
Như không nghe thấy gì, Sính Đình vẫn thẫn thờ ngồi nhìn cây đàn.
“Đàn nay do ta sai người mua từ Quy Lạc về, muội thích không?”
Có lựa lời thăm hỏi thế nào, Hà Hiệp cũng không thấy câu trả lời. Từ khi lên ngựa, Sính Đình chẳng hề nói lời nào với hắn.
Nàng đã trở về đây, nhưng trái tim thì để lại Đông Lâm.
Một lúc sau, Hà Hiệp thở dài: “Bữa tối muội muốn ăn gì, cứ bảo nhà bếp làm. Trong phủ có hai đầu bếp Quy Lạc, giỏi nhất món chân giò hương tỏi và các loại dưa món.” Nói xong định quay về phòng nghỉ ngơi, nhưng đi được vài bước, Hà Hiệp lại quay đầu, hạ giọng nói thêm một câu, “Lâu lắm không được nghe tiếng đàn của muội,” sau đó bước đi.
“Muội cũng... lâu lắm không được xem thiếu gia múa kiếm trong tuyết.”
Thanh âm nhẹ nhàng như gió thoảng, vang lên sau lưng, Hà Hiệp kinh ngạc quay người, mắt lấp lánh niềm vui, hạ giọng: “Muội muốn xem không?”
Sính Đình quay đi, lặng lẽ thở dài: “Thiếu gia không mệt sao? Đêm qua mới trở về, sáng nay đã phải ra ngoài.”
Hà Hiệp xúc động nhìn nàng, nở nụ cười dỗ dành: “Có muội xem, mệt sao được?”
Kiếm sắc rút ra khỏi bao, thân hình Hà Hiệp nhanh như chớp.
Như giao long gặp nước, thoải mái vẫy vùng, lại như dây mây cuốn vào thân cây, biến ảo khôn lường.
Đường kiếm như nước chảy mây trôi, khí thế ngút trời.
Sính Đình dựa vào đình, lặng lẽ ngắm nhìn.
Ánh mắt nàng dịu dàng như khói nước, khiến mọi nỗi mệt mỏi của Hà Hiệp tiêu tan.
Hà Hiệp cầm kiếm bay vút lên cao, khi quay lại, ánh mắt nhìn thẳng vào mắt Sính Đình.
Trong thoáng chốc, vương phủ Kính An yên vui như đang ở ngay đây.
Tất cả vẫn như chưa hề thay đổi. Phụ mẫu vẫn còn, cửa nhà vẫn nguyên, những điều kiện hắn vẫn cố giữ gìn và tự hào, vẫn nguyên vẹn.
Năm tháng kiêu ngạo, phong hoa tuyết nguyệt chưa từng mất đi.
Hà Hiệp múa một đường kiếm nghiêng, trổ hết chiêu thức của bản thân, như muốn lưu lại những ngày tháng xưa kia in dấu sâu đậm trong lòng.
Gió Bắc lạnh buốt không ngăn được hào khí trào dâng. Hết bài múa kiếm, Hà Hiệp mồ hôi đầm đìa, khoáng đạt giơ ống tay áo lau mồ hôi trán, cười nói: “Tiếp tục!”
Mũi kiếm chếch xuống dưới bỗng dừng lại, thân hình thay đổi, tựa như rồng sắp bay lên trời, chuẩn bị bùng phát. Đây chính là Kính An kiếm pháp Sính Đình vẫn yêu thích.
Tằng...
Ánh kiếm tựa giao long du ngoạn bốn phương, tiếng đàn mãnh liệt không hẹn mà vang lên, thúc giục thế kiếm.
Hà Hiệp vô cùng phấn chấn, từng chiêu, từng thức không hề trì trệ, thế kiếm bỗng đổi, tiếng đàn càng vút cao, như tiếng rồng gầm thét.
Múa kiếm gảy đàn, phối hợp ăn ý, chẳng chút tì vết.
Hà Hiệp ung dung múa hết bộ Kính An kiếm pháp, khúc Cửu thiên cũng kết thúc dưới ngón tay Sính Đình.
Chiêu kiếm cuối cùng dừng lại, tiếng đàn theo đó ngưng bặt.
Hai đôi mắt thâm trầm gặp nhau giữa không trung, cảm giác quen thuộc mà phức tạp bỗng ào tới.
Sính Đình, muội cũng giống ta, chưa từng quên quá khứ.
Trong lòng muội vẫn có vương phủ Kính An, vẫn có tiểu Kính An vương!
Ngoài Sở Bắc Tiệp, vẫn còn có chỗ cho người khác trong lòng muội, đúng không?
Vẫn có!
Trời đất bỗng im ắng vô cùng.
Không biết bao lâu sau, ánh mắt gặp nhau giữa không trung mới từ từ tách ra. Sính Đình nhìn về một nơi nào đó phía sau Hà Hiệp.
Hà Hiệp như có cảm giác, thình lình quay đầu lại.
Một dáng hình tao nhã kiều diễm lọt vào tầm mắt Hà Hiệp.
Diệu Thiên công chúa nổi bật trong chiếc váy dài màu tím long trọng, trên vai khoác áo lông chồn trắng tinh, đầu đội mũ phượng trân châu cầu kỳ, cổ đeo chuỗi vòng đá quý sáng lấp lánh.
Đôi môi Diệu Thiên hồng đào, mắt sáng như sao.
Tám thị nữ phía sau Công chúa đều cúi đầu nhìn xuống, đứng một bên hầu hạ.
Thấy Hà Hiệp quay lại, Diệu Thiên khoan thai nở nụ cười, khen ngợi: “Lần đầu tiên thiếp được ngắm Phò mã múa kiếm trong tuyết.” Ánh mắt Công chúa chuyển đến phía sau Hà Hiệp, dịu dàng, “Song cầm Quy Lạc, quả nhiên danh bất hư truyền. Bạch cô nương, ngưỡng mộ từ lâu.”
“Công chúa điện hạ.” Ngón tay ngọc rời khỏi cây đàn, Sính Đình chậm rãi đứng dậy, cách một tiểu đình, hướng về phía Diệu Thiên công chúa hành lễ từ xa.
Sắc mặt Hà Hiệp bỗng thay đổi, thoáng sau đã mỉm cười: “Công chúa tới từ khi nào vậy?” Hà Hiệp thu kiếm, đến bên và nắm tay Diệu Thiên, “Lạnh thế này, sao không gọi ta một tiếng, lại đứng trong tuyết thế kia?”
“Tiếng đàn hòa điệu kiếm trong tuyết, cảnh đẹp khiến lòng người say mê, ai nỡ làm đứt đoạn?” Diệu Thiên hiền thục để Hà Hiệp dắt tay.
Họ vào đại sảnh ngồi. Thị nữ nhanh chóng dâng trà nóng. Đều có tâm sự riêng, ba người cúi đầu thưởng trà, nhìn khói tỏa vẩn vơ, nhất thời im lặng.
Diệu Thiên công chúa thân phận tôn quý nhất, tất nhiên ngồi vào vị trí chính giữa. Nàng nghiêng đầu đánh giá Sính Đình ngồi bên cạnh, hồi lâu bỗng cười nói: “Khúc nhạc lúc nãy Bạch cô nương gảy thật dễ nghe, không biết tên là gì?”
Sính Đình đặt chén trà xuống, không kiêu ngạo, không siểm nịnh mà đáp: “Tên là Cửu thiên.”
“Cửu thiên...” Diệu Thiên trầm ngâm nhắc lại cái tên, rồi gật đầu nói, “Điệu nhạc hay, tên cũng đẹp.”
“Công chúa quá khen.”
“Có thể đàn thêm một lần không?”
Hà Hiệp bất chợt đặt chén trà xuống, chưa đợi Sính Đình trả lời đã thân thiết hỏi: “Công chúa dùng bữa tối chưa? Biết Công chúa đến, ta đã dặn nhà bếp chuẩn bị mấy món điểm tâm của Quy Lạc. Lần trước nếm thử, Công chúa vẫn nói muốn dùng thêm mà?”
Vỗ tay mấy tiếng, Hà Hiệp gọi một thị nữ đến, dặn: “Mau mang những món điểm tâm đã chuẩn bị lên đây, cả rượu ta đem về, cũng đưa cả lên.”
Một lúc sau, điểm tâm và rượu ngon đã được mang lên. Toàn những món điểm tâm do đầu bếp Quy Lạc làm, vẫn nóng hổi, bên trên còn khéo léo khắc hình cánh hoa lung linh nhiều màu sắc khiến người ta thích mắt. Mỗi chiếc đĩa nhỏ bày năm món điểm tâm màu sắc khác nhau, phần nhân bên trong cũng khác nhau.
Hà Hiệp bảo thị nữ lui ra, tự tay rót chén rượu, đưa lên môi Diệu Thiên. Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp, ánh mắt khẽ dừng trên khuôn mặt không rõ biểu cảm của Sính Đình, ngoan ngoãn ngẩng đầu uống cạn chén rượu phu quân đưa lên, rồi thưởng thức hai món điểm tâm, không nói gì thêm, vẻ mặt bình tĩnh.
“Sính Đình, muội cũng nếm thử xem,” Hà Hiệp nhìn về phía Sính Đình.
Trên chiếc bàn bên cạnh Sính Đình cũng có ba, bốn chiếc đĩa nhỏ. Nàng cúi xuống nhìn, lắc đầu nói: “Sính Đình không ăn điểm tâm vị táo, thiếu gia quên rồi sao?”
“Tất nhiên ta không quên,” Hà Hiệp đáp, “Muội không thấy trên món điểm tâm có sợi cà rốt ư? Điểm tâm vị táo đều đổi sang nhân cà rốt, còn thêm cả mật ong bên trong.”
Sính Đình khẽ lấy một cái, tách ra xem, bên trong đúng là nhân cà rốt, còn có cả mùi thơm thoang thoảng của mật ong. Sính Đình nhẹ nhàng nếm thử, ánh mắt sáng lên: “Vị còn ngon hơn trước kia, thiếu gia đã cho thêm thứ gì?”
Hà Hiệp liếc nhìn Diệu Thiên, rồi trả lời cho có: “Cũng không có gì, chỉ là dùng loại mật ong tươi của mùa đông. Trên vùng núi tuyết gần thành đô Vân Thường có loại ong mật không sợ lạnh.”
Món điểm tâm hương vị quê hương ngon một cách lạ kỳ, Sính Đình nếm thử một chút, bỗng thấy thèm ăn, mấy món điểm tâm trong đĩa chỉ to bằng đầu ngón tay, nhìn thì đẹp nhưng thật chẳng thấm tháp vào đâu. Sính Đình nhã nhặn ăn hết năm phần điểm tâm, ánh mắt nhìn sang đĩa điểm tâm của Hà Hiệp.
“Chỉ đĩa của muội có vị cà rốt. Mấy đĩa này đều không phải. Sớm biết muội thích ăn như thế, ta đã bảo nhà bếp làm thêm một phần dự trữ rồi.” Ánh mắt Hà Hiệp lại nhìn về phía Diệu Thiên đang ngồi chính giữa, ân cần hỏi: “Lần trước Công chúa nói thích món điểm tâm nhà bếp làm, nên hôm nay ta chuẩn bị cho Công chúa mấy loại nhân đó. Công chúa có muốn nếm thử nhân cà rốt không?”
Diệu Thiên cười lãnh đạm: “Thiếp thích vị táo!” rồi với tay lấy bình rượu trên bàn.
Hà Hiệp muốn giúp Diệu Thiên, nhưng đã chậm một bước.
Sính Đình cầm bình rượu, chậm rãi rót đầy chén của Diệu Thiên công chúa, nở nụ cười thân thiết, giọng dịu dàng: “Tuyết đã ngừng bay, trăng cũng sắp lên. Hay chúng ta mở cửa sổ đại sảnh, để ánh trăng ùa vào, Công chúa uống rượu, nghe Sính Đình gảy đàn, vừa giải sầu, lại tao nhã, được không?”
“Nghe đã thấy dễ chịu rồi.” Diệu Thiên gật đầu, sai người mở cửa sổ đại sảnh. Trời đông ngày ngắn, từ tiểu đình trở vào đại sảnh chưa quá một canh giờ, mà màn đêm đã buông. Trăng sao rất sáng, chắc mai là một ngày nắng.
Trăng rải ánh vàng, chảy xuống đại sảnh cuồn cuộn như nước đổ.
Đám thị nữ chuyển chiếc bàn và đàn cổ Hà Hiệp chuẩn bị cho Sính Đình vào, đặt ngay ngắn lên bàn.
Sính Đình rửa tay, châm hương, khuôn mặt thanh tú thêm phần trang trọng. Nàng ngồi trước cây đàn, nín thở nhắm mắt, bàn tay lướt trên dây đàn, gảy khẽ.
Âm thanh run rẩy cực thấp vang lên, như tiếng nấc nghẹn của dây đàn.
Nghe tiếng đàn, Diệu Thiên thở dài một tiếng: “Đàn tốt, chẳng trách Phò mã không tiếc ngàn vàng mua về.” Nhìn sang Hà Hiệp, Công chúa lại tiếp tục tán tụng, “Cũng chỉ cây đàn tốt như vậy mới xứng với tài đánh đàn của Bạch Sính Đình.”
Hà Hiệp đáp lời Diệu Thiên bằng nụ cười yêu chiều, vẫn chẳng lên tiếng, chỉ dịu dàng vuốt ve ánh mắt Diệu Thiên.
Sính Đình thử âm, thấy tâm đã tĩnh, bèn ngẩng đầu lên hỏi: “Công chúa muốn nghe khúc gì?”
“Việc quan trọng này phải giao cho người thân quen với người gảy đàn.” Ánh mắt Diệu Thiên dừng trên khuôn mặt Hà Hiệp, giọng lãnh đạm: “Mời Phò mã thay thiếp chọn một khúc.”
Suy nghĩ giây lát, Hà Hiệp đáp: “Xuân cảnh, thế nào?”
Sính Đình khẽ gật, nhắm mắt tĩnh tâm, dưỡng thần, khi mở mắt, ánh nhìn đã thêm vẻ tự tin và thần thái không dễ khinh thường.
Nàng giữ dây đàn, thuần thục gảy tay.
Tiếng đàn nhẹ nhàng hoàn toàn khác với âm thử khi nãy, ngoan cường cất tiếng.
Tiếng đàn vang đến đâu, sinh khí tràn đến đấy.
Đã không còn vẻ u ám lạnh lẽo của mùa đông, dường như lúc này thời gian đang trôi đi gấp gáp, khiến con người cũng cảm nhận được, đông qua xuân tới.
Điệu nhạc gấp gáp không hề khiến người nghe buồn chán, mà như đang thấy cả mưa xuân lất phất, bên mái hiên từng giọt mưa tí tách, dịu dàng trong trẻo.
Tiếng đàn càng lúc càng nhanh, rồi đến cao trào, sắc xuân rạng rỡ về khắp đất trời.
Vạn vật khoan khoái.
Chim chóc véo von xuyên qua những cánh rừng, cỏ non xanh rờn trên nền đất tuyết vừa tan, cây cổ thụ vươn mình đón gió, chuẩn bị thay áo mới.
Muông thú yên lặng cả một mùa đông đã thò đầu ra khỏi hang, trong phút chốc, chúng ùa hết ra ngoài, trêu đùa những nụ hoa còn đang e ấp.
Sắc xuân tuôn trào trong tiếng đàn, khiến cả không trung ngập đầy hương vị của mùa xuân.
Người trong sảnh nghe như mê như say, tưởng chừng nắng xuân tháng Ba đang bừng sáng, làm rạng rỡ lòng người.
Cuối cùng, tiếng đàn dần thấp, một ngày sắp tắt.
Chim chóc về tổ, muông thú kéo nhau đi tìm nguồn nước mát lành sau một ngày vui chơi mệt mỏi. Cỏ non như cũng cao hơn sau một ngày. Cây cổ thụ im lìm đứng đó, mỉm cười nhìn chú sóc cuộn mình ngủ trong cành lá.
Dư âm văng vẳng, hồi lâu không dứt.
Mãi một lúc sau, Diệu Thiên mới chợt tỉnh, thốt ra lời khen tự đáy lòng: “Trong thiên hạ có tiếng đàn hay đến nhường này. Phò mã bầu bạn với Bạch cô nương, quả là may mắn hơn ta không biết bao nhiêu lần.”
Sính Đình được khen mà không hề tự đắc, cung kính đáp: “Nay Sính Đình ở phủ phò mã, nếu Công chúa muốn nghe tiếng đàn, có thể gọi bất cứ lúc nào.”
Diệu Thiên vui mừng, gật đầu cười đáp: “Thế là tốt nhất. Có thể tiếp tục được không?”
“Tất nhiên rồi. Công chúa muốn nghe khúc gì?”
Diệu Thiên nghĩ một lát, hỏi: “Đã có cảnh xuân, chắc hạ thu đông cũng có khúc của mình?”
“Vâng. Xuân cảnh, Hạ sắc, Thu trùng, Đông ngữ.”
“Vậy thì...,” Diệu Thiên nhẹ nhàng cất tiếng, “Hãy đàn cho ta nghe đi.”
Sính Đình đáp một tiếng, ngồi thẳng lưng, hai vai hơi cao, đôi tay tiếp tục đặt trên dây đàn.
Tiếng đàn du dương uyển chuyển bay qua khung cửa sổ hoa lệ, vang vọng khắp phủ phò mã rộng lớn.
Xuân cảnh, hạ sắc, thu trùng, đông ngữ.
Cảnh xuân rạng rỡ, sắc hạ tươi tắn, trùng thu rả rích, tiếng đông tĩnh lặng.
Nơi tiểu đình cạnh đài hoa trong vương phủ Kính An khi xưa, đây là những khúc do Sính Đình phổ và Hà Hiệp cân nhắc tựa tên.
Hết khúc Xuân cảnh, lại đến Hạ sắc, thu đang xào xạc chậm rãi đến gần, lặng lẽ mà không vắng vẻ.
Tiếng đàn bay bổng khắp trong ngoài phủ như chốn thần tiên, chỉ đến khi tiếng đàn dừng lại, mọi người mới giật mình phát hiện ra, trong lúc dốc lòng say mê theo điệu nhạc, Thu trùng đã đến đoạn kết.
Gảy đàn vô cùng hại sức, Sính Đình miễn cưỡng chơi ba khúc liền vẻ mệt mỏi hiện rõ nơi đầu mày. Lúc này, hai tay nàng lại chạm vào dây đàn, chuẩn bị tiếp tục khúc Đông ngữ.
Hà Hiệp rất lo lắng, vội giơ tay ngăn lại, quay đầu nói với Diệu Thiên: “Công chúa, giờ là mùa đông, nghe Đông ngữ sẽ càng thêm buốt giá, còn xa mới bằng được Xuân cảnh, Hạ sắc và Thu trùng. Chi bằng không nghe Đông ngữ nữa, lưu lại chút dư âm, coi như là dư vị?”
“Phò mã nói rất đúng,” Diệu Thiên gật đầu, nhưng vẻ như chưa thỏa mãn, chậm rãi bình luận, “Ba khúc ban nãy mỗi khúc đều có đặc sắc riêng, nhưng nếu luận về khí phách, ta vẫn thích khúc Cửu thiên nghe ngoài hậu viện nhất.”
Không để Hà Hiệp đáp gì, Sính Đình đã tiếp lời Diệu Thiên công chúa: “Không nghe Đông ngữ, Sính Đình sẽ đàn Cửu thiên cho Công chúa nghe.”
Hà Hiệp đoán Diệu Thiên cũng thấy vẻ mệt mỏi của Sính Đình, hy vọng sẽ từ chối, nào ngờ Công chúa gật đầu, cười đáp: “Được.”
Hà Hiệp trong lòng không vui, cũng chẳng tiện lên tiếng, ánh mắt u ám, nhưng vẻ mặt vẫn hoàn toàn bình thản, yên tĩnh ngồi nghe.
Sính Đình lại ngồi ngay ngắn, hai tay đặt lên dây đàn.
Dây đàn run rẩy vung lên, phát ra những thanh âm đẹp đẽ, nhưng hình như không được réo rắt như lúc đầu. Hà Hiệp thầm kêu khổ, miễn cưỡng ngồi nghe, âm cao như đang dựng đứng trước vực sâu, vô cùng chông chênh.
Hơi thở Sính Đình bỗng trở nên nặng nề, bờ vai run rẩy rồi ngã ra sau. Hà Hiệp kêu thầm trong lòng, vội vàng nhảy khỏi ghế, kịp đỡ Sính Đình đang suýt chút nữa nhào xuống đất vào lòng mình, lo lắng gọi: “Sính Đình! Sính Đình!”
“Sao thế?” Diệu Thiên cũng hoảng hốt, đứng dậy bước qua.
Chẳng có thời gian trả lời Diệu Thiên, Hà Hiệp vội nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn nhìn rõ những khớp xương của Sính Đình, bắt mạch rồi ôm nàng vào lòng, vòng qua hành lang, cẩn thận đặt nàng lên chiếc giường trong phòng ngủ, sau đó mới trầm giọng nói với Diệu Thiên theo phía sau: “Mạch loạn. Cả đường vất vả, chắc Sính Đình mệt rồi.”
Diệu Thiên sững người, vẻ mặt áy náy: “Thiếp không nên lệnh cho Sính Đình đàn.”
Điều bất ngờ là, Hà Hiệp không an ủi nàng như thường ngày, mà quay sang nói chuyện khác: “Uống mấy thang thuốc, nghỉ ngơi vài ngày sẽ không sao,” rồi lấy giấy bút trên bàn sách trong phòng, tự tay kê đơn thuốc, sau đó dặn dò thị nữ đi chuẩn bị ngay.
Bận rộn một lúc, như sợ tiếng chân bên ngoài làm phiền Sính Đình, Hà Hiệp khẽ buông màn cho nàng, rồi quay đầu, thấy Diệu Thiên đứng phía sau, lặng im không nói.
Lúc này, tâm tư mới quay sang ái thê, giọng Hà Hiệp dịu dàng: “Công chúa mệt sao? Tẩm phòng của Công chúa đã được xức hương, mời Công chúa qua nghỉ trước một lúc, được không? Ta sẽ sang ngay.”
“Không cần đâu.” Trong lòng dạt dào tình cảm đến đây, giờ Diệu Thiên đã cạn hứng, cố cười đáp: “Thiếp chỉ đến thăm Phò mã, không dự định qua đêm.”
“Công chúa...”
“Chúng ta là phu thê, ngày tháng còn dài,” Diệu Thiên hạ giọng. “Phò mã vừa về, cũng nên yên tĩnh nghỉ ngơi một đêm.” Ánh mắt bình thản của Công chúa chuyển động về phía dáng hình kiều diễm đang nằm trong bức màn buông.
Hà Hiệp hạ giọng: “Sớm mai ta sẽ vào vương cung gặp Công chúa.”
Vẫn giọng nói cợt nhả đường mật như mọi khi, biểu cảm cũng vô cùng chân thành, nhưng nghe vào tai, Diệu Thiên lại thấy như Hà Hiệp đang thở phào.
“Thiếp đi đây.”
“Ta đưa Công chúa hồi cung.”
Trong lòng bực bội, nhưng ngại thân phận nên Diệu Thiên không thể để lộ, chỉ lắc đầu: “Không cần.”
Hai tiếng ấy thật gượng gạo, Hà Hiệp nhận ra ngay, bèn sững người, ánh mắt tinh nhanh sắc sảo nhìn chằm chằm Diệu Thiên.
Bị Hà Hiệp nhìn, Diệu Thiên lại thấy trong lòng bất an. Nàng rất coi trọng Hà Hiệp, biết rõ nếu để phu quân nghĩ mình là người đố kỵ, lòng dạ hẹp hòi, có thể sẽ mất đi sủng ái của Hà Hiệp. Diệu Thiên vội vã che giấu sự bất mãn do sơ suất để lộ ra ngoài vừa rồi, đổi sang ngữ khí ngượng ngùng, nói: “Dọc đường về biết bao người nhìn vào. Đã là phu thê, còn đưa tới đưa lui, khách sáo như người ngoài vậy...”
Hà Hiệp cười dịu dàng: “Công chúa nghĩ ngợi nhiều rồi. Chúng ta là phu thê, mãi mãi không bao giờ là người ngoài. Đưa tới hoàng cung sợ mọi người cười chê, vậy hãy để bản phò mã đưa Công chúa đến đại môn, được không?”
Diệu Thiên không nói gì, vẻ mặt vô cùng kiều diễm đầy chất nữ nhi, ngoan ngoãn để Hà Hiệp dắt tay.
Hai người thân mật ra đến đại môn, Hà Hiệp nói vô số lời ngọt ngào, tình cảm, khiến khuôn mặt gượng gạo của Diệu Thiên nở nụ cười tươi như hoa.
Bên cổng, thị vệ đã chuẩn bị sẵn xe ngựa, ánh đèn sáng lấp lánh soi rọi cả con phố sáng rực như ban ngày.
Hà Hiệp đích thân dìu Diệu Thiên lên xe, còn thò đầu vào trong dặn dò đôi ba câu rồi mới đứng sang một bên, nhìn theo đội xe vương cung rầm rập rời đi trong đêm yên tĩnh.
Đoàn xe đi được một quãng rất xa, chỉ còn là chấm nhỏ trong mắt, Hà Hiệp mới quay vào.
Đêm đã vào khuya, trời đất tĩnh lặng.
Giống như khúc nhạc của Sính Đình, tiếng đông tĩnh lặng.
Hà Hiệp không về phòng ngủ của mình, mà đi thẳng đến phòng Sính Đình. Thấy bước chân vào phòng, bóng người đứng bên giường kinh hãi. Nhìn rõ là Hà Hiệp, người ấy vội vàng cúi đầu hành lễ: “Phò mã,” ánh mắt thoáng tia bất bình.
Nhận ra là thị nữ của Sính Đình, ánh mắt Hà Hiệp chỉ nhìn qua một cái, rồi dừng trên khuôn mặt Sính Đình, vô cùng dịu dàng.
Túy Cúc đang đứng cạnh Sính Đình, biết rõ phòng của Hà Hiệp ở bên kia, không nghĩ Hà Hiệp lại đến đây vào lúc này, nhưng thấy Hà Hiệp đến bên giường, dù gì hắn cũng là chủ nhân chỗ này, Túy Cúc đành tránh sang một bên.
Chẳng quan tâm đến Túy Cúc, Hà Hiệp ngồi bên giường, nhìn thật kỹ rồi đưa tay khẽ chạm vào khuôn mặt nhợt nhạt của Sính Đình. Nàng gầy đi nhiều.
Túy Cúc thấy rõ mọi việc, hai tay nắm chặt buông thõng bên hông, tim đập thình thịch.
Đêm khuya thanh vắng, cô nam quả nữ ở trong phòng ngủ riêng tư này, thật là lúc trời không biết đất chẳng hay. Nếu Hà Hiệp nảy sinh tà ý với Sính Đình thì phải làm thế nào?
Hà Hiệp vẫn hoàn toàn không hay biết tâm trạng lo lắng của Túy Cúc, ngón tay vẫn vuốt ve lông mày, đôi mắt, làn môi hồng của Sính Đình, ánh mắt yêu thương nhìn nàng say ngủ.
Dõi theo nhất cử nhất động của Hà Hiệp, mỗi động tác Hà Hiệp chạm vào Sính Đình, Túy Cúc đều lo lắng không yên, chỉ mong ngón tay kia nhanh chóng rời khỏi khuôn mặt Sính Đình, lại lo bàn tay ấy sẽ chuyển đến nơi khiến người ta sợ hãi.
Vương gia, phải làm sao bây giờ?
Vương gia còn không đến, đại sự sẽ chẳng hay đâu!
Lần đầu tiên trong đời, Túy Cúc thấy oán hận Sở Bắc Tiệp.
Túy Cúc đang lo lắng đến gần như ngạt thở, bỗng nhiên bàn tay ấy rời khỏi khuôn mặt Sính Đình, Hà Hiệp đứng dậy.
Lúc này, Túy Cúc mới dám thở phào một hơi, cứ ngỡ Hà Hiệp đã nhìn đủ rồi, chỉ mong hắn mau mau rời đi. Không ngờ, Hà Hiệp đứng lên, quay người, tháo đai lưng, rõ ràng định cởi y phục.
Ánh mắt sắc bén của Hà Hiệp nhìn về khuôn mặt trắng bệch của Túy Cúc, chau mày: “Còn ngây ra đó làm gì? Không biết hầu hạ việc cởi áo sao?” Hà Hiệp vẫn giống như khi ở vương phủ Kính An, đối xử với thị nữ vô cùng hiền hòa, mặc họ muốn làm gì thì làm, dung túng cả đám kẻ hầu người hạ không chút quy củ.
Cởi áo? Như có ai treo tim mình lên, Túy Cúc nhìn về phía Sính Đình đang nằm lẻ loi không hề phòng bị trên giường mà không khỏi cảm thấy ớn lạnh.
“Phò mã... định cởi áo ở đây?”
“Đúng thế.” Hà Hiệp trả lời, thấy Túy Cúc vẫn chẳng có ý tới hầu hạ, nghĩ lại, đây là thị nữ của Sính Đình, cũng không tiện trách mắng, thôi thì chẳng cần nha đầu ấy hầu hạ, tự mình cởi áo ngoài.
Thấy Hà Hiệp có vẻ như sắp ngủ ở đây, Túy Cúc cuống như kiến bò chảo lửa. Phủ phò mã rộng lớn, toàn người của Hà Hiệp, dù Túy Cúc kêu lên, cũng chẳng có ai để ý. Huống hồ chưa nói đến người khác, chỉ một mình Hà Hiệp, Túy Cúc và Sính Đình đã không ứng phó được rồi.
Vương gia, phải làm thế nào đây?
“Khuya rồi, ngươi cũng đi ngủ đi,” Hà Hiệp nói với Túy Cúc.
“Vâng...” Tuy nói vậy, nhưng bước chân Túy Cúc vẫn chẳng xê dịch. Nàng cắn môi, lo lắng nhìn quanh gian phòng, ánh mắt dừng bên bức tượng đá nhỏ nhắn trên bàn, thầm nghĩ, nếu Sính Đình gặp nguy hiểm, mình sẽ cầm thứ kia nện vào đầu hắn.
Hà Hiệp vốn là võ tướng, thân thủ nhanh nhẹn, đập thế chưa chắc đã có tác dụng, không biết chừng còn mất cả cái mạng này, nhưng, chỉ cần khiến hắn cụt hứng đã là tốt lắm rồi.
Nữ tử yếu mềm gặp nam nhân khỏe mạnh, dù có y thuật cải tử hoàn sinh cũng hoàn toàn vô dụng. Việc đến nước này còn có cách gì?
Nghĩ tới đây, Túy Cúc bất giác tiến thêm hai bước đến bên bức tượng đá.
Hà Hiệp ngồi xuống giường, buông nốt bên màn còn lại.
Đứng ngoài tấm màn mỏng, thấy Hà Hiệp nằm xuống cạnh Sính Đình, Túy Cúc nhanh chóng cầm bức tượng đá, giấu trong tay áo, rồi rón rén lại gần.