39 Manh Mối (Tập 4) - Chương 04
CHƯƠNG 4
NGAY LÚC CHIẾC TAXI hòa vào dòng xe cộ cuồn cuộn trên phố chính và tụi nó đoan chắc không còn ai đuổi theo chúng, Nellie nói cho tài xế biết tên khách sạn. Rồi cô lại ngả người trên ghế và thở dài nuối tiếc.
“Hai đứa tụi em thiếu nợ chị, nợ to đấy. Chị vừa bỏ lại một anh bạn tâm giao dài cổ chờ chị từ nhà vệ sinh nữ quay lại.”
“Chị yên tâm,” Dan nói. “Chị sẽ luôn có món đậu khúc.”
“Đậu khấu,” Nellie chỉnh lại.
“Sẽ đền bù cho chị mà,” Amy nói. “Nhưng chúng em cũng tìm thấy một thứ.”
Amy lấy chiếc ống ra. Nó vặn các khớp nối cũ kỹ đã mòn lẳn và mở phần nắp ra. Chúi ngược chiếc ống xuống, con bé lắc nhẹ. Cả ba ngạc nhiên khi trông thấy một mảnh giấy da cuộn tròn từ trong ống rơi vào lòng bàn tay Amy.
Đó là một mảnh giấy khô queo, các góc đã giòn rụm. Nó mỏng manh đến nỗi Amy thậm chí còn không dám phả hơi thở của mình lên đó.
“Em nghĩ đây là một lá thư cổ xưa,” con bé nói. “Hay ít nhất cũng là một phần của một lá thư.” Amy chầm chậm mở nó ra.
Dan làu bàu. “Đừng là tiếng Pháp nữa đấy!”
“Chị có dịch được không?” Amy hỏi Nellie.
“Nhân danh vinh quanh lừng lẫy của hậu duệ Luke và Hoàng đế, manh mối hiện đang trên đường về đến cung điện củ...” Nellie dừng lại, hạ cặp kính râm xuống để nhìn rõ hơn. “‘...du la Paris’?” Của Paris à? Không phải. Trừ trường hợp L là chữ viết tắt của tên ai đó.
“Vậy L là ai nhỉ?” Dan tự hỏi.
“Chà chà, có hằng hà sa số những ông vua nước Pháp có tên Louis,” Nellie nói. “Một ông bị xử trảm, nhưng ông ấy có một cung điện tên là Versailles[1].”
[1] Tức vua Louis XVI (1754 - 1793).
“Gì thì gì, đã có một manh mối được người của chi Lucian chuyển đến một tòa lâu đài nào đó,” Amy nói. “Nhưng em cũng đang thắc mắc B.D là người nào.” Con bé thở dài. “Ban nãy em cứ hy vọng đây là một thông điệp từ Napoleon kia đấy.”
“Như thế có nghĩa là manh mối của chúng ta hiện đang ở Paris sao?” Dan tự hỏi.
Amy cẩn thận đặt mảnh giấy vào túi đeo hông. “Nếu chúng ta tiếp tục tìm kiếm, chẳng sớm thì muộn sẽ hiểu ra thôi.”
Quá chuyên tâm vào lá thư đến nỗi cả ba không hề biết từ khi nào chiếc taxi đã tách khỏi con phố chính và rẽ vào một khu vực yên tĩnh hơn. Những cây cọ xếp hàng dài chạy dọc theo hai bên đại lộ. Hoa giấy rộ nở những sắc tím sắc hồng. “Ái chà chà,” Nellie thốt lên, cô nàng hạ một bên cửa sổ xuống và thò đầu ra ngoài để hít thở không khí. “Chị ngửi có mùi người giàu ở đây.”
Chiếc taxi rẽ vào một lối dành cho xe chạy vào nhà, dài ngoằn ngoèo. Khách sạn hiện ra trước mắt trong sự kinh ngạc của Amy và Nellie, còn Dan mừng rỡ reo to, “Tuyệt cú mèo!”
Đó là một tòa biệt thự màu trắng trông thật nguy nga. Những bãi cỏ xanh um trải dài đến tận mặt tiền. Một cặp vợ chồng trong bộ áo choàng bông chầm chậm đi qua một sân nằm ở bên hông tòa nhà để đến hồ bơi màu xanh ngọc bích. Cậu bé gác hồ chạy theo mời cả hai vào lều thay đồ. Đám bồi bàn thoăn thoắt đi qua những chiếc ghế, tay giữ thăng bằng các khay đựng thức uống. Phía bên kia dòng sông Nile, nổi bật giữa khoảng không màu vàng là hình dáng của ba kim tự tháp Giza hùng vĩ, trông tựa như một giấc mơ.
Nellie huýt sáo. “Đây đích xác là lối sống mà chị đã sẵn sàng thích nghi.”
“Làm sao ta trả tiền nổi chứ?” Amy e ngại.
“Chúng ta vẫn còn có tiền của bọn Kabra,” Nellie nói. “Mà giờ nó đã hoàn toàn thuộc về tay chúng ta. Tiền chúng ta kiếm ra mà.”
“Đúng thế,” Amy đáp, tâm trí nó hồi tưởng lại trò lừa đảo của Ian. Ngay từ đầu, ông McIntyre, luật sư riêng của Grace, đã nhắc chúng chớ có tin ai. Lẽ ra con bé không bao giờ được quên điều đó. Ấy thế mà nó đã nhìn vào đôi mắt đen sẫm của Ian, đã mê mệt những lời thằng nhóc nói ra. Ngu ngốc, rất ngu ngốc Amy à. Con bé không gặp khó khăn gì với bài học ở trường. Nhưng mỗi khi đụng đến cảm xúc trong đời thật, Amy chỉ được điểm 1.
“Dù sao chúng ta cũng sẽ nhanh chóng tiêu hết tiền ở một chốn như thế này thôi,” Nellie nói. “Có lẽ nên tìm thử một khách sạn khác đi.”
Nhưng chiếc taxi đã dừng lại. Một viên gác cổng ăn mặc lòe loẹt lao đến mở cửa xe. Có thêm một người khác đến lấy hành lý. Trước khi kịp ngăn họ lại thì cả ba đã được mời ra khỏi xe và tay tài xế đã quay trở lại lối dành cho ôtô.
Người gác cổng treo đám balô cũ sờn, giỏ xách tả tơi của cả ba lên xe đẩy cứ như thể chúng là những hành lý sang trọng. Cũng chẳng ai thèm liếc nhìn những chiếc áo thun và quần jeans nhàu nát của bọn họ lấy một cái.
đến khách sạn Excelsior,” người gác cổng đầu tiên lên tiếng. “Xin hãy theo tôi.”
Cả ba đi theo, vừa đi Nellie vừa làm gọn tóc tai lại, Amy thì cho áo vào quần, còn Dan cố chộp lấy chiếc balô đang để trên xe đẩy.
Lại có thêm những nụ cười thật tươi từ nhân viên quầy tiếp tân. Một quý ông lịch lãm, vóc dáng gọn gàng vẫy tay chào cả ba. “Chào mừng quý khách đến khách sạn Excelsior. Xin phép cho tôi biết quý danh của các vị?”
“Ơ...,” Nellie lúng búng.
“Oh...,” Dan nói.
“Thưa, Oh sao?”
“Oh,” Dan khẳng định.
“Rất tiếc, chúng tôi không thấy tên quý vị trong danh sách đặt phòng,” người đàn ông kiểm tra trên máy tính. “Tôi có thể giới thiệu với quý vị nhiều khách sạn khác... Xin thứ lỗi,” anh ta nói trong lúc chuông điện thoại reo. Sau khi nghe điện thoại một lúc, dáng người của anh càng lúc càng nghiêm trang. Rồi anh ta quay sang nhìn cả bọn, nhún vai, đoạn nói khẽ vào ống nghe: “Ồ, tất nhiên rồi thưa ngài. Tôi sẽ thu xếp ngay đây ạ.” Gác ống nghe, anh quay trở lại màn hình máy tính. “Họ Oh. Chắc chắn rồi. Ông Oh đã đặt phòng. Chúng tôi đã dành sẵn phòng cao cấp Aswan, như mọi khi, cho quý vị.”
“Phòng cao cấp sao?” Amy thốt lên.
“Tất nhiên với giá đã giảm chỉ dành cho người trong gia đình như mọi khi, thưa cô,” anh ta nói thêm. Rồi sau đó đẩy tờ đăng ký cho Nellie. “Xin quý cô vui lòng ký tên vào.”
Amy liếc nhìn giá phòng. Ngạc nhiên làm sao, giá chẳng cao hơn một khách sạn rẻ tiền ở Paris là bao. Nellie ký vào và người tiếp tân trao cho họ ba thẻ chìa khóa.
Anh dướn người lên để rung chuông báo.
“Nhân viên sẽ dẫn quý vị lên lầu.”
“Giảm giá cho người trong gia đình là sao?” Amy kêu lên vì ngạc nhiên.
“Chúng ta là người nhà mà,” Dan phân tích. “Trên lý thuyết là như vậy.”
“Thì ra cái dòng họ Cahill điên khùng của mấy đứa thực sự có mặt ở khắp quả địa cầu này,” Nellie vừa nói vừa chiêm ngưỡng mấy chậu hoa khổng lồ với những cành nở đầy hoa. “Vậy trên lý thuyết, hai đứa có gia đình ở khắp mọi nơi. Cứ nghĩ đến tất cả các khách sạn năm sao mà chúng ta có thể lẻn vào, chỉ cần có tấm thẻ khách thường xuyên thôi...”
“Suỵt,” Amy ra hiệu cho Nellie ngưng nói khi tất cả bước vào thang máy. Người nhân viên quét thẻ vào một cái khe, rồi ấn số mười ba.
Cửa thang máy mở, anh ta dắt họ vào tiếp một hành lang. Chỉ có một cánh cửa duy nhất.
“Còn những căn phòng khác ở đâu?” Nellie thắc mắc.
“Phòng cao cấp nằm trọn một tầng, thưa cô,” người nhân viên trả lời. “Tôi cho là mọi người sẽ thích nó lắm.” Anh ta lại quét thẻ qua một cái khe. “Cả quý vị cũng phải quét thẻ nữa. Vì chỉ có quý vị được ra vào tầng này mà thôi.”
Anh ta mở cửa ra, và cả ba cùng há hốc miệng vì kinh ngạc. Những cánh cửa kính kéo dài từ sàn nhà lên đến trần cho thấy toàn bộ quang cảnh của dòng sông Nile và quần thể kim tự tháp Giza ở phía xa. Họ đang đứng trong một phòng khách có đầy đủ ghế bành, hai chiếc sofa, một khu vực để dùng bữa và một bàn giấy. Khi người nhân viên mở cửa phòng ngủ thì Dan gần như nhảy múa ngay sau lưng anh ta.
“Chúng ta có những ba phòng tắm!” thằng nhóc phấn khích reo lên.
Nellie thò tay vào túi xách lấy tiền boa và anh nhân viên tươi cười trở lui, nhẹ nhàng khép cửa phòng lại. Ngay khi anh ta vừa đi khỏi, Amy đã thả người xuống một chiếc ghế bành, Nellie thì hất văng đôi giày đang đi, còn Dan lao thẳng lên chiếc sofa. Cả ba đồng thanh reo lên điệp khúc “Bá chấyyyyy!”
Nellie thả con Saladin ra khỏi lồng. “Chào mừng Sally đến với cuộc sống thượng lưu,” cô hôn vào đỉnh đầu bóng mượt của nó. Saladin lượn lờ xung quanh phòng, mũi khịt khịt đánh hơi, nhảy tót lên chiếc bàn giấy, duỗi thẳng người ra phía sau ghế sofa, nhảy lên chiếc gối to nhất và mềm mại nhất, cuộn tròn lại, nheo mắt với mọi người như muốn nói,Tôi cũng sẽ quen với cuộc sống này thôi.
Dan nhảy khỏi sofa và sục sạo khắp căn phòng, điểm danh từng món đồ với hai bà chị Amy và Nellie. “Bàn này có đủ đồ văn phòng phẩm nha! Còn đây là quyển sổ hướng dẫn! Kìa, đằng kia có một cái dù trong tủ quần áo!” Nó thơ thẩn trở vào phòng ngủ, lặn vào trong tủ quần áo, rồi bước ra trong cái áo choàng vải bông dài quá khổ, vạt áo kéo lê phía sau lưng. Dan mở chiếc ngăn kéo nằm ở cạnh giường. “Một quyển kinh thánh!” Nó đóng tủ lại và lục lọi bên dưới mấy cái gối.
Nellie và Amy theo Dan vào phòng ngủ.
“Em đang tìm cái gì vậy nhóc?” Amy hỏi. “Tiên răng[2] chăng?”
[2] Tooth fairy là một huyền thoại về bà tiên răng sẽ cho trẻ con tiền hoặc quà để đổi lại những chiếc răng sữa khi chúng thay răng. Trẻ thường bỏ răng sữa rụng dưới gối vào ban đêm, và tin rằng bà tiên răng sẽ đến lấy răng rồi để lại tiền hoặc quà trong lúc chúng đang ngủ.
“Sôcôla. Trong mấy khách sạn sang trọng bọn họ không để lại sôcôla dưới gối sao?”
Nellie bật cười khúc khích. “Không phải ở dưới. Mà là ở trên gối, sau khi người ta chỉnh trang lại drap giường trước khi chúng ta đi ngủ.
Nó biến vào nhà tắm. “Mấy chị phải xem hết chỗ dầu gội này!” Dan lại thò đầu ra ngoài. “Em biết bọn con gái khoáiiii dầu gội lắm.” Nó nháy mắt với hai bà chị. Amy ném một chiếc gối vào thằng nhóc.
Dan né được chiếc gối và nhảy trở lại phòng khách. “Ê, lùi ra nha. Em vừa tìm thấy một quầy bar mini này!” nó reo lên vui sướng.
Nellie vươn vai. “Chà, chị sẽ vào bồn tắm, pha vào đó chừng dăm lít nước tắm tạo bọt, và chỉ khi nào thức ăn được mang lên mới chui ra đấy.”
“Thức ăn nào?”
“Thức ăn mà hai đứa sắp sửa gọi phục vụ mang lên,” Nellie đáp. “Đừng để Dan lục lọi gì quầy bar mini nhé, kẻo chúng ta sẽ nếm mùi cháy túi trong tích tắc.” Nellie vào tủ lấy áo choàng và nhét headphone vào tai. “Cứ gọi món thoải mái đi hai đứa, chị cũng đói lả rồi đó,” Nellie hét to quá mức, không có gì lạ khi nhạc từ chiếc iPod đang đập xình xịch vào tai cô nàng. Nellie uốn éo những ngón tay mô phỏng một cơn sóng rồi đóng cửa phòng tắm lại. Amy nghe thấy tiếng vòi nước xả hết cỡ.
Con bé trở vào phòng khách. Dan đang nhai nhóp nhép một thanh kẹo trong khi ngồi đối diện với cánh cửa duy nhất còn đóng. Nó đã lục lọi xong hết tất cả những cái tủ.
“Nè Dan, chị Nellie nói không được lục lọi quầy bar. Thứ đó rất đă...” Chợt Amy thấy Dan đang đứng yên như trời trồng, nhìn từ đầu bên này sang đầu bên kia căn phòng. Thậm chí miệng nó cũng không còn nhóp nhép nữa.
“Cái gì vậy, ngốc? Đó chỉ là một cánh cửa. C-Ử-A.”
“Có phải anh nhân viên đã nói tầng này chỉ có duy nhất phòng mình thôi sao?” Dan nói. “Okê, chỗ này rộng thênh rộng thang thật đấy, nhưng cũng không thể chiếm hết không gian của một tầng được. Chúng ta đang ở mạn phía Đông khách sạn. Mạn này có đến bảy cửa sổ, nhưng phòng chúng ta chỉ mới có bốn mà thôi.”
Amy không màng thắc mắc tại sao Dan lại phát hiện ra điều này. Đứa em điên khùng của nó có một chiếc máy vi tính được cài trong não.
Thế nên khi thằng nhóc tiến về chỗ cánh cửa, bộ dạng lố bịch trong chiếc áo choàng dài quá cỡ, Amy cũng không phản ứng gì. Dan quỳ gối trước cánh cửa. Trên đó có một miếng đồng trang trí với một lỗ khóa kiểu cổ.
“Chị nhìn lỗ khóa xem. Không thấy quen sao?” Dan hỏi Amy.
“Không.” Amy cúi xuống xem xét thật kỹ. Phải mất một lúc lâu, rồi nó lên tiếng. “Đây chính là biểu tượng của chi Ekaterina. Hình thù quái gở giống một con rồng có cánh.”
“Tại sao lại có lỗ khóa ở đây, khi mà cả nơi này sử dụng thẻ từ? Chắc chắn là có một chìa khóa hay ho nào đó tra vừa vào chỗ này,” Dan nói. Nó đảo mắt ngó quanh. “Ở đâu nhỉ?”
“Em nghĩ chìa khóa ở đây sao? Ở ngay trong căn phòng này á?”
Chợt Dan bật dậy. “Này Amy, chị có nhớ tất cả những thứ chán òm mà chị đã đọc cho em nghe lúc trên máy bay không? Lượng mưa hàng năm của Cairo là bao nhiêu?”
“2,5 centimet,” Amy trả lời. “Và hầu hết xảy ra khoảng từ tháng mười hai đến tháng ba.”
“Vậy tại sao,” Dan chỉ về phía cái tủ, “lại có một chiếc dù đặt trong tủ?” Nó chạy lại lấy chiếc dù ra.
“Em đã nghĩ cán dù cũng phải có thứ gì đó thiết kế của người Ai Cập,” nó cho Amy xem chiếc dù. “Nhưng chị nhìn xem...” Thằng nhóc vặn cán dù và vật đó rời ra trong tay nó. Amy nhìn những đường chạm khắc trên chiếc cán. Chúng giống hệt với tấm bảng đồng trên cửa. Và ở cuối cán được đúc hệt như một chiếc chìa khóa.
Dan trườn ra khỏi cái áo choàng. Nó cầm chiếc cán dù và tra vào lỗ khóa. Vật đó trượt vào một cách dễ dàng. Dan nhìn Amy. Con bé gật đầu.
Nó xoay nắm cửa, và cánh cửa mở toang ra.
Chầm chậm, cả hai bước vào bên trong.
Những tủ kính bằng thủy tinh plexi xếp thành hàng nối tiếp nhau dọc theo một phòng trưng bày vừa dài vừa rộng. Một dãy mái vòm nối tiếp các phòng trưng bày, cái nọ nối tiếp cái kia. Cả hai nhìn thấy những loại máy móc và các bản thiết kế vô cùng tinh xảo. Những bản vẽ đóng khung, các bức ảnh, tấm bản đồ, những bức chân dung của nhà thiết kế, những dòng chữ được khắc vào tường. Khi chúng bước qua bậu cửa thì đèn trên trần đồng loạt bật sáng. Các món đồ trong tủ kính bắt đầu chuyển động xoay tròn. Những bức ảnh nổi ba chiều thình lình hiện ra và cũng bắt đầu xoay.
Trong một tủ kính, có một bài báo được đóng bìa cẩn thận cũng đang xoay.
“Chính là món burrito nấu bằng lò vi sóng của ông Alistair!” Dan reo lên. “Hẳn đây là căn cứ của chi Ekaterina!”
Chợt có tiếng kịch khẽ nhưng dứt khoát của cánh cửa đóng lại phía sau lưng chúng. Amy vội lao đến. “Cửa khóa rồi,” con bé nói. “Nhưng mà ít ra thì chúng ta cũng có chìa khóa.”
Dan nhìn xuống hai bàn tay trống trơn của mình. “Vậy ư?”