39 Manh Mối (Tập 4) - Chương 11
CHƯƠNG 11
“EM NGHĨ ĐÓ LÀ NEFERTITI CHỨ NHỈ,” Amy cố nói lảng câu chuyện.
Theo lắc đầu. “Đó là một nữ hoàng khác. Nữ hoàng Nefertari, vương phi yêu quý của Ramses Đệ Nhị. Ông trị vì Ai Cập trong sáu mươi sáu năm suốt Vương triều thứ mười chín, Tân Vương quốc, từ năm 1279 đến 1213 trước Công nguyên.”
Dan thở dài. Ở mỗi nơi chúng đặt chân đến, dường như lúc nào Dan cũng phải nghe thuyết giảng.
“Mộ Nefertari đến tận năm 1904 mới được nhà khảo cổ học Ernesto Schiaparelli[1] phát hiện ra. Nó bị đóng cửa một thời gian dài - chừng ba mươi năm - vì các bức tranh tường rất dễ bị hư hỏng. Lăng mộ được làm từ đá vôi và những lần trùng tu đều bị nước, bị hơi ẩm và muối làm hư hại. Rồi nó trải qua một đợt bảo tồn quy mô lớn vào đầu thập niên 90. Hiện nay, nơi này được xem là lăng mộ đẹp nhất trên toàn Ai Cập.”
[1] Nhà khảo cổ nổi tiếng người Ý (1856-1928) nổi tiếng vì đã phát hiện ra lăng nữ hoàng Nefertari.
“Nhưng ta vẫn không hiểu,” Hilary lên tiếng. “Chúng ta không được phép lấy bất cứ thứ gì ra khỏi lăng mộ. Vậy làm thế nào các cháu có bản đồ của nó được?”
“Điều này rất khó giải thích ạ,” Amy trả lời. “Có lẽ ở đó có một bức thư dành cho bọn cháu.”
“Ta hiểu rồi,” Hilary nói, mặc dù rõ ràng bà chẳng hiểu gì sất. “Kiểu như một trò chơi sao?”
“Chính xác,” Amy trả lời. “Một kiểu săn lùng kho báu.”
“Một gia đình lập dị, bà nhỉ?” Dan chêm vào.
“Mọi người có thể gặp phải một vấn đề,” Theo nói. “Các bức phù điêu bên trong lăng yếu đến độ người ta đã giới hạn du khách vào tham quan. Rất khó vào trong đó và quan sát. Tôi có thể xoáy cho mình một vé vào cổng...”
“Vậy thì sao các cháu không để Theo làm hướng dẫn viên đến Luxor[2]?” Hilary gợi ý. “Bác sĩ cấm ta không được phép du lịch - ông ấy đúng là kiểu người ưa làm quá mọi thứ lên, trong khi ta chỉ mới bảy mươi chín tuổi thôi chứ mấy - nhưng Theo sẽ là một hướng dẫn viên giỏi đó. Nó đã dắt du khách đến Luxor rất nhiều lần rồi. Nó biết từng tấc đất trong khu thung lũng. Hãy để nó giúp, các cháu thân yêu của ta. Vì Grace. Ta không thể làm gì cho Grace khi bà ấy còn đang trong cơn bệnh hiểm nghèo. Hãy để ta giúp lần này. Ta sẽ gọi điện đặt vé máy bay ngay tức khắc.”
[2] Thành phố lớn thuộc vùng Thượng Ai Cập, được xem là bảo tàng ngoài trời lớn nhất trên thế giới bởi rất nhiều quần thể kiến trúc cổ đại, trong đó có “Thung lũng các vị vua” và “Thung lũngữ hoàng”. Lăng Nefertari cũng nằm trong số này.
Dan gật đầu. “Dạ được ạ,” Amy đồng tình.
Hilary nhìn bức tượng Sakhet. “Ta có một gợi ý, các cháu thân yêu. Nay đã tìm thấy bức thư, có thể các cháu cũng muốn mang trả bức tượng trở về ngân hàng. Nữ thần quý báu nhường ấy thì không nên bị nhét vào chỗ hành lý các cháu mang theo. Ta rất sẵn lòng giúp các cháu làm việc đó.”
Amy với lấy bức tượng Sakhet. Con bé gói nó trở vào miếng vải lanh mềm mại, rồi mở khóa chiếc túi đeo hông ra. Bức tượng Sakhet vừa khít trong lòng túi. “Dù sao cũng xin cảm ơn bà, nhưng cháu sẽ mang nó theo.” Có lẽ Hilary nói đúng, nhưng Amy không thể bỏ lại, dù chỉ một ngày, bức tượng mà Grace muốn hai đứa giữ.
Có quá ít những thứ mà Grace để lại. Sợi dây chuyền ngọc bích, và giờ đây là bức tượng. Bà đã cố gắng kết nối với chúng và gửi đến cho chúng một điều gì đó. Nó vẫn không hiểu Grace đang dẫn chúng đến đâu và vì sao lại như thế, nhưng con bé không muốn bỏ bức tượng lại.
***
Khi mặt trời còn chưa lên hẳn, Hilary đã gõ nhẹ vào cửa phòng. Họ chén một bữa sáng tốc hành, còn Hilary “bồi dưỡng” cho chúng thêm một chuyến đi dựng tóc gáy khác đến sân bay. Bà đề nghị trông nom con Saladin trong lúc bọn chúng đi.
“Các cháu bé, chớ có lo lắng,” bà tỏ ra ân cần nhưng con Saladin đã khịt mũi đề phòng. “Ta yêu mèo. Bọn ta rồi sẽ hòa thuận với nhau thôi.”
Sân bay nóng nực và đông nghịt. Mọi người đứng xếp hàng chờ lấy thẻ lên máy bay. Chuyến bay đến Luxor còn hơn một giờ nữa mới khởi hành. Nếu bay đúng giờ, họ sẽ có mặt ở Luxor vào giữa trưa.
Amy cảm giác như đám đông đang chèn ép mình, làm cho nó thấy khó thở. Có quá nhiều người đang xô đẩy để tiến gần hơn đến quầy bán vé và mấy cánh cổng. Amy lấy quyển cẩm nang của Grace ra đọc. Đêm qua, con bé đã đọc lướt qua trước khi đi ngủ. Hẳn là Grace đã sử dụng quyển sách này trong rất nhiều chuyến đi đến Ai Cập. Amy có thể chỉ ra những màu mực khác nhau mà Grace đã sử dụng. Bà ghi ngày của các chuyến đi vào bên trong bìa sách, từ những năm 1960 đến 1990. Hầu hết các mục đều là những quán cà phê mà bà ưa thích, hay tên của những bác tài bà đã đi cùng. Nhiều người trong số đó đã bị gạch bỏ. Amy thắc mắc vì sao Grace lại không mua thêm một quyển khác. Dù sao thì cũng chẳng có thông điệp nào ở lề sách viết đại loại như, Đây là nơi các con sẽ tìm thấy manh mối của Katherine!
Có một màu mực trông có vẻ mới hơn. Con bé đã nhìn kỹ mặt trong bìa quyển sách, nhưng nó không viết ra ngày tháng như những chỗ khác. Amy đã giở quyển sách để tìm các ghi chú có cùng màu xanh nhạt ấy, đến khi chữ viết nhòe đi. Amy ngủ quên luôn trên gối cùng với quyển sách kế bên mình.
Theo dẫn họ đến cổng. Cả bọn đứng nép sang một bên, quan sát người ta lấy hành lý từ chuyến bay đến từ Rome.
Thình lình, họ nghe thấy một sự rung chuyển.
“Yo, bạn của tôi. Thông thường, tôi đây có cả một đoàn hộ tống trên máy bay. Những fan hâm mộ, bọn họ có xu hướng yêu mến ngôi sao Wizard. Họ lan rộng tình cảm ấy, và có thể là tình cảm ấy cũng có khi hơi quá thật một chút, cô biết tôi đang nói gì không?”
Dan rên rỉ. “Ôi trời đất ơi.”
Amy lôi thằng nhóc ra sau một cái cột và cuống cuồng ra hiệu cho Nellie. Theo tò mò theo sát cả bọn.
Từ phía sau cột, họ len lén quan sát. Jonah Wizard đang đứng với bố nó và một phụ nữ cao dỏng mặc đồng phục, thuộc phi hành đoàn.
“Hãy kiểm tra đám đông đằng kia[3],” Jonah Wizard ra lệnh.
[3] Nhân vật cố tình nói trại hoặc sử dụng tiếng lóng trong văn hóa hip hop.
“Đó là những hành khách đang chuẩn bị bay chuyến tiếp theo.”
Bọn họ có thể nghe thấy tiếng xủxoẻng của mấy sợi xích bằng vàng của Jonah khi gã nhóc quay về phía người tiếp viên. “Tuyệt. Chúng ta vẫn có mặt trước. Nhưng ngay khi toy ra khỏi nơi này, chắc chắn sẽ có một đám hỗn ơi là loạn cho mà coi. Trắc văn trắn lun[4].”
[4] Nguyên văn: “Fo’ shizzle” nói trại của từ for sure (chắc chắn).
“Hỗn ơi là... trắc... Xin lỗi, ý ngài là...?”
“Tôi sẽ gọi báo cho cấp trên của cô về việc thiếu vắng kiểm soát đám đông ở đây,” Ông Wizard lên tiếng. “Và tôi cũng không sử dụng BlackBerry được!”
“Mọi người quen quý ông trẻ kia sao?” Theo hỏi nhỏ.
“Em sẽ không bao giờ quăng cái chữ quý ông bừa bãi đâu,” Dan nói. “Chữ ấy sẽ nện vào hắn và không chừng cốt cách cũng dính luôn vào hắn đấy.”
“Anh không biết hắn ư?” Amy lấy làm lạ. “Ở Mỹ, hắn ta là một siêu sao đó.”
Thấy Theo nghệt mặt ra, Nellie nói thêm, “Anh biết không, bài “Mặc Quần Zô Đê’? Bài ‘Để Thời Gian Trở Lại Đê’? Hay là ‘Em Làm Tui Sợ Vãiii’?”
“Quý vị đang dùng tiếng Anh đó sao?” Theo thắc mắc.
“Bọn em dùng tiếng Anh đường phố,” Dan trả lời. “Ngặt nỗi đó là đường Rodeo ở Beverly Hills.”
Theo giơ hai tay lên vẻ bất lực. “Cứu với, tôi cần phiên dịch!”
“Hắn ta là một thằng cha cực kỳ dỏm đời,” Dan nói xẵng. “Anh chỉ cần biết bấy nhiêu thôi.”
Amy quyết định chừa lại không nói ra thực tế rằng Jonah cũng chính là một thành viên trong dòng họ Cahill và là anh họ của chúng. Thoạt tiên, con bé đã hoàn toàn bị choáng khi biết rằng ngôi sao hip-hop lừng danh kia có họ hàng với mình. Là một thành viên của chi tộc Janus dòng họ Cahill, Jonah cũng chấp nhận cuộc thử thách truy tìm 39 manh mối. Dĩ nhiên với hắn ta, bỏ một triệu đôla cũng chẳng hề hấn gì. Có khi Jonah cũng tiêu chừng đó tiền một năm chỉ riêng cho khoản tiền boa.
Jonah đi nhanh vào phòng chờ, ngoắc cặp kính đen lên mắt. Nó giơ tay ra để sẵn sàng gạt phăng các yêu cầu. Nhưng chẳng có yêu cầu nào cả.
“Cho một phu khuân vác đến mang hành lý toy. Chiếc limo toy đi sẽ có mặt ngoài lề đường.”
“Xin thứ lỗi, nhưng ngài phải đến quầy nhận hành lý.”
Jonah lấy làm ngạc nhiên. “Toy không nhận hành lý, má ơi. Hành lý đến với toy.”
“Tên của tôi là Senadi. Xin ngài lượng thứ, nếu như không có việc gì nữa thì...”
“Má không biết tôi là ai sao?”
Đứng sau lưng Jonah, người tiếp viên xoe tròn mắt nhìn những tiếp viên khác ở quầy. “Thật sự là không.”
Jonah kinh ngạc. Gã nhóc gỡ cặp kính ra. “Bố ơi!” nó ré lên.
“Giờ hãy yên tâm đi Jonah,” cha Jonah trấn an. “Hiển nhiên là ở cái xứ Ai Cập khỉ ho cò gáy này, người ta không biết con trai đã là một thương hiệu toàn cầu.”
“Ý bố là... chẳng ai biết con là ai?”
“Nào, Jonie, cứ bình tĩnh. Ta biết chắc là...”
“Bọn họ không biết con là một quả bom ư?”
Một phụ nữ luống tuổi xoay sang Jonah ngay lập tức. “Ai đó vừa nói quả bom sao?”
Cô Senadi nói nhanh vào bộ đàm. “An ninhAn ninh, chúng ta có một trường hợp nguy hiểm.”
“Ôi mèng đéc ơi,” Dan nói. “Hình như hắn vừa nói sai cái gì đó, phải không?”
“Chúng ta nên lên máy bay,” Amy nói. “Chị có cảm giác Jonah sắp sửa mắc kẹt vào một cuộc tra hỏi ít lâu đấy.”
“An ninh sao, mèng ơi!” Jonah dang rộng hai tay ra. “Đã đến lúc rồi! Nếu như mọi người có thể vây quanh trên đường tôi ra chiếc limo...”
“Tôi xin lỗi, thưa ngài,” viên an ninh lên tiếng. Anh ta nắm lấy khuỷu tay Jonah. “Ngài sẽ phải đi cùng chúng tôi”.
“Chaaa!”
Amy và Dan cười khúc khích chứng kiến cảnh nhân viên an ninh hộ tống Jonah và cha của nó ra ngoài.
“Em chưa từng thấy cái gì hài hước đến thế kể từ cái bận tay phát thanh viên dự báo thời tiết đang nói giữa chừng thì bị xì hơi,” Dan lấy làm khoái chí. “Hy vọng bọn họ sẽ giữ thằng cha đó lại ít nhất là một năm.”
“Xin lỗi cậu?” Một chàng trai Ai Cập lịch sự đứng cạnh bên nói với Dan. “Có người gửi cho cậu thứ này.” Anh ta đưa cho Dan một bức thư.
“Là ai vậy?”
“Đã được trả ba mươi đô. Giờ thì chào cậu!” anh chàng chạy biến đi trước khi bọn họ có thể hỏi han gì thêm.
Dan mở bức thư ra. Đó là bản vẽ một thứ công cụ gì đó dài dài.
“Đây là cái gì?” Dan thắc mắc. “Một cái cuốc á?”
“Đây không phải là một cái cuốc làm vườn liếc nhìn và lên tiếng. “Đó là một công cụ cổ xưa của người Ai Cập dùng trong quá trình ướp xác. Người ta dùng nó để lấy não ra khỏi cơ thể người được ướp. Cho thẳng vào lỗ mũi, đẩy nhẹ một tí cho đến khi não người hóa lỏng và chảy ra ngoài qua đường mũi.”
“Tuyệt!” Dan thốt lên.
“Tôi cũng thấy vậy. Tuy nhiên họ lại không bảo quản não người giống như các bộ phận khác. Phổi, dạ dày và ruột riếc nọ kia đều được khoét sạch và đặt vào từng chiếc bình đậy kín.”
“Úi chà chà,” Dan thích thú. “Ấn tượng thật. Ngon lành cành đào, hỡi những anh chàng cổ đại.”
“Một người bạn của cậu gửi cho thứ này sao?” Theo hỏi. “Có vẻ hơi bị hài hước đấy nhỉ.”
“Phải,” Amy nói. “Thật điên rồ.”