39 Manh Mối (Tập 6) - Chương 05 - 06
CHƯƠNG 5
IRINA SPASKY ngồi bệt trên những bậc thềm của Nhà hát Opera Sydney. Đường nét phần mái của tòa nhà nổi tiếng tràn về phía trước, mô phỏng vũ điệu của những con sóng trong bến cảng. Mặt trời tựa chiếc đĩa bằng vàng ngự trên nền trời xanh như một quả trứng Feberge[1]. Khách du lịch và dân địa phương thả bộ qua, những gương mặt đầy vẻ mãn nguyện đang tận hưởng một ngày đẹp trời ở một thành phố xinh đẹp.
St Petersburg
“Tất cả các ngươi rồi sẽ bị hủy diệt hết,” ả thầm nghĩ.
Nếu ả chặn những người này lại và hỏi “Bạn từ đâu tới?” - mặc dù tất nhiên là ả sẽ không bao giờ tỏ ra thân thiện như thế - thì câu trả lời sẽ rất dễ đoán. Từ Sydney, Tokyo, Manila, Los Angeles. Khách du lịch đổ tới đây từ nhiều thành phố lớn cũng như những xó xỉnh hẻo lánh từ nhiều đất nước. Đôi khi những đất nước của họ hòa thuận với nhau, cũng như đôi khi các đất nước của họ không hòa thu và đó là lý do vì sao lại có các chính phủ, những nhà ngoại giao, và đôi khi có những cuộc chiến tranh. Đó là cách thế giới này hoạt động. Đó là họ nghĩ như thế.
Nhưng quyền lực thật sự nằm ở đâu? Trong bóng tối. Không có biên giới trong bóng tối đó. Mọi thứ hòa lẫn vào nhau thành một màu xám.
Với một người nhà Cahill, thì quốc gia và những đường biên giới là điều vô nghĩa. Chỉ có những chi họ là quan trọng. Một chi họ có thể sẽ thống trị thế giới.
Blin[2]! Irina đã đi tới chỗ phải thừa nhận một cách miễn cưỡng rằng xét cho cùng thì bà Grace đã sắp đặt hết mọi thứ. Bà đã sắp đặt một con đường để tìm ra 39 manh mối. Một cuộc săn lùng đã tiếp diễn qua hàng trăm năm, nhưng cuối cùng cũng sẽ được kết thúc. Giờ thì Irina không chút nghi ngờ về điều đó. Ả cảm nhận được điều đó trong từng đốt xương Nga của mình.
[2] Một từ chửi tục, tiếng Nga.
Sau đó thì sao chứ?
Từng tế bào trong người Irina đã luôn tin tưởng rằng chi họ Lucian là những người được trang bị tốt nhất để giành chiến thắng. Ả đã từng một lần tin tưởng vào Vikram Kabra. Nhưng năm tháng đã làm tha hóa người thanh niên rạng rỡ mà ả đã từng biết hồi ở trường Oxford. Anh ta đã gặp Isabel xinh đẹp và đã cưới cô ta. Ngày xa xưa, mỗi khi cặp đôi đó đặt chân vào một căn phòng, nơi đó dường như sẽ được chiếu sáng và quay cuồng lên vì vẻ rạng ngời đặc biệt của họ. Irina còn nhớ như in những ngày và những đêm quy phục dưới sức hấp dẫn ma mị của họ - giọng nói trầm ấm của Vikram, trí thông minh sắc bén của anh ta, sự sắc sảo và hóm hỉnh của Isabel.
Ngày xửa ngày xưa... đúng thế, mọi câu chuyện cổ tích đều bắt đầu theo cách đó.
Khi ả gặp họ, ả đã làm điệp viên KGB được 2 năm rồi. Ả gia nhập KGB vào năm 16 tuổi - là gián điệp trẻ nhất của họ - và đã được huấn luyện cũng như được giáo dục để trở thành một du học sinh tại Oxford. Khi ả gặp Vikram, họ đã gần như ngay tức khắc trở thành bạn
Irina đã không hề biết việc ả là một người nhà Cahill. KGB đã chiêu mộ ả bởi vì ả là một người nhà Cahill. Người giám sát của ả cũng là một người thuộc chi họ Lucian, và ả đã được gửi tới Oxford, nơi Vikram đang đợi ả.
Chính Vikram là người đã khai mở cho ả về thế giới của dòng họ Cahill, nói cho ả biết về chi họ Lucian. Ả vẫn tiếp tục làm người của KGB, nhưng theo năm tháng, càng ngày ả càng làm nhiều việc hơn cho Isabel và Vikram trong lúc bọn họ trèo dần lên tầng lớp quý tộc của chi họ Lucian.
Ả đã tin tưởng ở họ. Ả đã tin tưởng vào sự tàn nhẫn của họ. Ả cũng đã tin tưởng vào chính mình. Đây là điều cần thiết. Nhà Lucian phải chiến thắng với bất cứ giá nào.
Và rồi chỉ mới vài ngày trước, ả đã suýt giết hai kẻ đã cản đường ả.
Đó là Amy và Dan Cahill. Những đứa trẻ con.
Ả đã biến thành thứ gì rồi thế này?
Irina đặt một ngón tay lên con mắt đang giật giật của ả, nhưng nó vẫn không ngừng nháy liên hồi.
Irina nhìn chằm chằm vào cái thế giới tươi sáng, xinh đẹp. Ả không phải loại người thường hay ngờ vực. Điều đó làm con người cảm thấy rất... chống chếnh.
Ngay lúc này ả đang có một việc. Amy và Dan đã ở Sydney. Đích thân Isabel đã đi cùng với đội nhà Lucian để bám đuôi lũ nhóc từ sân bay. Đã nhiều năm rồi Isabel không hành động như một đặc vụ hiện trường, nên việc cô ta nhảy bổ vào và đánh liều một kế hoạch đã được chuẩn bị cẩn thận cũng dễ hiểu thôi. Cô ta mang theo cái tôi của mình vào cuộc chơi, bao giờ cũng thế. Cô ta muốn chứng tỏ rằng mình vẫn là một bậc thầy về cải trang. Do đó cô ta đã giả làm một bà già, và để cho vui, cô ta đã thó sợi dây chuyền bằng ngọc bích của Amy. Điều đó đồng nghĩa với việc cô ta phải xuống xe buýt, đồng nghĩa với việc giờ Irina đang bị dính vào một rắc rối. Ả không biết Amy và Dan đang ở chỗ nào, và việc Isabel cáu kỉnh quát vào mặt ả rằng Hãy tìm chúng! chả giúp ích gì được trong chuyện này.
Isabel định làm gì? Việc cô ta rời khỏi biệt thự của mình ở London để bay cả chặng đường dài tới đây quả là bất thường. Isabel và Vikram thích điều khiển mọi thứ từ xa. Isabel hay than rằng hội chứng mệt mỏi sau những chuyến bay làm cô ta có nếp nhăn.
Cô thì chẳng phải lo nghĩ về những chuyện như thế, cô ta đã từng vừa cười vừa bảo với Irina như vậy. Rõ ràng là cô không quan tâm tới nhan sắc của mình.
Điều đó đúng, nhưng nó vẫn là một sự mỉa mai. Thứ nhất, Irina từng là người hấp dẫn. Ai đó còn nói ả đẹp nữa. Một người đặc biệt.
Mắt Irina lại giần giật. Chuyện đó đã lâu lắm rồi.
Đã có nhiều chuyện tồi tệ xảy ra ở đất Nga. Ả chắc chắn rằng Amy và Dan đã tìm thấy manh mối. Ả chắc mẩm rằng lũ nhóc đã được trợ giúp, nhưng mặc dù vậy... Cái cách mà tụi nhóc có thể tự mình hoàn thành công việc mới thật là... Dan cưỡi trên chiếc mô-tô đó! Còn Amy lái xe hơi! Irina khẽ nhếch mép, nhưng ả không để lộ ra nụ cười.
Ả đứng bật dậy. Đủ rồi đấy. Ả còn có một nghĩa vụ phải thực hiện. Giá mà những hoài niệm có thể tan biến đi! Một bé trai đi bộ qua, sánh bước giữa cha mẹ cậu bé, ghì chặt lấy thứ gì đó màu xám... một con khỉ phải không nhỉ? Không, một con cún con. Chỉ là một con cún con thôi.
Irina cảm thấy các dây thần kinh trong mắt ả run rẩy, và ả đặt một bàn tay lên mắt để chúng dịu lại. Một nhóm thanh niên cho rằng ả đang vẫy chào họ, nên vẫy tay chào lại.
Ả cau có mang chiếc kính mát đen thui lên mặt. Ả ghét nước Úc quá đi mất! Cái xứ sở gì đâu mà hớn hở quá thể.
CHƯƠNG 6
KHÓ MÀ TƯNG TƯỢNG RẰNG mãi vẫn chưa hết buổi chiều. Hội chứng mệt mỏi sau chuyến bay dài đã bắt đầu phát tá vẫn còn nhiều chuyện cần phải bàn bạc. Chú Shep pha trà, và mọi người ngồi xung quanh cái bàn đặt chỗ mái hiên bên ngoài khu vực nhà bếp. Niềm phấn khích của việc đánh bại nhà Holt ở chỗ lướt sóng đã bay hơi hết sạch. Bây giờ tụi nó muốn có những câu trả lời.
Con Saladin nhảy vào lòng chú Shep. Ông nhẹ nhàng vỗ về nó một cách lơ đãng trong khi nói chuyện.
“Chú đã biết là chuyến viếng thăm của Art và Hope còn hơn cả một chuyến du lịch,” chú nói. “Chú đoán Art đang làm chuyện gì đó, kiểu như vẽ bản đồ ấy, có liên quan đến những thứ toán học thiên tài của anh ấy. Khi còn nhỏ, anh ấy đã luôn yêu thích môn địa lý. Luôn miệt mài trên những tấm bản đồ. Điều đó thật khác với cái cách chú đã đi chu du thế giới. Chú nghĩ anh ấy thích tưởng tượng trong đầu rằng mình đang đi đến những nơi nào đó.” Shep mỉm cười. “Nhưng mẹ cháu thì lại không như thế. Chị ấy luôn sẵn sàng đón nhận bất cứ điều gì.”
“Thế họ đã đi đâu vậy chú?” Amy hỏi.
“Bình thường thì chú không để tâm đến những chuyện kiểu như thế,” Shep thừa nhận. “Chú lái máy bay chở mọi người đi đến nhiều nơi, các cháu biết đấy. Chú kiếm sống bằng việc đó - lái máy bay chở khách du lịch đến những chỗ khỉ ho cò gáy. Nhưng chú còn nhớ chuyến hành trình đó. Để xem nào... chú đã chở họ đến Adelaide, thả họ xuống đó vài ngày trong khi chú bay đến Perth. Rồi chú quay trở lại đón họ, và tất cả bọn chú cùng bay lên đến Top End. Vùng Darwin. Mà nè, chú cá là chú vẫn còn giữ lịch trình của họ. May cho mấy đứa vì chú là một kẻ thích sưu tập đồ lặt vặt. Chú chẳng bao giờ vứt đi thứ gì hết.”
Shep thả con Saladin lên đùi Dan một cách nhẹ nhàng rồi đứng dậy. Qua cánh cửa để ngỏ, chúng có thể nhìn thấy chú đang lục lọi ở một trong những cái thùng màu sắc sặc sỡ. “Mấy đứa coi cái này nè,” chú vừa lẩm bẩm vừa quăng đi một cái vợt tennis. “Thứ đó vứt đi là vừa. Chú chẳng bao giờ khoái nổi cái môn tennis. Giờ thì chú biết nó phải ở đâu đó trong này... À thấy rồi!”
Chú Shep quay ra với một chiếc áo khoác da cũ sờn vắt trên một tay, còn trên tay kia là một cuốn sổ dày cộp. Chú trao chiếc áo khoác cho Amy. “Cái này của mẹ cháu. Mẹ cháu mua nó ở một cửa hàng bán đồ cũ ở Darwin. Lúc chia tay chị ấy để lại nó cho chú. Chị ấy nói rằng hành lý của mình đã đủ lỉnh kỉnh rồi. Chú chắc là mẹ cháu muốn cháu nhận nó.”
Khí trời chỗ mái hiên rất ấm áp, nhưng Amy vẫn để chiếc áo khoác nặng trịch trên đùi mình. Mấy ngón tay nó lướt trên lớp da thuộc. Mẹ đã chọn cái áo này. Đôi tay mẹ đã từng xỏ vào những ống tay áo này. Amy những muốn ôm ghì lấy cái áo vào lòng, nhưng nó lại quá ngượng ngùng.
Chú Shep giở cuốn sổ ra. “Đây là nhật ký bay của chú trong năm đó. Để xem nào...” Chú giở nhanh cuốn sổ. “Chú cũng nghĩ thế. Cha mẹ cháu đã đưa cho chú một lịch trình, để phòng hờ khi có chuyện, họ đã nói thế. Đây rồi.” Shep giơ ra một mảnh giấy. Amy nhận ra nét chữ viết tay nắn nót của mẹ nó, được viết bằng loại mực tím mà mẹ ưa dùng.
“Cha mẹ cháu đã đi tới tất cả những địa điểm này sao?” Amy hỏi.
“Một chuyến vòng quanh thế giới đúng không nào, chú đoán thế,” Shep trả lời.
Dan ngó qua vai chị nó. “Sao chuyến đi tới Sydney lại không có trong này? Cả chuyến tới Adelaide nữa?”
“Chú đoán rằng chú chính là phần ngẫu hứng của chuyến hành trình,” Shep trả lời kèm theo nụ cười toe toét.
Amy trỏ ngón tay vào Miami. “Giờ cháu nhớ ra rồi!” nó kêu lên. “Cha mẹ đã mang tụi cháu đi cùng trong chặng đầu tiên của cuộc hành trình. Cả nhà cháu đã ở một khách sạn sát bãi biển. Lúc đó em mới có 3 tuổi Dan à. Bà Grace cũng đi cùng nhà cháu. Cháu còn nhớ mình đã khóc nức nở khi cha mẹ đi. Cháu đã nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ còn được gặp lại họ nữa...”
Giọng Amy lạc đi. Con bé nhớ lại hình ảnh chính nó lúc 6 tuổi, đang khóc nức nở như thể trái tim nó sẽ vỡ tan với cảm giác bị bỏ rơi. Nó được ôm chặt trong vòng tay bà Grace, và nó sợ hãi khi thấy bà cũng đang khóc. Bà Grace chưa bao giờ khóc. Hai bà cháu đứng ở hành lang khách sạn, nhìn qua lớp cửa kính trong lúc cha mẹ nó leo lên taxi. Nó còn nhớ có bức tường bằng kính chia cách họ, nên dẫu nó có khóc to tới đâu thì mẹ nó cũng chẳng thể quay đầu lại.
“Em chả nhớ gì cả,” Dan nói.
“Ừ, lúc đó em còn quá nhỏ,” Amy nói. “Cha mẹ đã đi một thời gian dài - ý chị là có vẻ như rất lâu, nhưng thật ra chỉ khoảng một tháng. Bà Grace ở lại chăm tụi mình.” Đột nhiên trong Amy lóe lên ký ức về hình ảnh bà Grace ngồi bên cửa sổ, nhìn ra ngoài sân. Trông bà rất lo lắng. Amy thấy dường như bà Grace cũng đang cảm nhận chính xác điều nó đang cảm thấy, cô đơn và sợ hãi. Nó trèo lên đùi bà. “Cha mẹ cháu sẽ sớm trở về,” bà Grace thì thầm vào tai nó.
Có phải Grace lúc đó đang tự trấn an chính bà... cũng như trấn an Amy? Hay là bà chỉ ái ngại cho đứa cháu gái của mình?
Cha mẹ nó phải lên đường làm một nhiệm vụ cho nhà Cahill. Đó không phải là một chuyến du lịch ngẫu hứng. Họ sẽ không bao giờ bỏ lại Amy và Dan lâu đến thế nếu không buộc phải làm vậy. Từ tận đáy lòng, Amy tin chắc như thế.
“Chú thật sự bất ngờ khi Arthur lại trở thành một giáo sư,” Shep nói. “Chú có thể nghĩ về đủ mọi công việc trừ việc đó.”
“Ý chú là sao?” Dan hỏi. “Thế chú đã nghĩ cha cháu sẽ trở thành người thế nào?”
“Người dạy sư tử,” Shep vừa trả lời vừa đặt mạnh cái tách không của chú xuống bàn. Chú nhe răng ra cười. “Người nhào lộn trên dây. Một tay đua xe chuyên nghiệp. Phi công trên vùng bán hoang mạc, giống chú nè.”
Dan phá ra cười lớn. “Chắc chú đang nói giỡn với cháu.”
“Khi tụi chú còn nhỏ, Artie đúng là một tên quỷ nhỏ,” Shep nói. “Anh ấy luôn xúi bẩy chú. Làm những bãi chướng ngại vật để đua xe đạp. Làm một cái tháp bằng hộp để có thể nhảy từ trên đó xuống hồ. Một lần, tụi chú còn làm một đường trượt ván bằng mái của cái ga-ra. Chuyện nào Artie cũng luôn là kẻ đầu têu.”
“Là cha cháu thật sao?” Giọng Dan gần như biến thành một tiếng the thé. “Oách thật!”
Amy nhìn Dan. Thằng nhóc đang ngồi thẳng đơ trên ghế, mắt long lanh. Việc được nghe chuyện về cha luôn làm thằng nhóc phấn khích. Thế tại sao chuyện này lại làm con bé thấy buồn đến vậy?
Một khi người ta mất đi cha mẹ, nỗi buồn không tan biến đi. Nó chỉ thay đổi thôi. Thỉnh thoảng nó tấn công bạn từ chỗ không ngờ, thay vì tấn công trực diện. Giống như lúc này đây. Amy không ngờ rằng nó lại bỗng nhiên có cảm giác như muốn vỡ òa trong nước mắt chỉ vì nghe rằng hồi bé cha nó đã từng là một tên quỷ nhỏ... giống y như thằng Dan.
“Mặc dù vậy, cha các cháu thông minh hơn chú. Anh ấy làm hết bài tập ở trường. Anh ấy luôn thích các trò ghép hình, cũng như thích việc tìm tòi này nọ. Còn chú chuyển tới Hawaii khám phá các con sóng, chú đúng là một sự thất bại,” Shep vui vẻ nhăn răng cười với tụi nó. “Kể từ đó chú đã chu du khắp thế giới. Cho đến khi chú đậu lại ở đây, xứ Oz này.”
“Tuyệt cú mèo,” Dan lại thốt lên. Amy có thể thấy rằng thằng nhóc đã tìm thấy một người hùng mới.
“Giờ tới lượt mấy đứa.” Đột nhiên, cái nhìn chăm chú trong đôi mắt xanh của chú Shep trở nên sắc nhọn. “Mấy đứa đang làm gì ở Úc?”
Amy nhanh chóng cất lời, trước khi Dan có thể kịp thốt ra bất cứ điều gì. Không phải là tụi nó không thể tin tưởng Shep, nhưng sẽ tốt hơn cho chính chú ấy nếu chú không biết gì về cuộc săn đuổi 39 manh mối.
“Tụi cháu đang đi nghỉ,” nó trả lời. “Và tụi cháu đang lần lại lịch sử gia đình mình để làm một bài thu hoạch cho trường. Chú có bao giờ từng nghe nói tới Bob “Troppo” chưa?”
“Không thể nói là chú biết hắn ta. Hắn sống ở Sydney này à?”
“Không. Hắn ta từng là một tên tội phạm rất nổi tiếng ở vào một thời cách đây lâu lắm rồi, những năm 1890 kia. Mặt hắn có mấy vết sẹo dài nhìn gớm lắm. Hắn từng bị bỏ tù ở Sydney nhưng đã trốn thoát vào trong rừng.”
“Chỗ nào?” S hỏi. “Các cháu phải biết rừng ở đây mênh mông lắm. Hàng ngàn dặm tiếp nối hàng ngàn dặm khác.” Ông nhướng đôi chân mày. “Đó là vùng đất Không Bao Giờ Kết Thúc.”
Amy và Dan nhìn nhau bất lực. Chị em nó không biết điều này.
“Có vẻ tụi cháu không có manh mối gì nhiều để tiếp tục hả?” Shep nói giọng an ủi. “Chú lại thích thế. Theo kiểu này các cháu sẽ khám phá ra được nhiều thứ hơn.”
“Nhưng chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu mới được?” Amy ngạc nhiên hỏi lại.
“À thế này, chú có một đồng nghiệp chuyên dẫn tour đi vùng rừng núi, xuất phát từ bên ngoài vùng Red Center[1],” Shep nói. “Uluru, Coober Pedy, khu Alice[2].”
Red
Red
Amy và Dan chẳng hề hiểu mô tê gì về những điều mà chú đang nói. Chú lục túi tìm cái điện thoại di động. “Chúng ta có thể gọi điện cho anh ta và hỏi xem anh ta có biết chút gì về cái gã Bob “Troppo” của mấy đứa không.” Chú bấm một số máy và chờ, sau đó nhún vai và gác máy. “Không trả lời. Jeff không khoái xài hộp thư thoại. Nhưng rồi cuối cùng anh ta cũng sẽ phải xài thôi.”
Nhưng tụi nó lại không có thời gian chờ cái điểm cuối cùng đó.
“Thế này nhé, chú có một chiếc máy bay đúng không,” Dan ngỏ lời.
“Thật là oách,” Amy tiếp lời.
Shep cười lớn. “Khoan đã nào. Chú đang bắt đầu hiểu ra rồi,” chú nói. “Mấy đứa muốn chú chở tới vùng rừng núi ư? Rồi gặp đồng nghiệp của chú ở đó và xem thử mấy đứa có thể tìm thấy gì phải không?”
“Tụi cháu không muốn chú có cảm giác miễn cưỡng hay nghĩa vụ gì đâu,” Amy vừa nói vừa cảm thấy lo lo trong bụng.
“Chuyện được nuôi nấng bởi một bà dì ma quỷ cũng không phải là quá tệ,” Dan bồi thêm. “Trừ cái phần về chuyện bị xiềng trong tầng hầm.”
Shep trợn tròn mắt, nhưng rồi vẻ hài hước nhanh chóng bốc hơi khỏi khuôn mặt chú. “Với hai đứa, chú không có vẻ giống một ông chú đúng nghĩa lắm, phải không?”
“Chú đừng cả nghĩ,” Dan trả lời. Amy có thể nhìn thấy điều đó trong mắt Dan, rằng chú Shep sẽ không thể thoát khỏi vụ này.
Shep hắng giọng. Chú đứng dậy và xếp mấy cái tách vào khay. “Tốt thôi,” chú nói. “Ít ra chú cũng được bay.”
Dan rú lên cười khoái trá. “Ý chú nói là chú sẽ làm chuyện đó? Chú sẽ lấy máy bay chở tụi cháu đi một ngàn dặm, chỉ vì tụi cháu yêu cầu điều đó?”
“Hai ngàn dặm đấy. Chào mừng tới nước Úc, các bạn thân mến ạ,” Shep trả lời với một nụ cười ngoác đến tận mang tai.
Chú biến vào trong, vừa đi vừa huýt sáo.
Dan chồm người về phía Amy. “Lẽ ra chú ấy có thể làm người giám hộ của tụi mình. Thay vào đó, tụi mình lại có dì Beatrice “Khát Máu”. Cuộc đời trớ trêu thiệt.”
Nellie bật cười. “Những chuyện đó đều là cơ hội để rèn luyện, mấy nhóc à. Với lại giờ mấy đứa đã có chị - Nellie “Người Vĩ Đại”.” Điện thoại của Nellie đổ chuông, cô nàng vừa mỉm cười vừa nghe máy. Mặt cô biến đổi trong khi lắng nghe. Cô lấy tay che điện thoại lại. “Ian Kabra gọi đấy,” cô nói với Amy. “Nó muốn nói chuyện với em.”