Khoảng trống - Phần I - Chương 03 phần 2 - 3

II

Suốt ngày thứ Tư, Shirley Mollison ở bệnh viện Trung tâm Tây Nam tại Yarvil cùng mười hai tình nguyện viên để hỗ trợ các công tác ngoài y khoa, như đẩy xe chuyển sách tới các giường bệnh, chăm sóc bình hoa của các bệnh nhân và đi lên đi xuống cửa hàng nhỏ ở sảnh để mua đồ giúp cho những người phải nằm liệt giường mà không ai đến thăm nuôi. Shirley thích nhất là đi từ giường này tới giường khác để lấy phiếu ghi đặt món ăn của bệnh nhân. Có lần một bác sĩ đi ngang thấy bà cầm bìa hồ sơ và đeo thẻ còn nhầm bà là quản lý.

Shirley nảy ra ý tưởng làm tình nguyện viên tại bệnh viện trong cuộc nói chuyện dài nhất từ trước đến nay với Julia Fawley, tại buổi tiệc mừng Giáng Sinh tuyệt vời ở Dinh thự Sweetlove. Hôm đó bà được biết Julia đang tham gia gây quỹ cho khoa Nhi của bệnh viện địa phương.

- Chúng tôi cần nhất bây giờ là có người trong hoàng gia tới thăm. - Julia nói, mắt liếc qua vai Shirley ra cửa. - Tôi sẽ nhờ Aubrey nói riêng với Norman Bailey. Thôi xin phép chị nhé, tôi phải ra chào Lawrence đã...

Thế là Shirley bị bỏ lại một mình bên cây đàn dương cầm mở cánh, đáp: “Vâng, hẳn rồi, hẳn rồi” với không khí. Bà hoàn toàn không biết Norman Bailey là ai nhưng tự nhiên thấy phấn khích hẳn lên. Thế là ngay hôm sau, thậm chí còn chưa kể với Howard, bà gọi đến bệnh viện Trung tâm Tây Nam hỏi thăm việc tuyển tình nguyện viên. Bệnh viện đáp người tình nguyện chỉ cần không kêu ca, tâm thần bình thường và giỏi đi bộ là đủ, thế là bà hỏi xin mẫu đơn tham gia luôn.

Công việc tình nguyện mở ra cả một thế giới mới mẻ huy hoàng trước mắt Shirley. Bên cây đàn dương cầm hôm ấy, Julia Fawley đã tình cờ gieo cho bà một giấc mơ: Bà đứng khép tay khiêm nhường, cổ đeo tấm thẻ tình nguyện, nữ hoàng từ từ đi qua hàng nhân viên phục vụ trong bệnh viện đang tươi cười; lúc đó bà sẽ nhún chào thật hoàn hảo làm nữ hoàng phải chú ý rồi người dừng lại trò chuyện, khen ngợi Shirley vì đã cống hiến thời gian rỗi cho việc này... Ánh đèn flash lóe lên, thế rồi hôm sau lên báo,... “Nữ hoàng trò chuyện với bà Shirley Mollison, tình nguyện viên làm việc tại bệnh viện”... Có lúc Shirley chìm sâu trong giấc mơ xa xôi ấy tới nỗi bà rùng cả mình vì vinh dự.

Vụ làm tình nguyện ở bệnh viện cũng là thứ vũ khí mới toanh để Shirley hạ bớt cái thói làm bộ làm tịch của Maureen. Khi bà vợ góa của ông Ken lột xác như Lọ Lem, từ cô bán hàng một bước lên vai đối tác kinh doanh, bà ta làm cho Shirley tức điên người (dù bề ngoài vẫn cười trơn tuột). Nhưng giờ thì Shirley đã lại chiếm thế thượng phong: bà cũng đi làm, nhưng không phải vì tiền, mà vì lòng tốt. Làm tình nguyện mới là “sang” chứ, kiểu phụ nữ đi làm nhưng không phải vì cần thêm tiền, như bà với Julia Fawley. Hơn nữa, bệnh viện là chốn có thể hóng các tin đồn cực kỳ phong phú, đủ nhấn chìm mấy câu chuyện nhạt nhẽo của Maureen về quán café mới.

Sáng nay, Shirley dứt khoát nói rõ với người giám sát tình nguyện viên là là mình muốn phục vụ khu hai mươi tám, thế là bà được phân về khu ung thư đúng theo ý nguyện. Người duy nhất trong số y tá bà kết bạn được ở đây làm ở khu hai mươi tám. Một số y tá trẻ thường nói năng cộc lốc và ra vẻ bề trên với những người tình nguyện, nhưng Ruth Price thì ngay từ đầu đã rất dễ thương với bà; hai người gắn bó vì Shirley nói họ đều là dân Pagford. Cô Ruth Price này mới quay lại nghề y tá gần đây sau mười sáu năm gián đoạn.

(Nhưng thật ra Shirley không sinh ra tại Pagford. Bà và em gái lớn lên bên mẹ trong căn hộ bừa bộn chật hẹp tại Yarvil. Mẹ bà hay nốc đẫy rượu và không bao giờ chịu li dị ông bố mà hai chị em đều chẳng bao giờ thấy đâu. Mấy gã đàn ông quanh đó xem ra đều biết tiếng mẹ Shirley, cứ nói đến bà là bọn họ cười đầy ngụ ý... Nhưng chuyện đó đã xa lắm rồi Shirley quan niệm rằng chỉ cần không bao giờ nhắc tới nữa thì sẽ đoạn tuyệt được với quá khứ. Bà không muốn nhớ lại chuyện trước chút nào.)

Shirley và Ruth vui vẻ chào hỏi, nhưng sáng đó quá nhiều việc nên họ chẳng còn thời gian nào mà tán gẫu, trừ vài câu lớt phớt về cái chết của Barry Fairbrother. Họ thỏa thuận cùng ăn trưa lúc 12 giờ 30 phút rồi Shirley đi lấy xe đẩy sách.

Tâm trạng của bà đang cực kỳ tốt. Bà thấy viễn cảnh tương lai rõ như ngay trước mắt. Howard, Miles và Aubrey Fawley sẽ cùng nhau cắt bỏ khu Fields khỏi Pagford mãi mãi, rồi nhân dịp đó sẽ mở tiệc tối ăn mừng tại Dinh thự Sweetlove...

Trong mắt Shirley, dinh thự ấy thật tráng lệ: Khu vườn rộng bát ngát, có cả đồng hồ mặt trời, hàng rào cây được cắt tỉa khéo léo và những hồ nước đó đây; hành lang lát gỗ rộng rãi, khung ảnh bạc đặt trên cây đàn dương cầm cánh mở, trong lồng hình gia chủ đang vui cười cùng công chúa cả. Bà chưa bao giờ cảm thấy nhà Fawley ra vẻ bề trên đối với mình, nhưng có quá nhiều thứ khiến bà phân tâm khi bước vào thế giới của họ. Bà chỉ có thể tưởng tượng ra cảnh năm người họ cùng ngồi ăn tối bên nhau trong một trong những căn phòng nhỏ dễ chịu đó. Howard ngồi cạnh Julia, bà ngồi bên phải Aubrey, còn Miles ngồi giữa họ (trong giấc mơ của Shirley, Samantha chắc chắn bị đẩy đi chỗ khác.)

Shirley và Ruth gặp nhau ở quầy sữa chua lúc 12 giờ 30 phút. Căn-tin bệnh viện ồn ào nhưng đến 1 giờ thì còn đông hơn nhiều. Hai người không khó khăn lắm đã tìm được một chiếc bàn hai chỗ ngồi nhớp nháp vụn thức ăn ở sát tường.

- Anh Simon nhà cô với các cháu thế nào? - Shirley hỏi sau khi Ruth đã lau sạch bàn, cả hai ngồi đối diện, vừa ăn vừa thoải mái nói chuyện.

- Vẫn khỏe, cảm ơn chị, ổn cả. Hôm nay anh ấy mang về nhà cái máy vi tính mới. Bọn trẻ sốt ruột sốt gan cả lên, chị biết đấy.

Không phải thế. Andrew và Paul mỗi đứa đều có một cái laptop rẻ tiền, còn chiếc máy tính bàn đặt ở góc căn phòng khách bé tí thì không đứa nào thích dùng vì phải chịu con mắt giám sát của ông bố. Khi nói chuyện với Shirley, Ruth hay tả hai cậu con bé hơn tuổi thật, rằng chúng dễ khiến dễ bảo và hay cười. Có lẽ cô cũng muốn làm chính mình trẻ hơn để làm rõ thêm cách biệt tuổi tác gần hai thập kỉ giữa cô với Shirley và làm cho quan hệ giữa họ càng như mẹ và con gái. Mẹ Ruth mất mười năm trước; cô luôn ao ước có người phụ nữ lớn tuổi bầu bạn với cô trong đời, mà quan hệ của Shirley với con gái ruột thì cũng không được cơm lành canh ngọt lắm, như bà có lần nhắc nhở bóng gió.

“Tôi với thằng Miles gần gũi nhau lắm. Còn cháu Patricia thì hơi khó. Giờ con bé ở London rồi.”

Ruth muốn hỏi thêm nhưng cô và Shirley giống nhau một điểm (cũng vì điểm này mà hai người ưa được nhau), đó vẻ trầm tĩnh trưởng giả: lúc nào cũng kiêu hãnh trưng ra bề mặt êm xuôi phẳng lặng. Ruth đành gạt sang một bên thói tò mò khó chịu nhưng vẫn mong đến lúc nào đó biết được vì sao Patricia lại “khó” như vậy.

Shirley và Ruth lập tức quý mến nhau vì trong sâu thẳm, mỗi người đều thấy người kia là kiểu phụ nữ giống hệt mình, coi chuyện giữ được ảnh hưởng tới chồng là điều đáng tự hào nhất. Họ có chung thứ “mật mã cơ bản”, như giữa những thành viên hội Tam Điểm với nhau, nhờ thế gắn bó với nhau theo kiểu khác hẳn tình bạn với những phụ nữ khác. Họ còn hợp nhau ở điểm là đều thấy mình “cao” hơn người kia, và đều ngầm thương hại người kia chọn phải ông chồng thế ấy. Trong mắt Ruth, Howard là lão vai u thịt bắp thô mịch, cô không hiểu sao bà bạn mình tuy hơi tròn trĩnh nhưng trông vẫn tao nhã ưa nhìn lại chịu cưới ông. Còn Shirley thậm chí không nhớ mình có khi nào để mắt tới Simon hay không, bà chưa từng nghe nhắc nhỏm gì đến anh ta trong những việc cấp cao ở Pagford; bà biết đời sống xã hội của Ruth hầu như chẳng có gì, và với bà, chồng của Ruth là kiểu nhân vật lánh đời kém cỏi.

- Lúc đó em thấy Miles và Samantha đưa ông Barry vào. - Ruth vào đề ngay chẳng buồn vòng vo. Cô nói chuyện không khéo bằng Shirley và thấy khó mà che giấu sự háo hức với mấy chuyện ngồi lê đôi mách tại Pagford, vì cô sống tít trên đồi, cách xa Pagford vì tính ít hòa đồng của Simon. - Họ chứng kiến vụ đó tận mắt thật à?

- À phải. - Shirley nói. - Hai đứa đang đi ăn tối ở câu lạc bộ golf, hôm tối Chủ nhật ấy; mấy cháu gái quay lại trường, Sam thích ăn ngoài, con bé ấy nấu nướng chẳng khéo léo gì mấy…

Từng tí một, qua cuộc trò chuyện những lúc giải lao, Ruth biết thêm về cuộc sống hôn nhân giữa Miles và Samantha. Theo Shirley thì trước đây con trai bà cưới Samantha là để làm ơn vì Samantha đã trót mang thai bé Lexie.

- Hai đứa đã ráng làm tốt hết mức rồi. - Shirley thở dài đầy bi tráng. - Thằng con tôi làm đúng, phải tôi thì cũng không làm khác được. Hai đứa nhỏ dễ thương lắm. Tiếc là Miles không có con trai, giá mà có thì hẳn nó sẽ là người bố tuyệt vời. Nhưng mà Sam không muốn có đứa thứ ba.

Ruth thưởng thức từng lời chê trách bóng gió của Shirley đối với cô con dâu. Nhiều năm trước, khi mới gặp Samantha cô đã lập tức không ưa cô này rồi. Hôm đó cô dẫn cậu con trai Andrew bốn tuổi đến nhà trẻ trường Thánh Thomas, Samantha hôm ấy cũng đưa con gái Lexie đi học. Bộ ngực đồ sộ và những câu chuyện tiếu lâm đậm mùi phòng the với mấy bà mẹ trong trường của Samantha đã khiến Ruth giữ ấn tượng cô ta là kiểu người nguy hiểm. Rồi từ bấy đến nay, Ruth luôn khinh bỉ nhìn Samantha cố phô bộ ngực vĩ đại ra khi nói chuyện với Vikram Jawanda trong những buổi tối họp mặt phụ huynh, mấy lúc như thế cô đều tìm cách kéo Simon ra góc lớp để tránh phải nói chuyện với cô ta.

Shirley vẫn đang mê mải kể lể chi tiết câu chuyện cũ rích về chuyến hành trình cuối cùng của Barry. Bà dốc hết công lao lên cậu con trai, nào là Miles đã nhanh trí gọi xe cứu thương thế nào, cậu nâng đỡ bà Mary Fairbrother ra sao, và còn nhất quyết ở lại cạnh bà ấy cho đến khi nhà Walls kịp đến. Ruth vẫn chăm chú lắng nghe, nhưng đã hơi sốt ruột. Shirley mà chê con dâu thì còn nói say sưa hơn cả khi ca ngợi cậu con thần thánh của mình. Nhưng Ruth đang nóng lòng sốt ruột muốn kể với Shirley một chuyện cực kỳ khác.

- Thế là trong hội đồng khu có chỗ trống đấy nhỉ? - Ruth nói lúc Shirley đã kể tới đoạn Miles và Samantha nhường sân khấu cho Colin và Tessa Wall.

- Ta gọi nó là ghế khuyết vì lý do ngoài dự kiến. - Shirley tử tế sửa lại.

Ruth hít sâu vào một hơi.

- Simon - Cô háo hức kể. - đang tính chuyện ra ứng cử đấy.

Miệng Shirley tự động nhành ra cười, lông mày nhướng lên tỏ ý ngạc nhiên một cách lịch sự và nhấp ngụm trà để giấu bớt biểu cảm trên mặt. Ruth hoàn toàn không biết mình đã nói điều gì làm bà bạn mình phiền lòng. Cô cứ nghĩ Shirley sẽ rất vui khi biết chồng hai người cùng làm trong hội đồng khu, cô cũng mơ hồ cảm thấy có khi Shirley sẽ giúp chồng mình được trong vụ đó.

- Anh ấy kể với em tối qua. - Ruth nói tiếp, ra vẻ quan trọng. - Anh ấy cân nhắc chuyện này khá lâu mới quyết định đấy.

Dĩ nhiên Simon còn nói nhiều chuyện khác nữa, như khả năng thay vai Barry nhận tiền hối lộ từ công ty Grays để tiếp tục giữ họ làm nhà thầu cho hội đồng, nhưng Ruth gạt khỏi đầu chuyện đó, như cô vẫn từng gạt đi không nghĩ tới mọi trò lươn lẹo mánh khóe khác của Simon.

- Tôi không hề biết là Simon lại muốn tham gia vào Ban quản trị địa phương đấy nhé. - Shirley mềm mỏng nhận xét.

- À vâng. - Ruth đáp, chính cô cũng bất ngờ. - Anh ấy rất hăng hái.

- Thế anh nhà cô đã nói chuyện với bác sĩ Jawanda chưa? - Shirley nhấp thêm hớp trà nữa. - Bà ấy có nói sẽ đề cử anh nhà cô không?

Bị hỏi bất ngờ, Ruth lộ vẻ lúng túng thực sự.

- Không, em… Simon lâu lắm rồi có đi bác sĩ đâu. Ý em là anh ấy khỏe lắm.

Shirley mỉm cười. Nếu tự mình ra ứng cử mà không có Jawanda nhúng tay vào thì rõ ràng đối thủ Simon chẳng đáng mà lo. Bà thậm chí còn thấy thương hại cho Ruth vì dính vào vụ này. Chính bà, Shirley, biết rõ ở Pagford này ai là kẻ có thớ, thế mà còn khó nhận ra chồng Ruth nếu anh ta bước vào hiệu thực phẩm, con bé Ruth khốn khổ này nghĩ ai sẽ bỏ phiếu cho chồng nó chứ? Nhưng Shirley biết Howard và Aubrey hẳn sẽ muốn bà hỏi thêm một câu nữa, thủ tục ấy mà.

- Simon hồi giờ vẫn sống ở Pagford phải không nhỉ?

- Không, anh ấy sinh ra ở khu Fields. - Ruth vô tư đáp.

Shirley “à” lên một tiếng.

Bà lột nắp hũ sữa chua, cầm muỗng lên trầm ngâm xúc một thìa đầy. Chuyện Simon có thể thiên vị khu Fields, bất kể khả năng được bầu cho anh ta là bao nhiêu, cũng đáng phải biết đây.

- Thủ tục ứng tuyển đăng trên website phải không chị. - Ruth hỏi, hòng vớt vát thêm tí giúp đỡ và nhiệt tình.

- Ờ, - Shirley lơ đãng đáp. - tôi cũng nghĩ vậy.

III

Andrew, Fats và hai mươi bảy học sinh khác đang học tiết cuối của chiều thứ tư, mà Fats gọi là “xóm quậy”. Đây là lớp toán trình độ thứ-hai-từ-bét-lên, giáo viên là một cô giáo trẻ măng yếu chuyên môn nhất khoa, cô mới tốt nghiệp khóa đào tạo giáo viên, mặt nám lấm tấm, không làm sao giữ trật tự lớp được và trông lúc nào cũng như chực òa khóc tới nơi. Từ năm trước Fats đã quyết tâm kéo cho sức học ngày càng tụt xuống nên bị chuyển từ lớp trình độ cao nhất sang lớp áp chót này. Còn Andrew cả đời vật lộn với mớ chữ số thì lúc nào cũng nơm nớp bị đẩy xuống lớp toán bét học chung với Krystal Weedon và thằng anh họ Dane Tully của con bé.

Andrew và Fats cùng ngồi cuối phòng. Thảng hoặc, khi đã chán chọc cười hay gây rối trong lớp, Fats chỉ cho Andrew làm mấy bài số học. Lớp ồn ào điếc cả tai, cô Harvey gào lên năn nỉ chúng im lặng. Giấy làm bài nguệch ngoạc đầy hình vẽ lăng nhăng, tụi học trò cứ thản nhiên dời qua bàn đứa khác ngồi, kéo ghế miết kin kít trên sàn, cứ hễ cô Harvey quay đi là “phi đạn” lại bay vèo vèo khắp nơi. Thỉnh thoảng Fats xin phép đi lên đi xuống trong lớp, bắt chước dáng đi đánh tay cứng đờ của thầy Tủ. Cứ đến giờ này là trò giễu hề của thằng Fats nở rộ nhất; còn trong giờ Anh Văn mà nó với Andrew cùng trong lớp cao nhất, nó chả buồn lấy thầy Tủ ra mà giễu.

Sukhvinder Jawanda ngồi ngay trước mặt Andrew. Lâu lắm rồi, hồi còn học tiểu học, Andrew, Fats và mấy thằng con trai khác từng kéo đuôi tóc dài đen óng của Sukhvinder, khi chơi đuổi bắt thì túm cái đuôi sam ấy là tiện nhất, mà của đáng tội cứ nhìn bím tóc đong đưa sau lưng con bé, khuất mắt cô giáo là ngứa cả mắt, cứ muốn giật một phát. Nhưng giờ thì Andrew không còn khoái trò đó nữa, cũng chả hứng động chạm tới bất cứ chỗ nào trên người Sukhvinder; cô nàng thuộc đám vài đứa con gái Andrew không buồn để mắt tới kể từ lúc Fats chỉ cho nó thấy trên môi em này có hàng “ria” đen mờ mờ. Cô chị Jaswant của Sukhvinder có thân hình khá mềm mại, eo nhỏ xíu và trước khi Gaia chuyển tới, Andrew thấy mặt cô nàng cũng khá đẹp: gò má cao, làn da vàng ngà mượt mà, cặp mắt nâu trong suốt hình hạnh nhân. Tất nhiên đối với cậu Jaswant lúc nào cũng là ngoài tầm với: Cô nàng hơn cậu những hai tuổi, lại là nữ sinh xuất sắc nhất khối Sáu, lúc nào cũng toát ra vẻ tự tin về sức hấp dẫn và gợi tình của mình.

Sukhvinder là đứa duy nhất trong lớp hoàn toàn không gây ra tiếng động gì. Lưng khòm, đầu cúi xuống tờ bài tập, trông con bé như bị đóng kén trong sự tập trung. Sukhvinder kéo tay áo khoác trái xuống phủ kín cả cổ tay thành nắm đấm bọc len mềm mại. Cái vẻ yên lặng của con bé có vẻ phô trương sao đó.

- Cái con lưỡng tính vĩ đại ngồi im như thóc kìa. - Fats lầm bầm, mắt dán chặt vào lưng Sukhvinder - Rậm lông mà lại vú to, giới khoa học vẫn đang lúng túng trước cái thể loại nửa đực nửa cái rậm lông này.

Andrew phì cười, nhưng trong lòng thấy không thoải mái lắm. Nếu nó chắc Sukhvinder không nghe được Fats nói gì thì sẽ thấy vui hơn. Lần gần đây nhất khi qua nhà Fats, thằng này cho nó xem mấy tin nhắn nó thường quẳng sang trang Facebook của Sukhvinder. Nó sục sạo khắp internet tìm đủ thứ tranh ảnh về chứng rậm lông và mỗi ngày đều gửi một tin nhắn hay một hình kiểu thế cho cô bé.

Kể ra thì cũng buồn cười, nhưng Andrew thấy không được phải lắm. Xét cho cùng thì Sukhvinder đâu có muốn thế, trông nó có vẻ dễ bắt nạt. Andrew thích nhất là khi Fats chĩa mũi dùi sang mấy ông bà trong chính quyền hay mấy kẻ khoe khoang tự mãn.

- Bị tách khỏi bầy đàn rậm râu mang áo ngực của nó. - Fats tiếp tục lầm rầm. - Nó ngồi đó, chìm trong suy nghĩ, tự hỏi mình có hợp với bộ râu dê hay không.

Andrew phá ra cười, rồi thấy áy náy ngay, nhưng Fats đã chán trò đó và quay sang tô vẽ mấy chữ số không trong tờ bài tập thành những hình tục tằn. Andrew lại loay hoay tính xem nên để dấu phẩy thập phân ở chỗ nào, và mơ đến cảnh ngồi xe buýt về nhà cùng Gaia. Trên chuyến xe về nó thường khó tìm được chỗ nào ngắm rõ cô nàng, vì chỗ ngồi cạnh Gaia thường kín mít trước khi nó lên xe, hoặc cô nàng ngồi quá xa. Hôm thứ hai hai đứa cười với nhau được một cái rồi chẳng đi tới đâu cả. Sau hôm đó, cô nàng không hề liếc nhìn nó hay có bất kỳ biểu hiện gì tỏ ra là biết có Andrew trên đời. Mê mẩn cô nàng bốn tuần nay rồi mà Andrew chưa khi nào thực sự nói chuyện được với Gaia. Nó cố tính bài tập toán đầu tiên giữa tiếng ầm ĩ trong lớp. “Vui thật, hôm thứ hai, lúc sinh hoạt toàn trường...”

- Sukhvinder, em có sao không?

Cô Harvey nhìn chằm chằm vào mặt Sukhvinder khi cúi xuống chấm điểm bài làm của nó. Andrew thấy Sukhvinder gật đầu, rút tay lại che lấy mặt, vẫn cúi người trên tờ bài tập.

- Wallah! - Giọng thằng Kevin Copper ngồi trên hai hàng véo von. - Wallah! Củ Lạc!

Nó đang cố gây chú ý về chuyện đứa nào cũng đã rõ mười mươi: cứ nhìn đôi vai rung rung của Sukhvinder cũng đủ biết nó đang khóc, còn cô Harvey thì cứ cuống lên hỏi xem có chuyện gì. Bọn trong lớp nhân lúc cô lơi lỏng càng náo loạn hơn bao giờ hết.

- Củ Lạc! Wallah!

Andrew không biết liệu Kevin Copper trêu nó là vô tình hay cố ý, nhưng rõ ràng nó có biệt tài làm người ta phát điên lên. Cái biệt danh “Củ Lạc” xưa rích đáng ghét đó dính với Andrew từ hồi cấp một. Fats không bao giờ xài tới nó để làm nó đâm lỗi mốt đi, với những trò kiểu này thì Fats luôn là thằng quyết định cuối cùng. Cooper còn gọi chệch tên Fats là “Wallah” nhưng biệt danh này cũng chỉ thịnh được ít lâu, hồi năm ngoái.

- Củ Lạc! Wallah!

- Biến đi thằng đần! - Fats thì thầm rít lên. Cooper đang quay hẳn xuống tựa vào lưng ghế mà nhìn Sukhvinder, con bé gập người lại, mặt gần chạm xuống bàn. Cô Harvey cũng cúi xuống theo, hai tay cô vung vẩy một cách khôi hài, cô ngần ngại không dám chạm vào Sukhvinder, cũng không biết tỏ thái độ thế nào để dỗ cô học trò nguôi bớt. Vài đứa bắt đầu để ý và quay lại nhìn, nhưng phía bàn trên những đứa khác vẫn nghịch rầm rầm, chẳng thèm để ý gì ngoài trò vui của mình. Một thằng chộp được miếng lau bảng có tay cầm gỗ trên bàn giáo viên bỏ trống. Nó ném đi luôn.

Miếng lau bảng bay ngang phòng, đập vào chiếc đồng hồ trên bức tường cuối lớp làm nó rơi xuống vỡ tan, những mảnh nhựa và kim loại bắn tung tóe khắp nơi. Mấy đứa con gái, cả cô Harvey, đều giật mình hét ầm lên.

Cửa lớp chợt bật mở, dập vào tường đánh sầm. Cả lớp im bặt. Thầy “Tủ” đỏ mặt tía tai đứng đó.

- Lớp này bị sao vậy hả? Sao mà ồn ào thế?

Cô Harvey đang cúi người cạnh Sukhvinder vội bật dậy như lò xo, trông cô vừa thẹn vừa sợ.

- Kìa cô Harvey! Lớp cô ồn như chợ vỡ. Có chuyện gì thế?

Cô giáo lặng cả người. Kevin Copper quay xuống cười nhăn nhở, hết nhìn cô Harvey lại nhìn thầy Tủ và Fats.

Fats mở miệng.

- Nói thật nhé, thưa cha, tụi con đang chạy vòng tròn quây lấy bà cô đáng thương này.

Tràng cười bùng lên. Cổ cô Harvey chuyển màu đỏ tía. Fats ngả người giữ thăng bằng trên hai chân ghế sau, nó tỉnh rụi nhìn thầy Tủ với vẻ thách thức.

- Đủ rồi! - Thầy Tủ quát. - Nếu còn nghe tiếng ồn ào nữa, tôi sẽ phạt cấm túc tất cả các em. Có nghe chưa? Tất cả các em.

Rồi ông sập cửa bỏ đi giữa tiếng cười ầm ĩ.

- Các em nghe thầy hiệu phó nói gì rồi đấy. - cô Harvey hét to, vội đi lên đầu lớp. - Im lặng! Im lặng ngay! Em, Andrew, và Stuart nữa, hai em dọn cái đống đó đi! Nhặt hết các mảnh đồng hồ lên.

Hai thằng kêu ca vài tiếng cho có lệ ra ý bị phạt oan, vài đứa con gái cũng the thé phụ họa. Còn thủ phạm chính gây ra trò này vẫn ngồi nguyên tại chỗ cười tự đắc, lớp ai cũng biết cô Harvey sợ thằng này. Chỉ còn năm phút nữa là hết giờ nên Andrew với Fats gắng kéo dài thời gian dọn dẹp sao cho hết giờ vẫn chưa xong, vậy thì khỏi làm tiếp. Trong khi Fats lại nhại dáng đi cứng đờ của thầy Tủ khi đi quanh đây đó nhặt rác, Sukhvinder lén đưa tay áo len lên chùi mắt rồi lại vùi đầu vào thế giới riêng của mình như cũ.

Chuông reo, cô Harvey không buồn ngăn bọn học sinh ầm ĩ chen nhau ra cửa. Andrew với Fats lấy chân lùa đống mảnh vụn vào gậm tủ cuối lớp rồi cũng khoác cặp lên vai.

- Wallah! Wallah! - Kevin Cooper vừa réo vừa chạy đuổi theo Andrew và Fats đang xuống cầu thang. - Ở nhà mày cũng gọi lão Tủ là “cha” hả? Thật hả? Có không?

Nó cứ tưởng bắt thóp được thằng Fats, cứ tưởng thế là đủ làm thằng này phải xoắn.

- Đầu mày đúng là toàn cứt, Cooper ạ. - Fats uể oải phán. Andrew phá ra cười.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3