Máu Lạnh - Phần I - Chương 1

Phần 1: Những người cuối cùng thấy họ còn
sống

Làng Holcomb nằm trên những bình nguyên cao trồng lúa mì Tây Kansas, một
vùng hẻo lánh mà người Kansas ở nơi khác gọi là “ở ngoài đó”. Cách ranh giới Colorado chừng
bảy chục dặm về phía Đông, với bầu trời xanh gắt gay và khí trời trong veo của
sa mạc, đồng quê ở đây nom có vẻ Viễn Tây hơn là Trung Tây. Tiếng địa phương
khê nặc một giọng mũi người đồng cỏ, một giọng mũi của người chăn gia súc, và
đàn ông thì nhiều người mặc quần biên giới chật, đội mũ cao bồi và đi ủng cao
góc nhọn mũi. Đất bằng và thẳng tít cánh cò bay trước mắt; ngựa, những bầy gia
súc, một cụm trắng những máy chuyển hạt ngũ cốc nổi lên duyên dáng như những
ngôi đền Hy Lạp mà lữ khách nhìn thấy mãi từ lâu rồi mới tiến lại được gần.

Cũng có thể nhìn thấy Holcomb từ rất xa như vậy. Chẳng phải có nhiều thứ
để mà nhìn - đơn giản là một tập hợp lộn xộn những ngôi nhà bị tuyến chính của
đường xe lửa Santa Fe cắt ra ở giữa, một chòm xóm rủi thế nào bị bít lại ở phía
Nam bởi dải nước màu nâu của sông Arkansas, ở phía Bắc bởi một xa lộ, đường số 50,
còn ở phía Đông và phía Tây thì bởi đồng cỏ cùng đồng lúa mì. Sau cơn mưa hay
khi tan băng, những đường phố không tên gọi, không bóng cây, không đá lát liền
biến từ lầm bụi nhất sang bùn lầy kinh hoàng nhất. Ở một đầu thị trấn lù lù một
tòa nhà trát vữa, cũ kỹ, trần trụi mái đỡ một bảng hiệu bằng điện - KHIÊU VŨ -
nhưng khiêu vũ đã ngừng và bảng quảng cáo đã nhiều năm tối om. Gần đó là một
tòa nhà khác, với bảng hiệu chẳng ăn nhập, bằng chữ vàng đã bong trên kính cửa
sổ bẩn thỉu - NGÂN HÀNG HOLCOMB. Ngân hàng đóng cửa năm 1933, và các quầy thu
tiền trả tiền trước đây được chuyển thành các căn hộ. Đó là một trong hai “nhà
căn hộ” của thị trấn, cái thứ hai là một tòa nhà xiêu vẹo được gọi là Sở Thầy
Cô, vì phần lớn giáo viên của trường học địa phương ngụ tại đó. Nhưng đa số nhà
ở Holcomb là nhà doanh nghiệp kiểu một tầng gác với cổng phía trước.

[Chúc bạn đọc
sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Xuống dưới, gần ga xe lửa, bà chánh bưu điện, một người đàn bà gầy oặt
mặc áo da thô và quần vải bò, ủng cao bồi, chủ trì một nhà bưu điện nằm tách
biệt ra. Với nước sơn màu acid sulfuric đã bong thóc, bản thân nhà ga cũng tẻ
buồn như vậy; ông Xếp, Ông Xếp Chánh, ông El Capitan[1] hằng
ngày tới đó, nhưng các chuyện tàu tốc hành được trọng vọng thì chẳng bao giờ
dừng lại ở đây. Các tàu khách cũng vậy, chỉ thỉnh thoảng có một chuyến tàu
hàng. Lên trên đằng xa lộ, có hai trạm xăng, một kiêm luôn cửa hàng tạp hóa
cung cấp vài thứ ít
ỏi, còn một thì kèm thêm quán cà phê - Quán cà phê Hartman, ở đó, bà Hartman
chủ quán có bán bánh kẹp thịt, cà phê, các thức uống nhẹ và bia 3,2[2]. (Giống như các nơi khác ở Kansas, Holcomb
“khem rượu”.)

[1] Ông xếp chỉ huy, tiếng Tây Ban Nha

[2] Tổng lượng cồn trong loại bia đó là 3,2%.


thật sự, đó là tất cả. Trừ phi bạn tính cả, như người ta cần phải tính. Trường
Holcomb, một cơ sở đẹp đẽ, nó để lộ ra một hoàn cảnh mà bề ngoài của cộng đồng
che giấu đi: rằng các ông bố bà mẹ cho con đến ngôi thường “được củng cố” hiện
đại và khéo bố trí nhân sự này - các lớp có từ vườn trẻ đến trung học phổ
thông, và một hạm đội xe buýt chuyên chở học sinh, thường là vào khoảng ba trăm
sáu chục em, ở cách đó chừng mười sáu dặm - nói chung, đều là người giàu có. Là
chủ trại chăn nuôi, phần lớn họ là dân thích ở ngoài trời thuộc các gốc rễ rất
đa dạng - Đức, Ái Nhĩ Lan, Na Uy, Mexico, Nhật. Họ chăn nuôi gia súc, cừu,
trồng lúa mì, kê milo, cỏ cảnh và củ cải đường. Làm nông luôn là một công việc
may rủi, nhưng ở mạn Tây Kansas người làm ruộng lại tự coi mình là “đám cờ bạc
bẩm sinh” vì họ phải bằng lòng với một lượng mưa cực thấp (mỗi năm bình quân
tám centimet) và tưới nước luôn luôn là một việc trần ai khoai củ. Tuy nhiên
bảy năm vừa qua là những năm được hưởng lợi nhờ không hạn hán. Các chủ trại
chăn nuôi ở hạt Finney, mà Holcomb trực thuộc, đã làm ăn tốt; tiền kiếm ra
không chỉ từ làm trang trại mà còn do khai thác các nguồn khí đốt thiên nhiên
dồi dào, và thu hoạch của nơi này được phản ánh ở ngôi trường mới, nội thất
thoải mái của các nhà ở trong trang trại, các dây chuyền hạt ngũ cốc căng
phồng, dựng đứng.

Mãi
cho tới một buổi sáng giữa tháng Mười một năm 1959, ít người Mỹ - thật ra ít cả
người Kansas - nghe nói đến Holcomb. Như nước sông, như những người lái xe trên
xa lộ, và như những đoàn tàu màu vàng di chuyển xuôi đường sắt Santa Fe, thảm
kịch, dưới dạng những biến cố khác thường, chưa từng dừng đỗ ở đây bao giờ. Dân
làng, đếm đầu được hai trăm bảy chục, mãn nguvện với cái đang diễn ra như thế,
khá bằng lòng sống cuộc sống bình thường - làm lụng, săn bắn, xem ti vi, dự
liên hoan nhà trường, hát lễ ở nhà thờ, họp Câu lạc bộ 4-H. Vậy mà rồi, vào giờ
phút tinh mơ của cái buổi sáng tháng Mười một đó, một buổi sáng Chủ nhật, vài
tiếng động khác lạ đã vấy phạm vào những thanh âm đêm thường lệ của Holcomb -
vào cơn phát rồ ai oán khóc của những con chó sói đồng cỏ, vào tiếng sột soạt
khô cong của cây cỏ lăn vội vã cuốn theo gió, vào tiếng than vãn ầm ầm lao tới
rồi lùi xa của còi đầu máy xe lửa. Lúc bấy giờ chẳng một ai say ngủ ở làng
Holcomb nghe thấy những tiếng động đó - bốn phát súng nổ, tóm lại đã kết liễu
sáu mạng người. Nhưng sau đó dân thị trấn, vốn xưa nay chả mấy khi sợ sệt lẫn
nhau đến phải khóa chặt cổng ngõ, nay thời cứ mường tượng lại hoài hoài âm
thanh ấy, những phát súng nổ âm thầm vốn đã kích phát ngọn lửa nghi kỵ, ngọn
lửa mà trong ánh lấp lóa của nó nhiều bà con chòm xóm lâu đời giờ đây nhìn nhau
kỳ quặc, tựa hồ những kẻ xa lạ.

Chủ
nhân của Trại Lũng Sông, Herbert William Clutter, đã bốn mươi tám tuổi. Do kết
quả khám sức khỏe mới đây để mua bảo hiểm, ông được biết mình thuộc vào loại
nhất. Tuy đeo kính không gọng và chỉ cao trung bình, đứng vừa dưới mốt mét bảy
lăm, ông Clutter nom vẫn đường đường một đấng trượng phu. Vai rộng, tóc giữ
nguyên màu sẫm, khuôn mặt tự tin, quai hàm vuông nở để hiện ra sức trẻ hừng
hực, răng trắng bóng và chắc, còn đủ hết, có thể cắn vỡ được quả óc chó. Ông
nặng bảy lăm ký hai - đúng cái trọng lượng ngày ông tốt nghiệp ở Đại học Bang
Kansas, nơi ông học khoa Nông nghiệp. Ông không giàu bằng người giàu nhất
Holcomb - ông Taylor Jones, ông hàng xóm chủ trại chăn nuôi. Nhưng ông lại là
công dân được biết đến nhiều nhất của cộng đồng, nổi bật cả ở đây lẫn ở Garden
City, thủ phủ gần bên của hạt, tại đó ông đã lãnh đạo ủy ban xây dựng cho Nhà
thờ Giám lý Thứ nhất mới được hoàn thành, một công trình trị giá tám trăm nghìn
đô la. Ông đang là chủ tịch của Hội nghị về Các Tổ chức Nông trại Kansas, tên
tuổi ông được thừa nhận và kính trọng trong giới các nhà nông học miền Trung
Tây, cũng như ở một vài cơ quan tại Washington, nơi ông từng là thành viên của
Sở Tín dụng Nông trại Liên bang, thời Eisenhower làm tổng thống.

Luôn
biết chắc mình muốn cái gì của thế gian, ông Clutter có nhiều cách thức để đạt
được cái đó. Trên bàn tay trái, cái bàn tay còn lại một ngón bị một chiếc máy
nông trại làm cho sứt sẹo, ông đeo cái lắc bằng vàng ròng, biểu tượng có tuổi
đời một phần tư thế kỷ của cuộc hôn nhân của ông với người ông muốn cưới - em
gái một bạn học thời cao đẳng, một cô gái nhút nhát, sùng đạo, thanh tú tên gọi
Bonnie Fox, trẻ hơn ông ba tuổi. Bà đã cho ông bốn người con - một bộ ba cô con
gái rồi một cậu con trai. Cô gái lớn Eveanna, đã có chồng và là mẹ của một nhóc trai mười
tháng, sống ở Bắc Illinois nhưng đến thăm Holcomb luôn. Quả thật, bố mẹ cô đang
mong chờ cả gia đình nhỏ của cô bởi hai ông bà đã định tổ chức một cuộc đoàn tụ
ra trò của cả họ nhà Clutter nhân dịp lễ Tạ ơn (từ nước Đức ra đi, người di dân
đầu tiên của họ Clutter - hay Klotter, hồi đó cái tên này viết thế - đã đến đây
vào năm 1880); năm chục người họ hàng đã được mời, nhiều người từ những vùng xa
như Palatka, Florida. Beverly, đứa con sát kề với Eveanna thì không còn sống ở
Trại Lũng Sông nữa; cô đang ở Kansas City, Kansas, học lớp nữ y tá. Beverly đã
đính ước với một sinh viên trẻ tuổi khoa Sinh, bố cô rất ưng anh này; thiếp mời
dự hôn lễ định vào tuần Nôen đã được in xong xuôi. Người còn lại vẫn sống ở nhà
là cậu con trai Kenyon, mới mười lăm tuổi mà đã cao hơn ông Clutter, và cô chị
lớn hơn cậu một tuổi - Nancy, cô bé cưng của cả thị trấn.

Về
gia đình, ông Clutter chỉ có một lý do quan trọng phải bận tâm - sức khỏe của
bà vợ. Bà “thần kinh yếu”, bà “hơi man mát” - những người gần gũi bà dùng những
lời che đậy như vậy. Chẳng phải vì “những nỗi khổ của Bonnie tội nghiệp” là
điều bí mật gì; ai cũng biết trong nửa chục năm qua bà là một bệnh nhân tâm
thần lúc ốm lúc không. Nhưng mới gần đây ánh mặt trời cũng đã lóe lên ngay cả
trên miếng đất tăm tối ấy. Thứ Tư vừa rồi, từ Trung tâm Y tế Wesley ở Wichita,
nơi ẩn dật quen thuộc, trở về sau hai tuần điều trị, bà Clutter đã mang về
những tin tức khó tin để nói với chồng; bà vui mừng báo rằng nguồn gốc nỗi khổ
của bà, như ý kiến của y sĩ cuối cùng đã cho hay, nằm ở cột sống của bà chứ
không phải trong đầu - nó thuộc về cơ thể, là do một đốt sống bị
chệch. Dĩ nhiên, bà sẽ phải qua giải phẫu, nhưng rồi sau đó bà sẽ lại là “cái
Tôi xưa” của mình. Các thứ căng thẳng, lánh ẩn, tiếng nức nở câm lặng vùi vào
gối sau cánh cửa khóa chặt - tất cả có thể lại vì mỗi cái xương lưng nó mất trật
tự thôi à? Nếu thế thật thì khi nói chuyện với khách khứa trong lễ Tạ ơn, ông
Clutter có thể đọc nguyên vẹn một bài kinh về lòng biết ơn.

Theo
lệ, buổi sáng của ông Clutter bắt đầu từ sáu rưỡi; đánh thức ông dậy thường
thường là tiếng lanh canh của các xô sữa, tiếng thì thào chuyện trò của đám trẻ
đem sữa đến, hai đứa con trai của một người làm mướn tên là Vic Irsik. Nhưng
hôm nay ông còn nằm nấn ná, để cho bọn trẻ nhà Irsik đến rồi đi, vì tối qua,
thứ Sáu ngày 13, là một tối mệt tuy cũng có phần vui vẻ. Bonnie đã sống lại
“cái Tôi xưa” của bà; tựa như để báo trước cho sự bình thường trở lại, cái sinh
lực tràn trề mà chẳng mấy nữa bà sẽ có lại, bà đã bôi son môi, đánh vật với bộ
tóc, rồi mặc bộ váy mới đi cùng với ông tới Trường Holcomb, ở đó ông bà đã vỗ tay
hoan nghênh buổi diễn vở Tom Sawyer của học trò, trong đó Nancy sắm
vai Becky Thatcher. Ông vui thích thấy Bonnie ra trước mọi người, căng thẳng
nhưng tươi cười, trò chuyện với thiên hạ và cả hai ông bà đều tự hào về Nancy,
cô đã diễn hay thế, nhớ hết không sót câu nào và, như ông đã khen cô ở sau cánh
gà, “Trông đẹp thật - đúng là một Nam phương
Mỹ nữ, con gái yêu ạ.” Nhân đó, Nancy đã xử sự đúng như ai; khẽ nhún đầu gối
trong bộ váy lồng, cô hỏi là cô có thể đi xe vào Garden City được không. Nhà
hát Bang đang có một tối đặc biệt, “Đêm diễn ma” thứ Sáu ngày 13, vào hồi mười
một rưỡi, bạn bè của cô đều đi cả. Các lần khác ông Clutter đều không đồng ý.
Luật của ông là luật, và một khoản trong đó là: Nancy - và cả Kenyon nữa - ngày
thường mười rưỡi tối phải có mặt ở nhà, tối thứ Bảy thì mười hai giờ. Nhưng bị
lay động vì những sự kiện thiên tài của buổi tối nay, ông đã bằng lòng. Và
Nancy mãi hai giờ sáng mới về nhà. Ông nghe thấy cô vào nhà bèn gọi cô, vì tuy
không phải là người từng cao giọng bao giờ, ông vẫn có đôi điều thẳng thắn cần
nói với cô, những ý kiến liên quan đến cậu thanh niên lái xe chở cô về - Bobby
Rupp, một người hùng bóng rổ của nhà trường - nhiều hơn là đến chuyện cô về vào
giờ đó.

Ông
Clutter thích Bobby và coi cậu, một cậu trai mười bảy tuổi là người lịch sự và
đáng dựa vào nhất, thế nhưng trong ba năm được phép “hẹn hò”, cô Nancy ấy, nức
tiếng xa gần và xinh đẹp, vẫn chưa đi ra ngoài hẹn hò với một ai khác, và tuy
ông Clutter vẫn biết rằng thói quen hiện nay của lứa thiếu niên trong nước là
tìm đôi, “hẹn hò lãng mạn” và đeo “nhẫn đính ước”, ông vẫn không tán thành cậu,
đặc biệt vì tình cờ không lâu trước đó ông bắt gặp cậu chàng Rupp và con gái
ông đang hôn nhau. Lúc đó ông đã gợi ý Nancy đừng nên “gặp Bobby nhiều như thế”
nữa, khuyên cô rằng từ từ rút lui bây giờ sẽ ít thương tổn hơn đoạn tuyệt đột
ngột sau này - vì, như ông nhắc nhở cô, cuối cùng thế nào cũng xảy ra một cuộc
chia tay. Gia đình Rupp theo đạo Cơ đốc La Mã, nhà Clutter lại dòng đạo Giám lý
- sự việc này tự nó cũng đủ chấm dứt bất cứ tơ tưởng hão huyền nào về việc cô
và cậu chàng kia có thể cưới xin trong tương lai. Nancy biết điều - thế nào
cũng không cãi - còn lúc này thì, trước lúc chúc ngủ ngon, ông Clutter đã được
cô làm cho yên tâm với lời hứa sẽ bắt đầu gỡ dần ra khỏi Bobby.

Tuy
nhiên việc này đã làm chệch đi tệ hại giờ giấc nghỉ ngơi của ông, vốn thường
vào mười một giờ. Hậu quả là sáng thứ Bảy, ngày 14 tháng Mười một năm 1959, mãi
hơn bảy giờ ông mới dậy. Vợ ông thì luôn là dậy càng muộn càng tốt. Tuy thế ông
cũng không lo bà bị đánh thức khi ông cạo râu, tắm vòi hoa sen, mặc vào người
chiếc quần kẻ gân nổi, áo da của người chăn bò và đôi ủng mềm có cựa thúc ngựa;
ông bà không ngủ chung buồng. Nhiều năm rồi ông ngủ một mình trong phòng ngủ
chính dưới tầng trệt ngôi nhà - một tòa nhà hai lầu, mười bốn phòng bằng gỗ và
gạch. Tuy bà Clutter cất quần áo của mình trong các buồng xép của căn phòng
này, và giữ một ít mỹ phẩm cùng thuốc men linh tinh trong buồng tắm xây gạch
men, kính và gạch thường ở kề đó, bà vẫn chiếm phòng ngủ trước kia của Eveanna
ở lầu hai, giống như các phòng ngủ của Nancy và Kenyon.

Ngôi
nhà - phần lớn do ông Clutter thiết kế, qua đó ông cho thấy mình là một kiến
trúc sư hiểu biết và điềm đạm, nếu không phải là nổi tiếng có óc trang trí -
được xây năm 1948 với chi phí bốn chục nghìn đô la. (Giá trị bán lại bây giờ là
sáu chục nghìn.) Nằm ở cuối
một đường nhỏ, giống đường cho xe chạy vào nhà, có hàng cây du Tàu phủ bóng,
ngôi nhà trắng đẹp tọa lạc trên một bãi thênh thang trồng cỏ Bermuda, đã làm
cho Holcomb thích thú; nó là một nơi người ta trỏ cho nhau xem. Về nội thất, có
những tấm thảm xốp bông màu gan gà triệt hẳn đi từng khoảnh một cái ánh loa lóa
của sàn nhà đánh xi luôn dội tiếng vang; một đi văng kiểu hiện đại ở phòng
khách mênh mông, bọc trong lần vải lổn nhổn hột có các sợi kim loại màu bạc dệt
lẫn vào; một buồng xây thụt vào làm nơi ăn điểm tâm kê một ghế dài nho nhỏ phủ
lớp nhựa màu lơ và trắng. Ông bà Clutter thích những đồ nội thất này, giống như
đa phần các quen biết của ông bà, nói chung nhà của họ đều trang bị đồ đạc
tương tự thế.

Ngoài
một người trông nom quét dọn chỉ đến vào những ngày làm việc, nhà Clutter không
thuê người giúp việc nội trợ, cho nên từ ngày bà Clutter ốm và hai cô gái lớn
ra đi, ông Clutter cần phải học nấu nướng; hoặc ông hoặc Nancy nhưng chủ yếu là
Nancy nấu ăn cho gia đình. Ông Clutter thích làm việc này, và làm rất giỏi -
chẳng có bà nào ở Kansas nướng được bánh mì lên men bằng muối ngon hơn ông, và
món kẹo dừa được trọng vọng của ông là khoản đầu sổ ở các cuộc bán bánh ngọt từ
thiện - nhưng ông không phải là người ăn khỏe, khác với đám bạn bè chủ trại
chăn nuôi, ông còn thích các bữa điểm tâm thanh đạm là khác. Sáng ấy, một quả
táo và mộc cốc sữa là đủ cho ông; vì không đụng đến cà phê hay trà, ông quen
bắt đầu ngày với cái bụng lép kẹp. Sự thật là ông phản đối mọi thứ kích thích,
kể cả là nhẹ. Ông không hút thuốc, và dĩ nhiên không uống rượu; thật vậy, ông
chưa bao giờ nếm rượu mạnh và có xu hướng tránh người uống rượu - tuy nhiên
điều này không làm thu hẹp vòng quan hệ xã hội của ông nhiều như ông tưởng, vì
trung tâm của cái vòng quan hệ này gồm những; thành viên của Nhà thờ Giám lý
Thứ nhất của Garden City, một hội đoàn tổng cộng một nghìn bảy trăm người, phần
lớn cũng kiêng cữ như ông Clutter hằng mong ước. Tuy thận trọng tránh làm điều
gì có hại đến quan điểm của mình, chấp nhận cách xử thế không quá khắt khe mỗi
khi bước ra khỏi vương quốc của mình đặng tiếp xúc với bên ngoài, song ông lại
ép buộc gia đình cùng với người làm thuê ở Trại Lũng Sông phải chấp nhận quan điểm
của mình. “Anh có uống rượu không?” là câu đầu tiên ông hỏi người xin việc, và
mặc dù gã kia có cho ra một lời đáp phủ định, ông vẫn cứ nhất quyết ký một hợp
đồng lao động bao hàm một khoản rằng hợp đồng sẽ lập tức bị hủy bỏ nếu nhân
viên nọ bị phát hiện “chứa chấp rượu”. Một người bạn - Lynn Russell, một chủ
trại chăn nuôi tiên phong lâu đời - có lần bảo ông: “Ông không nhân từ chút nào
cả. Tôi thề là nếu ông bắt được một người làm thuê uống rượu là hắn ta đi tong.
Ông sẽ còn chả bận tâm xem gia đình hắn ta có chết đói hay không, Herb à.” Có
lẽ đây là lời phê phán duy nhất đối với ông Clutter với tư cách ông chủ. Nếu
không người ta đã chỉ biết đến ông như một người luôn khoan hòa điềm đạm, có
lòng từ ái, và sự thực ông trả lương thưởng hậu; người làm cho ông - có khi tới
mười tám người - ít có lý do gì để phàn nàn.

Sau
khi uống cốc sữa và đội chiếc mũ lót lông, ông Clutter mang theo quả táo ra
ngoài xem xét buổi sáng. Đây là thời tiết lý tưởng để làm ăn; vòm trời trong
trẻo rọi xuống những tia nắng rực trắng nhất, ngọn gió Đông xào xạc thổi mà
không dứt đứt đi những chiếc lá cuối cùng của những cây du Tàu. Mùa thu ban
thưởng cho miền Tây Kansas bù vào những tội nợ mà các mùa kia áp đặt cho nó:
gió Colorado dữ dằn của mùa đông, tuyết sâu đến ngang hông, giết chết cừu;
những trận tuyết tan hóa thành vữa bùn và những đợt sương mù bò sát mặt đất kỳ
lạ của mùa xuân; rồi mùa hè, khi mà cả quạ cũng phải tìm một mẩu bóng râm cỏn
con, thì bạt ngàn những cuống rạ lúa mì màu hung hung đỏ bèn dựng lên chong
chỏng và bốc cháy. Cuối cùng, sau tháng Chín, một thời tiết khác đã đến, một
mùa hè muộn đôi khi kéo dài mãi tận tới lễ Giáng sinh. Trong khi ông Clutter
đang ngắm cái tiêu bản cao cấp của mùa thu này thì con chó lai giống cô-li của
Xcốtlen đến bên và cả hai cùng lững thững đến bãi thả gia súc nằm liền với một
trong ba kho thóc ở trên khu đồn điền.

Một
trong những kho này là một túp lều Quonset đồ sộ; hạt mì kê Westland đầy ứ chờm
cả ra ngoài lều, còn một lều khác thì chứa cả núi hạt mì milo hăng nồng coi sầm
sẫm đáng vô kể là tiền - một trăm nghìn đô la. Riêng con số này cũng đã tiêu
biểu cho gần bốn nghìn phần trăm tăng tiến toàn bộ thu nhập của ông Clutter năm
1934 - năm ông cưới Bonnie Fox rồi cùng bà chuyển từ Rozel, thị trấn quê hương
ở Kansas, đến Garden City, nơi ông tìm được chân trợ lý phụ trách nông nghiệp
hạt Finney. Việc này, một cách khá điển hình, đã giúp ông được đề bạt chỉ sau
bảy tháng; tức là đặt ông vào vị trí người đứng đầu. Những năm ông đương nhiệm
- từ 1935 đến 1939 - là những tháng ngày lầm than nhất, thất bát nhất mà vùng
đất này từng nếm trải từ thời người da trắng định cư ở đây, và chàng trai Herb
Clutter, vốn dĩ đã có một bộ óc ganh đua thành thạo với những giải pháp nông
nghiệp mũi nhọn tân tiến nhất, nên khá là đủ tư cách làm người trung gian giữa
chính phủ và những chủ chăn nuôi nay đã nản chí; những người này có thể sử dụng
tốt tính lạc quan và những chỉ dẫn đầy học thức của một gã trai đáng yêu xem
chừng biết công việc của mình. Tuy thế, ông không phải đang làm cái mà ông vốn
dĩ muốn làm; là con trai một chủ trại, ngay từ đầu ông đã nhắm đến việc tạo
dựng cơ ngơi của chính mình. Bởi vậy, sau bốn năm, ông thôi làm nhân viên phụ trách
nông nghiệp của hạt, và trên mảnh đất thuê bằng tiền vay nợ, tạo nên phôi thai cho Trại Lũng Sông
(cái tên này được sự hiện diện của con sông Arkansas uốn khúc biện hộ cho, chứ
thật ra chẳng hề có thung lũng nào cả). Đây là một nỗ lực mà nhiều tay bảo thủ
ở hạt Finney nhìn ngó với vẻ thú vị kiểu để-rồi-xem - đám dân kỳ cựu này từng
mong nhử tay nhân viên nông nghiệp trẻ tuổi của hạt vì các khái niệm ở trình độ
đại học của anh chàng: “Việc ấy hay đấy, Herb. Ông luôn biết ở trên đất đai
thiên hạ làm cái gì thì tốt hơn cả. Trồng cái này đi. Tôn cao chỗ kia lên.
Nhưng nếu chỗ ấy là của ông thì có thể ông sẽ nói khác đi một tí đấy.” Họ lầm;
các thử nghiệm khởi đầu đã thành công - một phần vì những năm mở đầu, ông đã
làm lụng mười tám giờ một ngày. Đã từng thất bại - hai lần thu hoạch lúa mì
hỏng ăn, và một mùa đông ông bị mất mấy trăm đầu cừu trong một cơn bão tuyết;
nhưng sau mười năm cơ nghiệp của ông Clutter là hơn tám trăm mẫu Anh thuộc sở
hữu toàn bộ của ông và trên ba nghìn mẫu nữa trồng trọt trên cơ sở thuê mượn -
và việc này, như các đồng nghiệp của ông thừa nhận, là “một cuộc mở mang rất
hay”. Lúa mì, hạt milo, hạt cỏ có bằng chứng nhận - đó là những vụ thu hoạch mà
trang trại ông dựa vào để mà thịnh vượng. Súc vật cũng quan trọng - cừu, và đặc
biệt là bò. Một đàn vài trăm con bò Hereford mang nhãn Clutter, tuy người ta
khó mà ngờ được điều này nếu chỉ nhìn vào chuồng trại có phần vắng vẻ, chủ yếu
dành cho những con mới thiến ốm đau, một ít bò sữa, những con mèo của Nancy, và
Babe, con ngựa cưng nhất của gia đình - con ngựa già béo tốt không bao giờ phản
đối việc thồ trên tấm lưng to rộng của nó những ba bốn đứa trẻ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3