Đừng nói một ai - Chương 02 + 03
2
Ở nhà, tôi gặp một cú sốc khác từ quá khứ.
Tôi ở phía bên kia cầu George Washington qua Manhattan - nằm trong khu ngoại ô Green River, mơ ước điển hình của dân Mỹ, thuộc New Jersey, một thành phố nhỏ, mặc cho biệt danh của nó, không sông cũng chẳng xanh. Nhà là nhà của ông tôi. Tôi chuyển vào sống cùng ông và một lô một lốc những cô y tá ngoại quốc thay đổi liên tục từ khi Nana mất cách đây ba năm.
Ông bị chứng mất trí. Đầu óc ông hơi giống một chiếc TV trắng đen cũ với ăngten tai thỏ bị hỏng. Nó hoạt động thất thường và một số ngày thì tốt hơn những ngày khác và bạn phải cầm mấy thanh ăngten theo một cách nhất định và không được cử động, và ngay cả khi ấy hình ảnh vẫn nhảy và trôi liên tục. Ít nhất thì, đó là tình trạng thường xuyên của nó. Nhưng sau cùng - vẫn tiếp tục với hình ảnh ẩn dụ này - chiếc TV này hiếm khi bật.
Tôi chưa bao giờ thực sự yêu quý ông. Ông là kiểu người độc đoán, lỗi thời, tự vươn lên bằng nỗ lực bản thân, ban phát tình cảm dựa theo mức độ thành công của bạn. Ông cộc cằn với kiểu tình yêu khắc nghiệt và là đấng trượng phu thời xưa. Một đứa cháu trai vừa nhạy cảm vừa không cường tráng, ngay cả khi có điểm số cao, cũng dễ dàng bị bỏ lơ.
Lý do tôi đồng ý chuyển vào ở cùng ông là vì tôi biết nếu tôi không làm thế, chị tôi sẽ đón ông về nhà chị ấy. Linda là như vậy. Khi chúng tôi hát tại trại hè Brooklake “Ông có cả thế giới trong tay”, chị đã thu nhận vào trái tim mình hơi nhiều ý nghĩa của câu ấy. Chị hẳn đã có cảm giác bổn phận. Nhưng Linda có một đứa con trai và một người bạn đời với những trách nhiệm. Tôi thì không. Vì vậy tôi làm một cú lĩnh xướng bằng việc chuyển vào sống cùng ông. Tôi thích sống ở đây, tôi nghĩ vậy. Khu này yên tĩnh.
Chloe, con chó của tôi, chạy chồm tới chủ, vẫy vẫy đuôi. Tôi gãi đôi tai mềm của nó. Nó đứng yên cho tôi gãi một lúc rồi đưa mắt nhìn sợi dây buộc.
“Đợi tao một phút,” tôi bảo nó.
Chloe không thích câu này. Nó trao cho tôi một cái nhìn - một ngón không hề dễ dàng khi lông phủ kín toàn bộ mắt. Chloe thuộc loại chó côli có râu, giống chó chăn cừu hơn bất cứ giống côli nào tôi từng biết. Elizabeth và tôi đã mua Chloe ngay sau khi chúng tôi kết hôn. Elizabeth yêu chó. Tôi thì không. Bây giờ lại có.
Chloe nằm dựa vào cửa trước. Nó nhìn cái cửa, rồi nhìn tôi, rồi lại nhìn cái cửa. Gợi ý. Gợi ý đấy.
Ông ngồi gọn trong ghế trước một chương trình trò chơi trên truyền hình. Ông không quay lại phía tôi, nhưng ông cũng có vẻ đang nhìn màn hình TV. Mặt ông đông cứng lại thành một cái mặt nạ nhợt nhạt, và cứng đờ, mặt nạ của cái chết. Lần duy nhất tôi thấy cái mặt đông cứng ấy tan chảy ra là khi ông được thay tã. Khi ấy, môi ông mím lại mỏng dính và da mặt ông chùng xuống. Ông chảy nước mắt và thỉnh thoảng một giọt rơi ra. Tôi nghĩ ông sáng suốt nhất là chính vào cái khoảnh khắc ông sớm ưng chịu tuổi già của mình.
Chúa quả có khiếu hài hước.
Cô y tá để lại một tờ giấy trên bàn bếp: GỌI CẢNH SÁT TRƯỞNG LOWELL.
Một số điện thoại được viết nguệch ngoạc ở dưới.
Đầu tôi bắt đầu ong ong. Từ lúc bị tấn công, tôi bị chứng đau nửa đầu. Những cú đập làm sọ tôi bị rạn. Tôi phải nhập viện năm ngày, mặc dù một bác sĩ chuyên khoa, bạn cùng lớp của tôi ở trường y, cho rằng chứng đau nửa đầu về nguồn gốc là do tâm lý hơn là sinh lý. Có thể anh ta đúng.
Dù là tâm lý hay sinh lý, cả nỗi đau và tội lỗi đều tồn tại. Tôi lẽ ra phải né được. Tôi lẽ ra phải thấy những cú đập. Tôi lẽ ra không được rơi xuống nước. Và cuối cùng, dù thế nào đi nữa tôi đã dồn hết sức để cứu lấy chính mình - tại sao tôi lại không thể làm điều như thế để cứu Elizabeth.
Vô ích, tôi hiểu.
Tôi đọc lại bức thư một lần nữa. Chloe bắt đầu rên rỉ. Tôi giơ một ngón tay lên. Nó ngừng rên nhưng lại bắt đầu chơi-trò-hết-liếc-tôi-rồi-tới-cái-cửa.
Tôi không có tin tức gì của cảnh sát trưởng Lowell từ tám năm nay, nhưng tôi vẫn nhớ hình ảnh ông ta hiện ra mờ mờ ở giường bệnh viện, gương mặt lộ rõ sự hoài nghi và yếm thế.
Ông ta có thể muốn gì sau ngần ấy thời gian?
Tôi cầm lấy điện thoại và bấm số. Một người trả lời ngay hồi chuông đầu tiên.
“Bác sĩ Beck, cảm ơn anh đã họi lại cho tôi.”
Tôi không ưa máy điện thoại hiển thị số người gọi đến mấy - quá Canh Chừng so với sở thích của tôi. Tôi hắng giọng và bỏ qua lời nhận xét lịch sự. “Tôi có thể giúp gì cho ông, cảnh sát trưởng?”
“Tôi đang ở trong khu nhà anh,” ông ta nói. “Tôi rất muốn được ghé qua và gặp anh, nếu anh cho phép.”
“Đây có phải là một chuyến viếng thăm xã giao không nhỉ?” tôi hỏi.
“Không, không hẳn.”
Ông ta đợi tôi nói gì đấy. Tôi không nói gì.
“Bây giờ có tiện không?” Lowell hỏi.
“Ông có phiền nếu nói cho tôi biết là có việc gì không?”
“Tôi muốn đợi đến lúc...”
“Và tôi nghĩ ông không nên đợi.”
Tôi thấy tay mình nắm ống nghe chặt hơn.
“Được rồi, bác sĩ Beck, tôi hiểu.” Ông ta hắng giọng, theo kiểu ngụ ý đang muốn có thêm chút thời gian.
“Có thể anh đã nghe tin có hai thi thể được tìm thấy ở Hạt Riley.”
Tôi chưa nghe. “Thi thể ra sao?”
“Xác chết được tìm thấy gần khu đất của anh.”
“Đó không phải là đất của tôi. Của ông tôi.”
“Nhưng anh là người bảo hộ theo luật định của ông anh, phải không?”
“Không,” tôi nói. “Chị tôi.”
“Có thể anh sẽ gọi cô ấy luôn. Tôi xin phép nói chuyện với cả cô ấy nữa.”
“Thi thể không được tìm thấy ở Hồ Charmaine, đúng không?”
“Đúng thế. Chúng tôi tìm thấy xác ở khu phía Tây bên cạnh. Thực ra là ở địa phận của hạt.”
“Vậy thì ông muốn gì từ chúng tôi?”
Ông ta ngừng nói một lúc. “Nghe này, tôi sẽ có mặt ở đấy trong vòng một giờ. Xin vui lòng gặp tôi và anh có thể sắp đặt để Linda cũng ở đó, được không?”
Ông ta gác máy.
Khoảng thời gian tám năm có vẻ không tốt với cảnh sát trưởng Lowell, nhưng dù sao thì, ông ta cũng đâu phải là Mel Gibson. Ông ta là gã ngu si, bẩn thỉu và tính cách ti tiện quá thể, đến nỗi ở bên cạnh ông ta, Nixon trông còn tươm chán. Ông ta có cái mũi hình củ khoai tây. Ông ta liên tục lôi ra một chiếc khăn mùi soa dùng quá nhiều lần, cẩn thận mở ra, hỉ mũi, cẩn thận xếp lại, rồi nhét sâu vào túi sau.
Linda vừa đến. Chị cúi người về phía trước trên đi văng, sẵn sàng bảo vệ tôi. Chị hay ngồi ở tư thế này. Chị là một trong những người có thể trao cho bạn sự quan tâm trọn vẹn, tuyệt đối. Chị đăm đăm nhìn bạn bằng đôi mắt nâu to khiến bạn không thể nhìn đi nơi khác. Tôi rõ là thiên vị, nhưng Linda là người tốt nhất tôi từng biết. Nghe có vẻ ủy mị, phải, nhưng có chị, tôi mới có được niềm hy vọng về thế giới này. Tình yêu của chị dành cho tôi là thứ tài sản duy nhất tôi có trên cõi đời này.
Chúng tôi ngồi trong phòng khách sang trọng của ông bà, tôi luôn cố hết sức tránh đặt chân đến chỗ này. Căn phòng cũ rích, khiến sởn cả gai ốc và vẫn có mùi chiếc đi-văng-của-người-già. Tôi thấy khó thở. Cảnh sát trưởng Lowell dành thời gian để làm quen với nơi này. Ông ta hỉ mũi thêm vài lần, lôi trong túi ra một tập giấy, nhấp nước bọt, lật tìm trang. Ông ta trao cho chúng tôi một nụ cười vẻ thân thiện nhất và lên tiếng.
“Xin hai người cho tôi biết lần gần đây nhất hai người đến hồ là khi nào?”
“Tôi đã ở đó tháng trước,” Linda trả lời.
Nhưng đôi mắt ông ta nhằm vào tôi. “Còn anh, bác sĩ Beck?”
“Tám năm trước.”
Ông ta gật đầu như thể đã sẵn trông chờ câu trả lời đó. “Như tôi đã giải thích trên điện thoại, chúng tôi đã tìm thấy hai thi thể gần Hồ Charmaine.”
“Ông đã nhận dạng được họ chưa?” Linda hỏi.
“Chưa.”
“Không có gì lạ thường à?”
Lowell nghĩ về việc đó khi cúi người về phía trước để lôi chiếc khăn ra một lần nữa. “Chúng tôi nhận diện được cả hai đều là đàn ông, trưởng thành, da trắng. Hiện chúng tôi đang tìm kiếm thông qua danh sách những người bị mất tích để xem liệu có phát hiện ra được gì không. Hai thi thể đã chết khá lâu rồi.”
“Bao lâu?” tôi hỏi.
Cảnh sát trưởng Lowell một lần nữa tìm mắt tôi. “Khó nói. Bên pháp y vẫn đang tiếp tục tiến hành xét nghiệm kiểm tra, nhưng chúng tôi cho rằng họ đã chết ít nhất năm năm rồi. Họ cũng được chôn khá cẩn thận. Chúng tôi sẽ không bao giờ có thể tìm thấy được họ nếu không có trận lở đất do trời mưa, và một con gấu xuất hiện với một cánh tay.”
Chị tôi và tôi nhìn nhau.
“Sao cơ?” Linda nói.
Cảnh sát trưởng Lowell gật đầu. “Một thợ săn đã bắn hạ một con gấu và tìm thấy một khúc xương. Nó nằm trong miệng con gấu. Hóa ra lại là một cánh tay người. Chúng tôi lần theo dấu vết. Tôi xin nói với hai người, mất kha khá thời gian đấy. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục khai quật khu vực này.”
“Ông nghĩ có thể có những thi thể khác nữa?”
“Chưa thể nói gì chắc chắn.”
Tôi ngồi lại. Linda vẫn giữ thế tập trung. “Vì vậy có phải ông đến đây xin phép chúng tôi để đào khu Hồ Charmaine?”
“Một phần nào đó.”
Chúng tôi chờ ông ta nói tiếp. Ông hắng giọng và lại nhìn tôi. “Bác sĩ Beck, nhóm máu của anh là B+, phải không?”
Tôi há hốc mồm, nhưng Linda đặt một bàn tay lên đầu gối tôi che chở. “Việc ấy thì có liên quan gì?” chị hỏi.
“Chúng tôi tìm thấy những thứ khác nữa,” ông ta nói. “Tại chỗ cái xác được chôn.”
“Những thứ khác là thứ gì?”
“Tôi xin lỗi. Việc ấy phải giữ bí mật.”
“Vậy thì biến ra ngoài đi,” tôi nói.
Lowell dường như không đặc biệt ngạc nhiên bởi cơn bột phát của tôi. “Tôi chỉ đang cố gắng tiến hành...”
“Tôi nói, cút ra ngoài.”
Cảnh sát trưởng Lowell không nhúc nhích. “Tôi biết kẻ giết vợ anh đã bị kết án,” ông ta nói. “Và tôi biết sẽ đau đớn bằng chết khi khơi lại tất cả những chuyện này.”
“Đừng tỏ ra thương hại tôi,” tôi nói.
“Tôi không định thế.”
“Tám năm trước ông đã nghĩ tôi giết cô ấy.”
“Điều ấy không đúng. Anh là chồng cô ấy. Trong những vụ như thế, sự dính líu của một thành viên trong gia đình...”
“Có thể là nếu không mất thời gian với cái thứ của nợ đó, ông đã có thể tìm thấy cô ấy trước khi...” tôi dằn mạnh từng tiếng một, nghẹn ngào. Tôi quay đi. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp ông ta. Linda vươn lại gần tôi, nhưng tôi dịch đi chỗ khác.
“Nghề của tôi là khám phá ra mọi khả năng,” ông ta nói giọng đều đều. “Chúng tôi được cảnh sát liên bang giúp đỡ. Ngay cả bố vợ cậu và em trai ông ta cũng được thông báo mọi tiến triển. Chúng tôi làm tất cả mọi việc có thể.”
Tôi không thể chịu đựng nghe thêm một lời nào nữa. “Ông muốn cái quái gì ở đây, hả Lowell?”
Ông ta đứng dậy và xốc quần lên. Tôi nghĩ ông ta muốn tạo lợi thế chiều cao. Để đe dọa hay gì đấy. “Một mẫu máu,” ông ta nói. “Của anh.”
“Tại sao?”
“Khi vợ anh bị bắt cóc, anh đã bị tấn công.”
“Và?”
“Anh đã bị đánh bằng một dụng cụ cùn.”
“Ông biết tất cả những thứ này rồi.”
“Đúng,” Lowell nói. Ông ta hỉ mũi lần nữa, kéo cái khăn mùi soa ra, rồi bắt đầu đi từng bước. “Khi tìm thấy hai thi thể, chúng tôi cũng phát hiện ra một cây gậy đánh bóng chày.”
Cơn đau trong đầu tôi bắt đầu nhói trở lại. “Một cây gậy?”
Lowell gật đầu. “Bị chôn dưới đất cùng với hai thi thể. Một cây gậy gỗ.”
Linda nói, “Tôi không hiểu. Thế chuyện này thì có liên quan gì đến em trai tôi?”
“Chúng tôi tìm thấy máu khô trên cây gậy. Chúng tôi xác định đó là nhóm máu B+.” Ông ta hất đầu về phía tôi. “Nhóm máu của anh, bác sĩ Beck.”
Chúng tôi trải qua chuyện ấy một lần nữa. Ngày kỷ niệm khắc dấu trên cây, bơi trong hồ, tiếng mở cửa xe, cuộc bơi điên dại đáng thương của tôi vào bờ.
“Anh vẫn nhớ bị rơi xuống hồ chứ?” Lowell hỏi tôi.
“Có.”
“Và anh nghe tiếng vợ anh hét?”
“Phải.”
“Và rồi anh mê man bất tỉnh? Trong nước?”
Tôi gật đầu.
“Anh có thể nói chỗ đó sâu bao nhiêu không? Ý tôi là anh bị ngã ở đâu?”
“Ông không kiểm tra việc này tám năm trước ư?” tôi hỏi.
“Chịu đựng tôi một tí, bác sĩ Beck.”
“Tôi không biết. Khá sâu.”
“Sâu quá đầu anh chứ.”
“Phải.”
“Được rồi. Và tiếp theo anh nhớ gì?”
“Bệnh viện,” tôi nói.
“Không có gì giữa thời gian anh bị rơi xuống nước và lúc anh tỉnh dậy ở bệnh viện?”
“Phải.”
“Anh không nhớ đã lên khỏi mặt nước? Anh không nhớ đã tìm đường đến cabin và gọi xe cấp cứu? Anh đã làm tất cả những việc đấy, anh biết đấy. Chúng tôi tìm thấy anh trên sàn cabin. Điện thoại vẫn còn treo lủng lẳng.”
“Tôi biết, nhưng tôi không nhớ gì cả.”
Linda lên tiếng. “Ông có nghĩ hai người đàn ông này là những nạn nhân khác nữa của” - chị ngập ngừng - “KillRoy?”
Chị nói cái tên trong một khoảng im lặng. KillRoy. Chỉ thốt ra tên của y cũng đủ làm băng giá cả căn phòng.
Lowell đưa tay lên miệng và ho. “Chúng tôi không chắc, thưa cô. KillRoy chỉ được biết là chuyên tấn công phụ nữ. Trước đây y chưa bao giờ che giấu một thi thể - ít nhất, chúng ta được biết không có trường hợp nào cả. Và da của hai người đàn ông đã thối rữa vì vậy chúng tôi không thể nói liệu họ có bị đóng dấu hay không.”
Đóng dấu. Tôi cảm thấy người mình lảo đảo. Tôi nhắm mắt lại và cố gắng không nghe gì nữa.
3
Sáng hôm sau, tôi lao đến văn phòng sớm, hai tiếng trước khi bệnh nhân đầu tiên đến theo lịch khám. Tôi bật máy tính, tìm địa chỉ email lạ, nhắp chuột vào hyperlink. Một lần nữa nó báo lỗi. Không đáng kinh ngạc mấy. Tôi nhìn chằm chằm vào nội dung lá thư, đọc đi đọc lại nó như thể có khả năng tìm ra được một ý nghĩa gì đó ở tầng sâu hơn. Tôi không tìm được gì.
Tôi thử máu tối qua. Xét nghiệm AND sẽ mất đến hàng tuần, nhưng cảnh sát trưởng Lowell cho rằng họ có thể tìm được mối khớp sơ bộ sớm hơn. Tôi ép ông ta cho biết thêm thông tin, nhưng ông ta vẫn ngậm chặt miệng. Ông ta đang giấu giếm chúng tôi điều gì đó. Điều gì, tôi không hề biết.
Khi ngồi trong phòng khám và đợi bệnh nhân đầu tiên đến, tôi ngẫm lại cuộc viếng thăm của Lowell. Tôi nghĩ đến hai thi thể. Tôi nghĩ đến cây gậy bằng gỗ dính máu. Và tôi cho phép bản thân mình nghĩ đến chuyện đóng dấu.
Thi thể Elizabeth được tìm thấy bên Đường 80, năm ngày sau khi nàng bị bắt cóc. Nhân viên điều tra những vụ chết bất thường dự đoán nàng đã chết được hai ngày. Điều ấy có nghĩa là nàng đã trải qua ba ngày còn sống với Elroy Kellerton, cũng được gọi là KillRoy. Ba ngày. Một thân một mình với con quái thú. Ba lần mặt trời mọc và ba lần mặt trời lặn, sợ hãi, trong bóng tối và đau đớn cực độ về thể xác cũng như tinh thần. Tôi gắng hết sức để không nghĩ đến chuyện đó. Có một số nơi đầu óc không nên đến, ở đó, nó sẽ bị lạc.
KillRoy bị bắt ba tuần sau đó. Y thú nhận đã giết mười bốn phụ nữ trong thời gian ngắn: đầu tiên là một nữ sinh Đại học ở Ann Arbor và cuối cùng, một ả gái điếm tại Bronx. Tất cả mười bốn phụ nữ được tìm thấy đều bị vứt giống như rác rưởi bên đường. Tất cả đều bị đóng dấu một chữ cái K. Đóng dấu giống như đóng dấu gia súc. Nói cách khác, Elroy Kellerton đã lấy một thanh cời lò bằng kim loại, cầm nó trong lửa nóng rực, đeo bao tay bảo vệ, đợi cho đến khi thanh cời lò nóng chảy đỏ rực, đột ngột thiêu cháy làn da đẹp đẽ Elizabeth của tôi với tiếng cháy xèo xèo.
Đầu óc tôi đã rẽ nhầm đường, đi vào hướng sai, và những hình ảnh bắt đầu tràn ngập. Tôi ép hai mắt nhắm lại và cầu cho những hình ảnh đấy biến đi. Không có tác dụng gì. Tiện thể xin nói, y vẫn còn sống. Ý tôi là KillRoy. Việc tố tụng của chúng tôi tạo cơ hội cho con quái thú này được thở, đọc, nói chuyện, được phỏng vấn trên CNN, được những người bác ái đến thăm, được mỉm cười. Trong khi đó, những nạn nhân của y thối rữa. Như tôi nói đấy, Chúa quả có khiếu hài hước.
Tôi dấp nước lạnh lên mặt và nhìn vào gương. Trông tôi như quỷ. Bệnh nhân bắt đầu xếp hàng lúc 9 giờ. Dĩ nhiên lòng tôi rối bời. Tôi liên tục nhìn đồng hồ trên tường, đợi đến “thời điểm hôn” - 6:15 chiều. Mấy chiếc kim đồng hồ lê bước chậm chạp về phía trước cứ như thể chúng đang tắm trong nước xi rô đặc.
Tôi tự đắm mình vào việc chăm sóc bệnh nhân. Tôi vẫn luôn có khả năng đó. Khi còn là một đứa trẻ, tôi có thể học hàng giờ. Đến khi là một bác sĩ, tôi có thể tự mất hút trong công việc. Tôi làm như thế sau khi Elizabeth mất. Một số người bảo tôi trốn mình trong công việc, rằng tôi chọn làm việc thay cho sống. Đáp lại kiểu nói nhàm chán ấy, tôi chỉ phản ứng với một câu đơn giản: “Thế ý anh là gì?”
Buổi trưa, tôi nuốt vội một chiếc sandwich giăm bông và một lon Diet Coke rồi tiếp thêm vài bệnh nhân nữa. Năm ngoái, một thằng bé tám tuổi đã đến gặp bác sĩ nắn khớp xương để “nắn thẳng lại cột sống” tám mươi lần. Thằng bé không bị đau lưng. Đó là một trò lừa bịp do vài tên bác sĩ khu vực thực hiện. Họ tặng cho các bậc phụ huynh một chiếc TV hay VCR miễn phí nếu các bậc phụ huynh này mang con đến. Sau đó, họ bắt Trợ cấp Y tế trả tiền cho lần khám bệnh ấy. Trợ cấp Y tế là một tổ chức tuyệt vời và tuyệt đối cần thiết, nhưng thường xuyên bị lạm dụng quá nhiều. Tôi từng có lần khám cho một thằng bé mười sáu tuổi được xe cấp cứu đưa gấp vào bệnh viện - chỉ vì bị bỏng nắng thông thường. Tại sao phải là một chiếc xe cấp cứu thay vì chỉ là taxi hay tàu điện ngầm? Mẹ thằng bé giải thích rằng chính bà ta phải trả cho những thứ này hoặc đợi chính phủ bồi hoàn. Trợ cấp Y tế ngay lập tức chi trả tiền xe cứu thương.
Lúc 5 giờ, tôi tạm biệt bệnh nhân cuối cùng. Bộ phận hỗ trợ rời khỏi lúc 5 rưỡi, tôi đợi đến khi văn phòng về hết rồi ngồi xuống và đối mặt với máy tính. Tôi nghe thấy điện thoại phòng khám reo văng vẳng. Một chiếc máy trả lời cuộc gọi sau 5 rưỡi và nêu ra cho người gọi một vài lựa chọn, nhưng vì lý do nào đó, chiếc máy ấy không nhận cuộc gọi đến hồi chuông thứ mười. Tiếng chuông làm tôi phát bực.
Tôi online, tìm email, và một lần nữa nhắp chuột vào hyperlink chưa hoạt động. Vẫn là một khu vực cấm. Tôi nghĩ đến lá thư lạ này và những thi thể kia. Phải có một mối liên hệ nào đó. Đầu óc tôi tiếp tục quay lại sự việc có vẻ đơn giản ấy. Tôi bắt đầu sắp xếp các khả năng.
Khả năng thứ nhất: hai người đàn ông kia là sản phẩm của KillRoy. Quả thực, những nạn nhân khác của y đều là phụ nữ và được tìm thấy một cách dễ dàng, nhưng chẳng lẽ điều đó loại trừ khả năng y có giết những người đàn ông khác.
Khả năng thứ hai: KillRoy đã thuyết phục hai người đàn ông này giúp đỡ y bắt cóc Elizabeth. Điều này hẳn giúp làm sáng rõ nhiều thứ. Đầu tiên là cây gậy gỗ, nếu vết máu trên cây gậy thực sự là của tôi. Nó cũng giúp giải quyết câu hỏi lớn của tôi về toàn bộ vụ bắt cóc. Theo lý thuyết, KillRoy, như tất cả những kẻ giết người hàng loạt khác, hành động một mình. Tôi đã luôn tự hỏi làm thế nào y có thể kéo lê Elizabeth đến xe và trong cùng lúc đó, nằm đợi tôi lên khỏi mặt nước? Trước lúc thi thể nàng xuất hiện, cảnh sát đã giả định không chỉ có một kẻ bắt cóc. Nhưng một khi thi thể nàng được tìm thấy, bị đóng dấu chữ K, giả thuyết ấy được giải thích một cách khéo léo hơn. KillRoy đã làm việc ấy, theo lý thuyết là thế, nếu y đánh hay bằng cách nào đó chế ngự được Elizabeth và rồi sau đấy quay sang tôi. Đó không phải là một mối nối hoàn hảo, nhưng nếu bạn nhấn đủ mạnh, mối nối sẽ khớp lại.
Bây giờ chúng ta có một cách giải thích khác. Y có những kẻ đồng phạm. Và y đã giết chúng.
Khả năng thứ ba đơn giản nhất: Vết máu trên cây gậy không phải của tôi. Nhóm máu B+ không phổ biến thật, nhưng nó cũng không phải quá hiếm. Trong tất cả các khả năng có thể xảy ra, hai thi thể này không có liên quan gì với cái chết của Elizabeth.
Tôi không thể buộc bản thân mình tin giả thiết này.
Tôi nhìn đồng hồ máy tính. Nó được nối với vệ tinh gì đó có thể chỉ thời gian chính xác.
6:04:42 chiều.
Mười phút và mười tám giây nữa là đến.
Đến cái gì?
Điện thoại vẫn reo. Tôi không nghe chuông nữa và gõ gõ ngón tay. Giờ thì còn chưa đầy mười phút. Được rồi, nếu có thay đổi ở hyperlink, thì điều đó có thể xảy ra trước thời điểm này. Tôi đặt tay lên chuột và hít một hơi thật sâu.
Máy nhắn tin của tôi đột nhiên kêu to.
Tối nay không phải phiên trực của tôi. Điều này có nghĩa hoặc nhầm lẫn - việc cho đến bây giờ là quá thường xuyên bởi những tay trực tổng đài đêm ở phòng khám - hoặc một cuộc gọi cá nhân. Nó lại bíp. Tiếng bíp đôi. Điều đó có nghĩa là chuyện khẩn cấp. Tôi nhìn lên màn hình máy nhắn tin.
Một cuộc gọi của cảnh sát trưởng Lowell, được đánh dấu Khẩn cấp.
Tám phút.
Tôi do dự nhưng không lâu lắm. Bất cứ điều gì cũng tốt hơn là miên man trong những ý nghĩ của riêng tôi. Tôi quyết định gọi lại cho ông ta.
Lowell một lần nữa lại biết ai gọi trước khi ông ta nhấc máy.
“Xin lỗi vì đã làm phiền anh, đốc tờ.” Đốc tờ, bây giờ ông ta lại gọi tôi như thế. Cứ như thể bọn tôi là bạn bè thân thiết. “Nhưng tôi chỉ có một câu hỏi nhỏ thôi.”
Tôi đặt lại tay lên con chuột, di chuyển con trỏ vào hyperlink, và nhấn. Trình duyệt web bắt đầu chạy.
“Tôi nghe đây,” tôi nói.
Trình duyệt web lần này chạy lâu hơn. Không có bảng thông báo lỗi xuất hiện.
“Cái tên Sarah Goodhart có nghĩa gì với anh không?”
Tôi suýt làm rơi điện thoại.
“Đốc?”
Tôi kéo ống nghe ra và nhìn như thể nó vừa bất thình lình xuất hiện trong tay. Tôi thu nhặt từng chút một những mảnh cơ thể mình. Khi tin lại vào giọng nói của chính mình, tôi đưa điện thoại lên tai. “Tại sao ông lại hỏi điều ấy?”
Có cái gì đấy bắt đầu xuất hiện trên màn hình máy tính. Tôi liếc nhìn. Một chiếc camera ngoài trời. Hay camera đường phố, tôi đoán người ta gọi như thế. Bây giờ mọi người sử dụng chúng trên tất cả các trang web. Tôi thỉnh thoảng sử dụng camera giao thông, đặc biệt là để xem tắc đường buổi sáng ở cầu Washington.
“Đó là một câu chuyện dài,” Lowell nói.
Tôi cần thêm thời gian. “Tôi sẽ gọi lại cho ông sau.”
Tôi gác máy. Sarah Goodhart. Cái tên có ý nghĩa với tôi. Có ý nghĩa rất nhiều.
Cái quái gì đang diễn ra ở đây thế?
Trình duyệt ngừng load. Trên màn hình, tôi nhìn thấy cảnh một đường phố trong hai màu đen trắng. Phần còn lại của trang trống không. Không bảng quảng cáo hay tít chữ. Tôi biết thiết kế như thế để tạo khoảng trống cho hình ảnh giãn ra. Thứ chúng ta có ở đây cũng thế.
Tôi nhìn đồng hồ máy tính.
6:12:18 chiều.
Chiếc camera chúc xuống một góc phố khá tấp nập, cách mặt đường chừng 4,5m. Tôi không biết góc phố cũng như thành phố tôi đang nhìn thấy. Rõ ràng là một thành phố lớn. Khách bộ hành di chuyển từ trái sang phải, đầu cúi, vai rụt, cặp da trong tay, mệt lử sau một ngày làm việc, có lẽ đang hướng tới một ga tàu hay xe bus nào đó. Về phía xa bên phải, tôi nhìn thấy gờ đường. Dòng người bắt đầu dâng sóng, có lẽ tương ứng với chuyển đổi của đèn giao thông.
Tôi nhíu mày. Tại sao ai đó lại gửi cho tôi cái cảnh này?
Đồng hồ chỉ 6:14:21 chiều. Còn chưa đầy một phút nữa là đến.
Tôi dán chặt mắt vào màn hình và đếm ngược giây như trong đêm giao thừa. Mạch tôi bắt đầu đập nhanh. 10, 9, 8...
Một đợt sóng người khác đang di chuyển từ phải sang trái. Tôi rời mắt khỏi đồng hồ. 4, 3, 2. Tôi nín thở và đợi. Khi liếc đồng hồ một lần nữa, nó chỉ:
6:15:02 chiều.
Không có gì xảy ra - nhưng mà này, tôi đã mong đợi điều gì cơ chứ?
Đợt sóng người rút dần và một lần nữa, trong một hay hai giây, không còn ai trên màn hình. Tôi ngồi lại, hít lấy không khí. Một trò đùa, tôi nghĩ. Một trò đùa kỳ quặc, chắc chắn là thế. Thậm chí bệnh hoạn. Nhưng dù sao...
Chính lúc này, một ai đó đi ra khỏi vị trí ngay dưới camera. Cứ như thể trong suốt thời gian vừa rồi người đó đã đứng đợi sẵn ở đó.
Tôi chồm người tới.
Một phụ nữ. Tôi nhìn thấy rõ mặc dù lưng cô quay về phía tôi. Tóc ngắn, nhưng rõ ràng là một phụ nữ. Từ góc nhìn ấy, cho đến lúc này, tôi không thể nhận ra bất cứ khuôn mặt nào. Không có gì khác biệt. Đầu tiên thì không.
Người phụ nữ dừng lại. Tôi nhìn vào đỉnh đầu cô, cầu mong cô nhìn lên. Cô bước thêm một bước nữa. Cô bây giờ đang ở giữa màn hình. Một ai đó vừa đi ngang qua. Người phụ nữ vẫn đứng yên. Rồi cô quay lại và từ từ ngẩng cằm lên cho đến khi cô nhìn thẳng vào camera.
Tim tôi ngừng đập.
Tôi đưa tay lên miệng và nén một tiếng thét.
Tôi không thở nổi. Tôi không nghĩ được gì. Nước mắt dâng đầy và chảy tràn xuống hai má. Tôi không buồn lau đi.
Tôi đăm đăm nhìn cô. Cô đăm đăm nhìn tôi.
Một nhóm người đi bộ băng qua màn hình. Một vài người va vào cô, nhưng người phụ nữ vẫn không dịch chuyển. Cô nhìn như bất động vào camera. Cô giơ tay như thể hướng về phía tôi. Đầu óc tôi quay cuồng. Cứ như thể những thứ trói chặt tôi với hiện thực đã bị cắt đứt.
Tôi bị thả trôi nổi bồng bềnh không kiểm soát được.
Cô vẫn giơ tay. Chầm chậm, tôi cố gắng nâng tay mình lên. Những ngón tay tôi chạm vào màn hình âm ấm, cố với được tới cô. Nước mắt lại lã chã. Tôi dịu dàng vuốt ve khuôn mặt người phụ nữ và thấy trái tim mình cùng một lúc vừa tan nát vừa vút bay lên.
“Elizabeth,” tôi gọi thầm.
Nàng đứng đó thêm một hay hai giây nữa. Rồi nàng nói gì đấy vào camera. Tôi không thể nghe tiếng nàng nói, nhưng tôi đọc được môi nàng.
“Em xin lỗi,” người vợ đã mất của tôi mấp máy môi.
Và rồi nàng bước đi.