Đừng nói một ai - Chương 17 + 18 + 19
17
Khi đã vào được trong studio của Rebecca Schayes, Larry Gandle gọi di động cho vợ. “Anh sẽ về muộn,” gã nói.
“Đừng quên uống thuốc,” Patty bảo gã.
Gandle bị bệnh tiểu đường nhẹ, điều trị bằng ăn kiêng và thuốc. Không chứa insulin.
“Anh nhớ rồi.”
Eric Wu, vẫn đeo headphone Walkman, cẩn trọng trải một tấm bạt bằng nhựa vynil xuống gần cửa.
Gandle cúp máy điện thoại và đeo vội đôi găng tay cao su nhân tạo vào. Việc sục sạo phải toàn diện và rất mất thời gian. Như hầu hết bọn thợ chụp ảnh, Rebecca Schayes lưu trữ lại hàng tấn các bản âm. Mấy thứ đó được tống đầy trong bốn tủ kim loại to. Chúng xem lịch làm việc của Rebecca Schayes. Cô sắp kết thúc một ca chụp. Cô sẽ quay lại đây làm việc trong phòng tối trong vòng một giờ nữa. Không đủ thời gian.
“Mày biết cái gì có thể có ích không,” Wu nói.
“Cái gì?”
“Biết chúng ta đang tìm cái chó chết gì.”
“Beck nhận được những cái email bí ẩn,” Gandle nói. “Và hắn làm gì? Lần đầu tiên trong tám năm, hắn lao đến gặp cô bạn cũ của vợ. Chúng ta cần biết tại sao.”
Wu nhìn gã một lúc. “Tại sao chúng ta không đơn giản là đợi rồi hỏi cô ta?”
“Sẽ thế, Eric.”
Wu chậm chạp gật đầu và quay đi.
Gandle phát hiện ra một bàn kim loại dài trong phòng tối. Gã thử kiểm tra cái bàn. Vững. Kích cỡ phù hợp. Bạn có thể đặt ai đó trên bàn và trói chân vào chân bàn.
“Chúng ta mang theo bao nhiêu dây trói?”
“Đủ,” Wu nói.
“Vậy thì làm hộ tao cái này,” Gandle nói. “Chuyển cái miếng trải kia ra mặt dưới cái bàn.”
Còn nửa tiếng nữa là đến giờ tôi nhận được lá thư ở Bat Street.
Màn trình diễn của Shauna đập vào tôi như một cú đấm móc tay trái bất ngờ. Tôi lảo đảo, và rồi lãnh đủ lần đếm từ một tới mười. Nhưng một chuyện lạ lùng đã xảy ra. Tôi nhấc mông lên được khỏi tấm vải bạt. Tôi đứng thẳng trở lại và giơ tay phủi cái đám mạng nhện đi và bắt đầu di chuyển vòng tròn.
Chúng tôi ngồi trong xe. Shauna nằng nặc đòi về nhà cùng tôi. Một chiếc limousine sẽ đón cô vài giờ sau. Tôi biết cô muốn an ủi tôi, nhưng cũng rõ ràng chẳng kém là cô chưa muốn về nhà.
“Có chuyện này tớ không hiểu,” tôi nói.
Shauna quay sang tôi.
“FBI nghĩ tớ giết Elizabeth, đúng không?”
“Đúng.”
“Vậy tại sao bọn họ còn gửi mail giả vờ là cô ấy vẫn còn sống?”
Shauna không trả lời ngay được.
“Thử nghĩ mà xem,” tôi nói. “Cậu bảo đây là trò thêu dệt để khiến tớ lộ ra tội của tớ. Nhưng nếu tớ giết Elizabeth, tớ sẽ biết đây là một trò bịp chứ.”
“Đây là một trò nắn gân,” Shauna nói.
“Nhưng nó không hợp lý. Nếu cậu muốn nắn gân tớ, gửi cho tớ vài cái email và giả vờ là - tớ không biết - ai đó đã chứng kiến vụ án mạng hay gì đó.”
Shauna nghĩ ngợi. “Tớ nghĩ bọn họ chỉ đang cố khiến cậu mất thăng bằng thôi, Beck ạ.”
“Ừ, nhưng vẫn thế. Không hợp lý.”
“Được, lá thư tiếp theo bao lâu nữa thì xuất hiện?”
Tôi nhìn đồng hồ. “Hai mươi phút.”
Shauna ngồi lại trong ghế. “Bọn mình sẽ đợi và xem nó viết gì.”
Eric Wu mở laptop ra đặt trên góc sàn studio của Rebecca Schayes.
Hắn kiểm tra máy tính ở văn phòng Beck trước. Vẫn ở tình trạng để không. Đồng hồ chỉ hai mươi giờ hơn. Phòng khám đã đóng cửa từ lâu. Hắn chuyển sang máy tính ở nhà. Trong một vài giây không có gì. Và rồi.
“Beck vừa mới đăng nhập,” Wu nói.
Larry Gandle vội lao tới. “Chúng ta vào và xem lá thư trước hắn được không?”
“Không phải là ý hay lắm.”
“Tại sao không?”
“Nếu chúng ta truy cập rồi hắn cũng làm thế, nó sẽ thông báo cho hắn biết ai đó đồng thời sử dụng tên truy cập.”
“Hắn sẽ biết hắn đang bị theo dõi?”
“Phải. Nhưng không quan trọng. Chúng ta đồng thời theo dõi hắn. Ngay lúc hắn đọc lá thư, chúng ta cũng sẽ đọc được nó.”
“Được, thông báo tao biết khi nào.”
Wu liếc nhìn màn hình. “Hắn vừa mới mở trang Bigfoot. Nó sẽ xuất hiện vài giây nữa thôi.”
Tôi gõ bigfoot.com và nhấn nút Back.
Chân phải tôi bắt đầu rung dữ dội. Nó bị như vậy mỗi khi tôi căng thẳng. Shauna đặt tay lên đầu gối tôi. Nó rung nhẹ dần rồi ngừng hẳn. Cô nhấc tay lên. Đầu gối tôi ở yên một phút, và rồi nó lại bắt đầu rung. Shauna đặt tay lại lên đầu gối tôi. Chu kỳ lại bắt đầu.
Shauna cố tỏ ra bình thản, nhưng tôi biết cô liên tục liếc trộm tôi. Cô là bạn thân nhất của tôi. Cô ủng hộ tôi đến cùng. Nhưng chỉ một kẻ ngu ngốc mới không đặt câu hỏi liệu tôi có bị điên hay không. Người ta bảo rằng bệnh điên, cũng như đau tim hay trí thông minh, có di truyền. Ý nghĩ đó nảy ra trong đầu tôi từ lúc tôi lần đầu tiên nhìn thấy Elizabeth trên cái camera đường phố. Nó không phải là một ý nghĩ dễ chịu cho lắm.
Cha tôi chết trong một tai nạn ôtô khi tôi hai mươi tuổi. Xe của ông lật qua một con đê. Theo một nhân chứng - tài xế xe tải từ Wyoming - chiếc Buick của cha đâm thẳng vào nó. Đó là một đêm lạnh giá. Con đường, mặc dù gồ ghề, lại rất trơn.
Nhiều người đưa ra giả thuyết - ừ thì dầu sao cũng là đưa ra bằng những lời thì thầm - cha tôi tự sát. Tôi không tin. Phải, ông đã ngày càng thu mình và im lặng trong vài tháng cuối cùng. Và phải, tôi thường tự hỏi liệu có đúng rất cả những việc đó khiến ông càng dễ bị tai nạn không. Nhưng tự sát? Không đời nào.
Mẹ tôi, luôn là một người yếu ớt có vẻ bị chứng loạn thần kinh chức năng nhẹ, phản ứng bằng cách dần dần mất đi sự minh mẫn. Bà quả thật đã rút lui vào cái vỏ ốc của mình. Linda cố gắng chăm sóc bà trong ba năm, cho đến khi ngay cả chị cũng phải đồng ý mẹ cần được đưa đi chữa trị. Linda đến thăm bà suốt. Tôi thì không.
Sau vài giây nữa, trang chủ Bigfood hiện ra. Tôi tìm ô tên đăng nhập và gõ vào Bad Street.
Tôi nhấn phím tab và ở ô mật khẩu tôi gõ Teenage. Tôi nhấn Back.
Không có gì xảy ra.
“Cậu quên nhấn vào biểu tượng Đăng nhập,” Shauna nói.
Tôi nhìn cô. Cô nhún vai. Tôi nhấn vào biểu tượng đó.
Màn hình trở nên trắng. Rồi một quảng cáo của cửa hàng bán CD xuất hiện. Cái bảng quảng cáo nằm ở cuối trang dập dềnh đi lên đi xuống. Phần trăm hiển thị chậm chạp tăng dần. Khi nó chạy được mười tám phần trăm cái bảng biến mất và rồi vài giây sau một thông báo xuất hiện.
LỖI - Hoặc tên đăng nhập hoặc mật khẩu bạn vừa gõ không có trong dữ liệu của chúng tôi.
“Thử lại đi,” Shauna nói.
Tôi làm lại. Một bảng báo lỗi như vậy xuất hiện. Máy tính đang bảo tôi tài khoản này thậm chí không tồn tại.
Thế là có nghĩa gì?
Tôi không biết. Tôi cố nghĩ ra một lý do tại sao tài khoản không tồn tại.
Tôi xem giờ: 8:34 tối.
Thời điểm hôn.
Nó có thể là câu trả lời không? Có thể nào tài khoản này, cũng giống như đường link ngày hôm qua, đơn giản là vẫn chưa tồn tại? Tôi ngẫm thêm một lần nữa. Dĩ nhiên là có thể, nhưng không chắc xảy ra.
Như thể đọc được ý nghĩ của tôi, Shauna nói, “Có lẽ chúng ta nên đợi đến tám giờ mười lăm.”
Vì vậy tôi thử lại vào lúc tám giờ mười lăm. Lúc tám giờ mười tám. Lúc tám giờ hai mươi.
Không có gì ngoài bảng thông báo lỗi y như vây.
“Bọn FBI hẳn là đã chặn rồi,” Shauna nói.
Tôi lắc đầu, chưa chịu từ bỏ.
Chân tôi lại bắt đầu run. Shauna dùng một tay để làm nó đứng yên và một tay để trả lời điện thoại di động. Cô bắt đầu hét ai đó ở phía đầu dây bên kia. Tôi nhìn đồng hồ. Tôi thử lần nữa. Không có gì. Hai lần nữa. Không có gì.
Bây giờ đã quá tám giờ ba mươi.
“Cô ấy, ừ thì, có thể muộn,” Shauna nói.
Tôi cau mày.
“Khi cậu thấy cô ấy hôm qua,” Shauna cố nói, “cậu không biết cô ấy ở đâu, phải không?”
“Ừ.”
“Vậy có thể là cô ấy ở một múi giờ khác,” Shauna nói. “Có thể đó là lý do tại sao cô ấy muộn.”
“Một múi giờ khác?” Tôi càng cau mày hơn. Shauna nhún vai.
Chúng tôi đợi một giờ nữa. Shauna, thật đáng ngợi khen, không hề nói tớ đã bảo với cậu rồi mà. Sau một lúc, cô đặt tay lên lưng tôi và nói, “Này, tớ có một ý.”
Tôi quay lại cô.
“Tớ sẽ đợi ở một phòng khác,” Shauna nói. “Tớ nghĩ thế có thể có tác dụng.”
“Sao cậu nghĩ thế?”
“Thì đấy, nếu đây là một bộ phim, nó có thể là đoạn tớ chán đến tận cổ sự điên rồ của cậu và bỏ biến đi và rồi bingo, thư xuất hiện, cậu biết đấy, vì vậy có mỗi mình cậu nhìn thấy nó và tất cả mọi người vẫn nghĩ cậu bị điên. Như trong phim Scooby-Doo khi chỉ có mỗi anh chàng và Shaggy nhìn thấy ma và không ai tin họ ấy?”
Tôi nghĩ về chuyện đó. “Đáng để thử,” tôi nói.
“Tốt. Vì vậy sao tớ không sang đợi trong bếp một lúc nhỉ? Tận dụng cơ hội nhé. Khi nào thư xuất hiện, chỉ việc hét lên một tiếng.”
Cô đứng lên.
“Cậu chỉ đang cố chiều lòng tớ thôi, phải không?” tôi nói.
Shauna nghĩ. “Ừ, có lẽ.”
Rồi cô đi ra. Tôi quay lại và đối diện với màn hình. Và tôi đợi.
18
“Không có gì xảy ra,” Eric Wu nói. “Beck vẫn cố đăng nhập, nhưng tất cả những gì hắn nhận được là một thông báo lỗi.”
Larry Gandle toan hỏi câu hỏi tiếp theo thì gã nghe thấy tiếng thang máy chạy lên. Gã nhìn đồng hồ.
Rebecca Schayes về đúng giờ.
Eric Wu quay khỏi máy tính. Hắn nhìn Larry Gandle bằng ánh mắt khiến người ta phải lùi một bước. Gandle rút súng ra - lần này một khẩu chín li. Chỉ phòng khi. Wu cau mặt. Hắn dịch đến chỗ cửa và tắt đèn.
Chúng chờ trong bóng tối.
Hai mươi giây sau, thang máy dừng lại ở tầng chúng đang đứng.
Rebecca Schayes hầu như không còn nghĩ đến Elizabeth và Beck nữa. Rốt cuộc thì cũng đã tám năm rồi. Nhưng sự việc sáng nay lại khuấy lên một số cảm giác đã ngủ yên từ lâu. Những cảm giác bứt rứt bám đuổi.
Về vụ “tai nạn ôtô”.
Sau tất cả những năm qua, Beck cuối cùng đã hỏi cô về nó.
Tám năm trước, Rebecca đã chuẩn bị để kể cho anh về nó. Nhưng Beck không gọi lại cho cô. Thời gian trôi qua - và sau khi đã có vụ bắt giữ - cô nghĩ vực quá khứ dậy thì ích gì. Nó chỉ khiến Beck tổn thương. Và sau khi KillRoy bị bắt giam, càng không có liên quan gì cả.
Nhưng cảm giác bứt rứt đó - cảm giác những vết thâm tím trên người Elizabeth do “tai nạn ôtô” thế nào đó lại là điềm báo cho việc cô ấy bị giết - nấn ná còn mãi, mặc dù nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Còn hơn thế, cảm giác bứt rứt đó mắng nhiếc cô, khiến cô tự hỏi nếu cô, Rebecca, khăng khăng nài, thực sự khăng khăng nài, tìm ra sự thật về vụ “tai nạn ôtô”, thì có lẽ, chỉ có lẽ thôi, cô đã có thể cứu được bạn mình.
Tuy nhiên, cảm giác bứt rứt đó nhạt dần theo thời gian. Suy cho cùng, Elizabeth từng là bạn cô, dù có thân thiết cỡ nào, bạn cũng sẽ vượt qua được cái chết của một người bạn. Gary Lamont đã bước vào cuộc sống của cô ba năm trước và thay đổi mọi thứ. Phải, Rebecca Schayes, cô thợ chụp ảnh bôhêmiêng từ Greenwich Village, đã phải lòng một tay buôn bán cổ phiếu ở Wall Street siêng năng xoay xở kiếm chác. Họ kết hôn và chuyển đến một nhà cao tầng thời thượng ở Upper West Side.
Cuộc đời vận động mới kỳ lạ làm sao.
Rebecca bước vào thang máy chở hàng hóa và đẩy nhẹ cái cửa xuống. Đèn không sáng, một điều bất bình thường ở tòa nhà này. Thang máy bắt đầu đi lên tầng của cô, tiếng ầm ầm dội lên nền đá. Thỉnh thoảng trong đêm, cô nghe thấy tiếng ngựa hí, nhưng bây giờ chúng im bặt. Mùi cỏ khô và thứ gì đó có lẽ còn hôi hơn vảng vất trong không khí.
Cô thích ở đây buổi đêm. Sự tĩnh mịch nơi này trộn lẫn với những tiếng ồn ào trong đêm thành phố theo một cách khiến cô cảm thấy mình “nghệ sĩ” hơn.
Đầu óc cô bắt đầu thả trôi về cuộc đối thoại tối qua với Gary. Anh muốn chuyển khỏi thành phố New York, tốt nhất là đến sống tại một căn nhà rộng rãi ở Long Island, tại Sands Point, nơi anh lớn lên. Ý tưởng chuyển đến ngoại ô làm cô kinh hoàng. Còn hơn cả tình yêu dành cho thành phố này, cô biết đó sẽ là sự phản bội cuối cùng với gốc rễ bôhêmiêng của mình. Cô sẽ trở thành cái mà cô thề sẽ không bao giờ trở thành: mẹ cô và mẹ của mẹ cô.
Thang máy dừng lại. Cô nâng cửa lên và bước ra hành lang. Tất cả đèn ở trên này đều tắt ngóm. Cô vuốt tóc ra sau và buộc túm lại thành một cái đuôi ngựa dày. Cô liếc đồng hồ. Gần chín giờ. Tòa nhà vắng tanh. Ít nhất không một bóng người.
Giày cô nện lách cách trên nền xi măng lạnh. Sự thật là - và Rebecca đang phải trải qua một thời gian khó khăn để chấp nhận nó, cô là một bôhêmiêng và kể cả điều này nữa - càng nghĩ về chuyện đó, cô càng nhận ra rằng, đúng vậy, cô muốn có con, và thành phố này là một nơi quá ồn ào để nuôi chúng. Trẻ con cần có sân sau và xích đu và không khí trong lành và...
Rebecca Schayes đã gần đi đến quyết định - một quyết định không nghi ngờ gì sẽ làm gã chồng môi giới buôn bán Gary của cô cảm động run lên - khi cô nhét chìa khóa vào cửa và mở studio. Cô bước vào trong và bật công tắc đèn.
Đó chính là lúc cô nhìn thấy gã người châu Á hình dáng kỳ quặc.
Trong một vài giây, gã kia đơn giản chỉ nhìn cô chằm chằm. Rebecca đứng chết cứng trong cái nhìn của gã. Rồi gã châu Á bước đến bên, gần như sau cô, và tung một cú đấm vào thắt lưng cô.
Như thể một cái búa tạ vừa quai vào thận cô.
Rebecca khuỵu gối. Gã kia túm lấy cổ cô bằng hai ngón tay. Gã siết chặt. Rebecca thấy những ngọn đèn sáng rỡ. Dùng bên tay còn đang rỗi việc, gã thọc sâu những ngón như rìu đập đá vào lồng ngực cô. Khi chúng chạm đến gan, mắt cô lồi lên. Sự đau đớn vượt quá bất cứ thứ gì cô từng tưởng tượng ra. Cô cố hét lên, nhưng chỉ có một tiếng ú ớ bị nghẹt thoát ra từ miệng cô.
Phía bên kia phòng, một giọng đàn ông xuyên qua cơn mơ màng.
“Elizabeth đâu?” giọng đó hỏi.
Lần đầu tiên.
Nhưng không phải lần cuối cùng.
19
Tôi ngồi trước cái máy tính chết tiệt đó và bắt đầu uống khá dữ. Tôi cố đăng nhập vào trang đó hàng chục lần khác nhau. Tôi dùng Explorer rồi tôi dùng Nestscape. Tôi xóa sạch bộ nhớ đệm và chạy lại các trang và tắt mạng đi rồi kết nối lại.
Không ích gì. Tôi vẫn nhận thông báo lỗi.
Lúc mười giờ, Shauna vào lại phòng. Má cô hây hây đỏ vì rượu. Má tôi cũng vậy, tôi tưởng tượng. “Không tiến triển chút nào?”
“Về nhà đi,” tôi nói.
Cô gật đầu. “Phải, tớ nghĩ tốt hơn là thế.”
Chiếc limousine đến trong vòng năm phút, Shauna lảo đảo trên lề đường, bị rượu bourbon và Rolling Rock làm chuếnh choáng thực sự. Tôi cũng thế.
Shauna mở cửa xe và quay lại tôi. “Cậu có bao giờ ham muốn ngoại tình chưa? Ý tớ là, khi hai đứa cậu đã kết hôn rồi ấy.”
“Chưa,” tôi nói.
Shauna lắc đầu, thất vọng. “Cậu không hề biết làm rối tung cuộc đời cậu lên như thế nào cả.”
Tôi hôn tạm biệt cô và trở vào trong. Tôi tiếp tục dán mắt vào màn hình như thể nó là thứ gì đó linh thiêng lắm. Không có gì thay đổi.
Vài phút sau, Chloe từ từ tiến lại gần. Cô nàng huých huých tay tôi bằng cái mũi ướt. Qua cả rừng lông của cô nàng, mắt bọn tôi gặp nhau và tôi thề Chloe hiểu được tôi đang cảm thấy gì. Tôi không phải là loại người cho rằng loài chó có những đặc điểm của con người - nhưng tôi thực sự tin chúng có được hiểu biết cơ bản rằng cái phần tương ứng với con người ở chúng đang cảm thấy gì. Người ta bảo chó có thể ngửi thấy nỗi sợ. Có phải là một thứ suy rộng ra khi tin chúng cũng có thể ngửi thấy cả niềm vui hay giận dữ hay nỗi buồn?
Tôi mỉm cười với Chloe và nựng nựng đầu nó. Cô nàng đặt một chân lên tay tôi cử chỉ an ủi. “Cô em muốn ra ngoài đi dạo à?” tôi nói.
Câu đáp của Chloe là nhảy loạn lên như một con chó điên trong gánh xiếc. Như tôi bảo với bạn lúc trước rồi đấy, đó chỉ là những thứ nhỏ nhặt thôi.
Không khí ban đêm làm phổi tôi bị kích thích. Tôi cố tập trung vào Chloe - bước đi vui nhộn của nó, cái đuôi lúc lắc - nhưng tôi thì, thế đấy, ỉu xìu. Ỉu xìu. Đó không phải là một từ tôi hay dùng. Nhưng tôi nghĩ nó hợp.
Tôi vẫn không hoàn toàn tin vào giả thuyết thủ thuật kỹ thuật số quá mức tinh xảo của Shauna. Đúng vậy, ai đó có thể tạo ra một bức ảnh và biến nó thành một phần của một đoạn phim. Và đúng vậy, ai đó có thể biết thời điểm hôn. Và đúng vậy, ai đó có thể tạo ra cả lời thì thầm bằng môi “Em xin lỗi”. Và đúng vậy, cơn đói khát của tôi chắc hẳn đã giúp biến cái ảo tưởng đó thành sự thực và khiến tôi dễ bị mắc vào trò lừa như vậy.
Và cái đúng vậy to nhất: giả thuyết của Shauna hợp lý khủng khiếp hơn rất nhiều sự trở về từ huyệt mộ.
Nhưng có hai điều quan trọng hơn cả một loạt những cái trên. Trước tiên, tôi không phải là loại ưa thích những ý tưởng viển vông. Tôi nhàm chán đến phát sợ và thực tế hơn bất cứ ai. Thứ hai, cơn đói khát có thể làm mờ lý trí của tôi, và ảnh kỹ thuật số có thể tạo ra rất nhiều thứ.
Nhưng đôi mắt đó thì không...
Đôi mắt của nàng. Mắt của Elizabeth. Không có cách nào, tôi nghĩ, chúng có thể là những bức ảnh cũ được chế tác đưa vào một đoạn video kỹ thuật số. Đôi mắt đó thuộc về vợ tôi. Liệu đầu óc đầy lý trí rạch ròi của tôi có chắc chắn chuyện đó? Không, dĩ nhiên không. Tôi không phải một gã ngốc. Nhưng giữa cái nhìn thấy và tất cả những câu hỏi đặt ra, tôi đã gạt bỏ gần hết cuộc trình diễn video của Shauna. Tôi đã về nhà và vẫn tin mình nhận được một lá thư của Elizabeth.
Bây giờ tôi không biết phải nghĩ gì. Say xỉn có lẽ có ích ở mặt này.
Chloe dừng lại hít hít ngửi ngửi gì đó. Tôi đợt dưới ánh đèn đường và nhìn cái bóng bị kéo dài ra của mình.
Thời điểm hôn.
Chloe sủa một cái bóng chuyển động trong bụi rậm. Một con sóc chạy vụt qua đường. Chloe gầm gừ và vờ đuổi theo. Con sóc dừng và quay về phía chúng tôi. Chloe sủa lên một tiếng như muốn nói thằng-kia-mày-may-mắn-đấy-tao-đang-bị-xích. Cô nàng không có ý thế. Chloe là một cô em thuần chủng yếu đuối nhút nhát.
Thời điểm hôn.
Tôi nghiêng đầu về một phía như Chloe khi nó nghe thấy tiếng động lạ. Tôi nghĩ một lần nữa về cái tôi đã thấy hôm qua trên máy tính - và tôi nghĩ đến những khó khăn ai đó phải trải qua để giữ bí mật cho toàn bộ chuyện này. Cái email vô danh đó bảo tôi nhấn vào một hyperlink vào “thời điểm hôn”. Cái email thứ hai tạo ra một tài khoản mới đứng tên tôi.
Chúng đang theo dõi...
Ai đó đã phải làm việc rất vất vả để giữ cho những liên lạc này không bị lộ ra.
Thời điểm hôn...
Nếu ai đó - được rồi, nếu Elizabeth - chỉ muốn gửi cho tôi một thông điệp, sao nàng không đơn giản gọi điện thoại hay viết nó ra trong một cái email. Sao lại khiến tôi nhảy qua một đống những cái vòng thử thách này?
Câu trả lời rõ ràng: bí mật. Ai đó - tôi không nói Elizabeth một lần nữa - muốn giữ bí mật tất cả những chuyện này.
Và nếu bạn có một bí mật, sẽ không có gì là lạ khi bạn muốn giữ không cho ai đó biết bí mật này. Và có thể kẻ được coi là “ai đó” đang theo dõi hay tìm kiếm hay cố gắng tìm ra bạn. Hoặc là thế, hoặc là bạn bị hoang tưởng. Thông thường tôi sẽ về phe với bệnh hoang tưởng nhưng...
Chúng đang theo dõi...
Chính xác thì cái đó có nghĩa gì? Ai đang theo dõi? FBI? Và nếu FBI thực sự đứng đằng sau những cái email kia, tại sao bọn họ lại cảnh báo tôi bằng cách đó? FBI muốn tôi hành động.
Thời điểm hôn...
Tôi sững người. Đầu Chloe quặt theo hướng tôi.
Ôi Chúa ơi, sao tôi lại có thể ngu ngốc đến thế?
Bọn chúng không buồn dùng dây trói.
Rebecca Schayes giờ đây nằm trên bàn, rên rỉ như một con chó sắp chết bên vệ đường. Thỉnh thoảng, cô thốt ra vài từ, hai hay thậm chí ba từ cùng một lúc, nhưng chúng không tạo thành một chuỗi mạch lạc. Cô đã ở quá mức có thể khóc được. Màn van xin đã chấm dứt. Mắt cô vẫn mở to và thất thần hoàn toàn; giờ đây không nhìn thấy gì cả. Trí óc cô đã vỡ vụn giữa những tiếng kêu gào thất thanh mười lăm phút trước.
Đáng kinh ngạc, Wu không để lại dấu vết nào. Không dấu vết nào, nhưng trông cô già đi hai mươi tuổi.
Rebecca Schayes không biết chút gì. Bác sĩ Beck đến gặp cô ta bởi vì một tai nạn ôtô cũ mà thật ra không phải là một tai nạn ôtô. Có cả những bức ảnh nữa. Beck đã cho rằng cô ta chụp chúng. Cô ta không chụp.
Cảm giác đang phát sinh trong bụng Larry Gandle - cái cảm giác bắt đầu chỉ là hơi gai gai khi gã lần đầu tiên nghe chuyện những thi thể được tìm thấy ở cái hồ - cứ mạnh dần lên. Có thứ gì đó không ổn đêm hôm đó. Cái đó thì chắc chắn. Nhưng bây giờ Larry Gandle còn sợ có lẽ mọi thứ đều hóa ra không ổn.
Đã đến lúc sự thật phải được hé lộ.
Gã đã kiểm tra với người theo dõi của gã. Beck đang dắt chó đi dạo. Một mình. Theo bằng chứng Wu sắp đặt sẵn, đó sẽ là một chứng cứ ngoại phạm rất tồi.
Bọn FBI sẽ xé vụn nó bằng những tràng cười lớn.
Larry Gandle tiến đến cái bàn. Rebecca Schayes ngước lên và thốt ra một âm thanh khủng khiếp, một thứ giao thoa giữa rên rỉ the thé và tiếng cười bi đát.
Gã gí súng lên trán cô. Cô thốt ra thứ âm thanh đó một lần nữa. Gã bắn hai phát và toàn bộ thế giới chìm vào im lặng.
Tôi bắt đầu về lại nhà, nhưng tôi nghĩ về lời cảnh báo.
Chúng đang theo dõi...
Tại sao lại liều lĩnh thế? Có một cửa hiệu Kinko cách đây ba tòa nhà. Họ mở cửa hai tư giờ một ngày. Khi mở cửa ra, tôi hiểu tại sao. Nửa đêm, cửa hiệu đông nghẹt. Lô lốc những người kinh doanh đã mệt lử mang theo giấy tờ, slide cho máy chiếu và những tờ poster.
Tôi đứng trong một hàng lộn xộn được ngăn bằng dây nhung nhàu nhĩ và đợi đến lượt mình. Nó khiến tôi nhớ cái hồi đến ngân hàng những ngày chưa có thẻ ATM. Người phụ nữ đứng trước tôi diện một bộ vest công sở - lúc nửa đêm nhé - và những cái bọng to thù lù dưới mắt đủ để có thể bị nhầm thành một tay khuân hành lý trong khách sạn. Đằng sau tôi, một người đàn ông tóc xoăn, quần áo sậm màu rút điện thoại di động và bắt đầu bấm bấm.
“Thưa ông?”
Một người mặc áo khoác đồng phục của Kinko chỉ vào Chloe.
“Ông không được mang theo chó vào đây.”
Tôi toan bảo anh ta tôi đã mang vào rồi nhưng nghĩ tốt hơn là thôi. Người phụ nữ mặc bộ vest công sở không phản ứng gì. Ông tóc xoăn áo quần sậm màu nhún vai với tôi kiểu đồng-chí-sẽ-làm-gì-đây. Tôi vụt ra ngoài, buộc Chloe vào một cái cột tính tiền chỗ bãi đậu xe, rồi lại vào trong. Ông tóc xoăn nhường lại chỗ của tôi trong hàng. Vấn đề cư xử có giáo dục đấy.
Mười phút sau, tôi đứng đầu hàng. Nhân viên Kinko trẻ này xăng xái một cách thái quá. Anh ta chỉ cho tôi máy tính ở cuối phòng và giải thích chậm hơn rùa cách tính tiền theo phút của cửa hàng.
Tôi gật đầu suốt trong bài diễn từ nho nhỏ của anh ta và đăng nhập vào web.
Thời điểm hôn.
Nó, tôi nhận ra, là chìa khóa. Email đầu tiên đã nói đến thời điểm hôn, không phải 6:15 P.M. Tại sao? Câu trả lời rõ rành rành. Đó là một mật mã - phòng khi những kẻ không phù hợp mó tay vào cái email. Người gửi đã nhận ra nó có khả năng bị đọc lén. Người gửi đã biết chỉ mình tôi hiểu cái thời điểm hôn nghĩa là thế nào.
Đó chính là lúc tôi nghĩ ra.
Trước hết, tên tài khoản Bat Street. Khi Elizabeth và tôi lớn lên, chúng tôi thường đạp xe xuôi phố Morewood Street tới sân Little League. Có một mụ phù thủy gì sống trong căn nhà màu vàng đã bạc màu. Bà ta sống một mình và quắc mắt nhìn những đứa trẻ đi ngang qua. Thành phố nào cũng có một bà già ghê rợn kiểu đó. Bà ta thường được đặt biệt danh. Trong trường hợp của bọn tôi, bọn tôi gọi bà ta là Bat Lady.
Tôi mở trang Bigfoot một lần nữa. Tôi gõ Morewood vào ô tên đăng nhập.
Đứng cạnh tôi, tay nhân viên trẻ và xăng xái thái quá của cửa hiệu Kinko đang nhai lại bài diễn văn về web cho gã đàn ông tóc xoăn toàn thân sậm màu. Tôi nhấn phím tab và chuyển xuống ô gõ mật khẩu.
Đầu mối Teenage thì dễ hơn. Vào năm học lớp 11, chúng tôi đến nhà của Jordan Goldman một tối muộn ngày thứ Sáu. Có lẽ khoảng mười đứa. Jordan đã tìm ra chỗ bố nó giấu phim sex. Chưa có đứa nào trong lũ bọn tôi từng xem phim đó cả. Cả lũ xem, cười gượng gạo, phun ra vài nhận xét ác ý như thường lệ và cảm thấy tục tĩu sung sướng.
Khi bọn tôi cần một cái tên cho đội bóng chày của trường, Jordan gợi ý dùng cái tên ngu ngốc của bộ phim kia:
Teenage Sex Poodles.
Tôi gõ Sex Poodles vào ô mật khẩu. Tôi khó nhọc nuốt khan và nhấp chuột vào biểu tượng Đăng nhập.
Tôi liếc qua gã đàn ông tóc xoăn. Gã đang chăm chú vào một mục tìm kiếm trên Yahoo! Tôi nhìn lên cái bàn phía trước. Người phụ nữ vận vest công sở đang nhăn nhó với một nhân viên khác của Kinko cũng hơi-quá-phởn-vào-cái-lúc-nửa-đêm-này.
Tôi đợi thông báo lỗi. Nhưng lần này chuyện đó không xảy ra... Một bảng chào mừng xuất hiện. Phía trên cùng viết:
Xin chào, Morewood!
Phía dưới viết:
Bạn có một email trong hộp thư.
Tim tôi như một con chim đập thình thình lên lồng ngực.
Tôi nhấp chuột vào biểu tượng Thư mới và lại rung chân. Không có Shauna ở bên làm nó dừng lại. Qua cửa sổ cửa hàng tôi có thể nhìn thấy Chloe đang bị xích lại của tôi. Nó nhìn thấy tôi cất tiếng sủa. Tôi đưa một ngón tay lên môi và ra hiệu cho nó im lặng.
Nội dung lá thư xuất hiện:
Washington Square Park. Gặp em ở góc phía Đông Nam.
Năm giờ ngày mai.
Anh sẽ bị bám đuôi.
Và cuối thư:
Dù thế nào đi nữa, em yêu anh.
Hy vọng con chim bị giam trong lồng kia sẽ không chết và phá lồng để được tự do. Tôi ngả người ra sau. Nước mắt giàn giụa, nhưng lần đầu tiên trong một khoảng thời gian dài đằng đẵng, tôi nở được một nụ cười thực sự.
Elizabeth. Nàng vẫn là người thông minh nhất tôi từng biết.