Đừng nói một ai - Chương 27 + 28 + 29
27
Eric Wu nhìn đăm đăm vào cái cây bò lan ngổn ngang. Mặt hắn bình thản, cằm hơi nghiêng nghiêng.
“Eric?” Giọng của Larry Gandle.
Wu không quay lại. “Mày có biết cái cây này tên gì không?” hắn hỏi.
“Không.”
“Cây du của Đao phủ.”
“Hay.”
Wu mỉm cười. “Một vài sử gia tin rằng vào thế kỷ mười tám, công viên là nơi dùng cho việc tử hình công cộng.”
“Tuyệt nhỉ, Eric.”
“Ừ.”
Hai gã thanh niên cởi trần vụt qua trên giầy patanh Rollerblades. Một máy cát xét xách tay bật Jefferson Airplane. Washington Square Park - chẳng ngạc nhiên gì, được đặt theo tên của George Washington - là một trong những nơi cố bám vào thập niên sáu mươi mặc dù cái bám chặt ấy cứ bị tuột đi. Có một số người phản đối như thường lệ, nhưng họ trông giống như nhân vật trong cuộc sống phục hưng hoài cổ hơn là những nhà cách mạng thực sự. Dàn biểu diễn đường phố bằng chút mánh khóe chiếm nó làm sân khấu. Những thể loại vô gia cư kiểu gì đó xoay xở sống rất tài ở đây.
“Mày chắc là bọn mình cho người kiểm soát chỗ này rồi?” Gandle hỏi.
Wu gật đầu, vẫn đối diện với cái cây. “Sáu. Cộng thêm hai trong xe.”
Gandle nhìn ra sau. Xe tải màu trắng với biển hiệu viết Sơn B&T và số điện thoại cùng một logo xinh xắn, vẽ một gã trai trông rất giống tay trong cờ tỉ phú, cầm một cái thang và chổi quét sơn. Nếu được hỏi miêu tả cái xe, nhân chứng sẽ nhớ, nếu cần bất cứ thứ gì, tên của công ty sơn và có thể số điện thoại.
Không cái nào tồn tại.
Xe tải đỗ cạnh một cái khác. Ở Manhattan, một xe tải hợp pháp đỗ riêng rẽ sẽ dễ thu hút sự nghi ngờ hơn một xe đậu cạnh một cái khác. Hơn nữa, bọn chúng luôn nhìn ra ngoài. Nếu một nhân viên cảnh sát tiến tới, chúng sẽ lái đi ngay. Chúng sẽ lái đến một chỗ đậu trên Lafayette Street. Chúng sẽ đổi bảng đăng ký bằng lái và biển hiệu. Rồi quay lại.
“Mày nên quay lại xe,” Wu nói.
“Mày nghĩ Beck có tới không?”
“Ngờ lắm,” Wu nói.
“Tao nghĩ việc hắn bị bắt sẽ kéo được ả ra,” Gandle nói. “Tao không nghĩ rằng hắn được sắp xếp để hẹn gặp.”
Một trong những gián điệp tay chân của chúng - gã tóc xoăn vận đồ thể thao ở cửa hàng Kinko tối qua - đã nhìn thấy lá thư xuất hiện trên màn hình máy tính. Nhưng lúc hắn mở lại được lá thư, Wu đã sắp đặt xong bằng chứng tại nhà Beck.
Không quan trọng. Sẽ thành công thôi.
“Phải tóm cả hai đứa, nhưng ưu tiên con kia,” Gandle nói. “Tình hình xấu đi, sẽ giết cả hai. Nhưng tốt nhất là để bọn nó sống. Để mình tìm ra xem bọn nó biết những gì.”
Wu không đáp lại. Hắn vẫn đăm đăm nhìn cái cây.
“Eric?”
“Bọn chúng treo cổ mẹ tao trên một cái cây giống cây này,” Wu nói.
Gandle không biết phải đáp lại thế nào, vì vậy nói, “Tao rất tiếc”.
“Chúng cho mẹ tao là gián điệp. Sáu tên lột trần truồng mẹ tao ra và dùng roi da quật bà. Chúng quất trong hàng giờ liền. Mọi chỗ. Ngay cả thịt da trên mặt bà cũng bị xé rách. Bà tỉnh táo trong suốt thời gian đó. Bà liên tục gào thét. Phải mất một khoảng thời gian bà mới chết được.”
“Chúa ơi,” Gandle khẽ nói.
“Khi xong xuôi, chúng treo bà lên một cái cây to.” Hắn chỉ vào cái cây của Đao phủ. “Giống cây này. Dĩ nhiên, đó được cho là một bài học. Để không kẻ nào làm gián điệp nữa. Những chim và thú đến bâu vào bà. Hai ngày sau, chỉ còn lại xương trên cái cây đó.”
Wu đeo lại cái Walkman lên tai. Hắn quay đi khỏi cái cây. “Mày thực sự không nên để bị nhìn thấy,” hắn bảo Gandle.
Larry khó khăn lắm mới dứt được cái nhìn khỏi cây du lớn, nhưng gã gắng gật đầu và đi đường mình.
28
Tôi mặc vào một cái quần jeans đen với bụng rộng cỡ bằng lốp xe tải. Tôi gấp đoạn thừa lại và siết chặt thắt lưng. Áo sơ mi đồng phục đen của cửa hàng White Sox thì vừa khít như một chiếc áo thụng của châu Phi. Mũ lưỡi trai màu đen - nó có cái logo nào đó mà tôi không nhận ra - vành đã bị bẻ gãy sẵn cho tôi. Tyrese cũng đưa cho tôi đôi kính râm y hệt như đôi mẹ-kiếp-mày Brutus ưa thích.
Tyrese suýt cười phá lên khi tôi từ phòng tắm bước ra. “Trông anh tuyệt lắm, bác sĩ ạ.”
“Tôi nghĩ từ mà anh đang cần tìm là péo.”
Anh cười toe toét và lắc đầu. “Dân da trắng.” Rồi mặt anh nghiêm lại. Anh đẩy một vài tờ giấy có kim rập về phía tôi. Tôi cầm lên. Trên đầu nó viết Ý nguyện cuối cùng và Chúc thư. Tôi nhìn anh dò hỏi.
“Ý tôi muốn là nói chuyện với anh về cái này,” Tyrese nói.
“Về di chúc của anh?”
“Theo kế hoạch tôi còn hai năm nữa.”
“Kế hoạch gì?”
“Tôi làm việc này hai năm nữa, kiếm đủ tiền để đưa TJ đi khỏi đây. Tôi nghĩ cơ hội để làm thế là 60/40.”
“Làm thế, ý anh là gì?”
Mắt Tyrese dán chặt lên tôi. “Anh biết.”
Tôi thực sự biết. Ý anh ta là sống sót. “Anh sẽ đi đâu?”
Anh đưa cho tôi một cái thiếp. Cảnh mặt trời, nước xanh, những cây cọ. Cái thiếp nhàu nát vì bị xem quá nhiều. “Xuống Florida,” anh đáp với một bài hát du dương nhẹ nhàng trong giọng nói. “Tôi biết nơi này. Yên tĩnh. Có bể bơi và trường học tốt. Không một ai băn khoăn chuyện tôi lấy tiền ở đâu ra, anh hiểu tôi đang nói gì chứ?”
Tôi đưa lại cái thiếp cho anh. “Tôi không hiểu mình thì có liên quan gì đến chuyện này.”
“Đây” - anh giơ cái thiếp lên - “là kế hoạch nếu 60% xảy ra. Đó” - anh chỉ vào tờ di chúc - “nếu 40% xảy ra.”
Tôi bảo anh tôi vẫn không hiểu.
“Tôi xuống trung tâm thành phố sáu tháng trước, anh hiểu tôi đang nói gì đấy. Tìm một luật sư thật siêu. Làm tôi mất hai nghìn dollar chỉ trong một vài giờ với ông ta. Tên ông ta là Joel Marcus. Nếu tôi chết, anh phải đi gặp ông ta. Anh, người thi hành di chúc của tôi. Tôi có một số giấy tờ đã được khóa lại. Họ sẽ bảo cho anh biết tiền ở đâu.”
“Tại sao lại là tôi?”
“Anh chăm sóc con trai tôi.”
“Latisha thì sao?”
Anh chế giễu. “Ả là đàn bà, bác sĩ. Ngay khi tôi nằm xuống, ả sẽ đi tìm một thằng chó khác, anh hiểu tôi đang nói gì không? Có thể lại bị mang ba lô ngược. Có thể mọi thứ lặp lại.” Anh ngồi lại và khoanh tay. “Không thể tin tưởng đàn bà, bác sĩ ạ. Anh nên biết điều đó.”
“Chị ấy là mẹ của TJ.”
“Phải.”
“Chị ấy yêu anh.”
“Ừ, tôi biết điều đó. Nhưng cô ta chỉ là đàn bà, anh hiểu tôi đang nói gì không? Anh cho cô ta một khoản tiền mặt theo cách thế này, cô ta sẽ ném chúng qua cửa sổ trong vòng một ngày. Đó là lý do tại sao tôi lập ra một vài tài sản được giữ ủy thác và vài thứ linh tinh khác. Anh, người thi hành di chúc. Cô ta muốn tiền cho TJ, anh phải đồng ý mới được. Anh và gã Joel Marcus đây.”
Tôi định tranh cãi như thế là phân biệt giới tính bất công, và rằng anh ta là một Neanderthal, nhưng có vẻ lúc này không đúng thời điểm lắm. Tôi nhấp nhổm trong ghế và nhìn anh. Tyrese khoảng hai mươi lăm tuổi. Tôi đã gặp quá nhiều người như anh. Tôi đã luôn gộp họ lại thành một đống riêng, xóa mờ mặt họ vào một khối màu đen xấu xa. “Tyrese?”
Anh nhìn tôi.
“Đi luôn bây giờ đi.”
Anh cau mày.
“Dùng số tiền mà anh có. Tìm một việc làm ở Florida. Tôi sẽ cho anh vay thêm nếu anh cần. Nhưng hãy mang theo gia đình và đi luôn bây giờ.”
Anh lắc đầu.
“Tyrese?”
Anh đứng lên. “Thôi nào, bác sĩ. Chúng ta tốt nhất là lên đường thôi.”
“Chúng tôi vẫn đang tìm hắn.”
Lance Fein nổi đóa, khuôn mặt như sáp của ông ta gần như đang tan chảy thành giọt. Dimonte đăm chiêu. Krinsky hí hoáy viết. Stone kéo quần.
Carlson bị rối trí, cúi xuống một tờ fax vừa mới gửi đến trong xe.
“Còn những vụ nổ súng thì sao?” Lance Fein gay gắt phun ra.
Nhân viên mặc đồng phục - đặc vụ Carlson không buồn hỏi tên anh ta - nhún vai. “Không ai biết tí gì. Tôi nghĩ có lẽ không liên quan.”
“Không liên quan?” Fein thét lên. “Anh là cái loại ngu ngốc kém cỏi nào hả, Benny? Bọn nó chạy trên phố thét lên về một tay da trắng.”
“Vâng, bây giờ không ai biết tí gì.”
“Dựa vào bọn chúng,” Fein nói. “Dựa rất nhiều vào bọn chúng. Ý tôi là, vì đám ấy gào thét hết cỡ, chứ làm thế quái nào một gã như thế này lại có thể chạy trốn, hả?”
“Chúng ta sẽ bắt được hắn.”
Stone vỗ nhẹ lên vai Carlson. “Sao thế, Nick?”
Carlson nhíu mày nhìn máy fax. Anh ta không nói. Anh ta là một người sống ngăn nắp, trật tự đến mức ám ảnh. Anh ta rửa tay quá nhiều. Anh ta thường khóa và mở khóa cửa hàng chục lần trước khi rời khỏi nhà. Anh ta càng nhìn dữ hơn bởi vì có thứ gì đó ở đây không khớp.
“Nick?”
Carlson quay sang. “Khẩu ba mươi tám chúng ta tìm thấy trong két sắt của Sarah Goodhart.”
“Cái mà chìa khóa trên thi thể dẫn chúng ta tới.”
“Phải.”
“Nó làm sao?” Stone hỏi.
Carlson vẫn nhíu mày. “Có rất nhiều lỗ hổng ở đây.”
“Lỗ hổng?”
“Đầu tiên,” Carlson nói tiếp, “chúng ta giả định cái két sắt Sarah Goodhart là của Elizabeth Beck, phải không?”
“Phải.”
“Nhưng có ai đó đã thanh toán tiền cho cái két trong suốt tám năm qua,” Carlson nói. “Elizabeth Beck đã chết. Phụ nữ chết rồi không trả tiền hóa đơn.”
“Có lẽ là cha cô ta. Tôi nghĩ ông ta biết nhiều hơn những gì ông ta nói ra.”
Carlson không thích điều này. “Còn về những thiết bị nghe lén mà chúng ta tìm thấy ở nhà Beck thì sao? Sao lại có chuyện đó?”
“Tôi không biết,” Stone đáp lại bằng một cái nhún vai. “Có thể ai đó khác trong ban cũng nghi ngờ hắn ta.”
“Trước đó chúng ta đã nghe thế rồi. Và bản báo cáo này là về khẩu ba mươi tám chúng ta tìm thấy trong két.” Anh ta chỉ tay vào tờ fax. “Anh biết Ủy ban Rượu, Thuốc lá Đạn dược và Chất nổ truy nguyên được tới cái gì không?”
“Không.”
“Bulletproof không cung cấp bất cứ thông tin nào, nhưng cũng không lấy gì làm lạ bởi dù sao dữ liệu không truy nguyên được đến tám năm.” Bulletproof, một phương pháp phân tích đạn dược được Ủy ban Rượu, Thuốc lá Đạn dược và Chất nổ sử dụng, dùng để kết nối thông tin dữ liệu từ các vụ phạm tội trong quá khứ với những khẩu súng được tìm ra gần đây. “Nhưng NTC đã tìm được thông tin.” NTC là viết tắt của Trung tâm Truy nguyên Quốc gia. “Đoán thử xem người chủ đăng ký gần nhất là ai.”
Anh ta đưa cho Stone bản fax. Stone đọc lướt xuống và thấy. “Stephen Beck?”
“Cha của David Beck?”
“Ông ta chết rồi, phải không?”
“Phải.”
Stone đưa lại tờ giấy cho anh ta. “Vậy con trai ông ta chắc hẳn là thừa kế khẩu súng đó,” anh ta nói. “Đó là súng của Beck.”
“Vậy tại sao vợ hắn lại khóa nó trong một cái két cùng với những bức ảnh kia?”
Stone nghiền ngẫm ý đó một phút. “Có thể cô ta sợ hắn sẽ dùng nó bắn cô ta.”
Carlson càng nhíu mày tợn hơn. “Chúng ta đang để lỡ thứ gì đó.”
“Nghe này, Nick, đừng làm chuyện này phức tạp hơn mức cần thiết. Chúng ta chắc chắn tóm được Beck trong vụ Schayes. Bắt hắn là chính đáng. Đơn giản hãy quên chuyện Elizabeth Beck đi, được chứ?”
Carlson nhìn anh ta. “Quên chuyện gì về cô ta?”
Stone hắng giọng và giơ tay ra. “Đối mặt với thực tế đi. Tóm Beck trong vụ Schayes, đó sẽ là một miếng bánh. Nhưng vợ hắn - Chúa ơi, vụ đó cách đây tám năm rồi. Chúng ta có được vài mảnh vụn thông tin, tốt thôi, nhưng chúng ta sẽ không tóm hắn trong vụ đó được. Đã quá muộn. Có lẽ” - anh ta nhún vai một cách khóa trương - “có lẽ tốt nhất là để con chó đang ngủ nằm yên.”
“Anh đang nói cái chuyện quái gì thế?”
Stone nhích lại gần hơn và ra hiệu Carlson cúi xuống. “Một vài người ở Cục muốn chúng ta không đào tất cả những thứ đó lên thì hơn.”
“Ai không muốn chúng ta đào cái gì lên?”
“Không quan trọng, Nick ạ. Chúng ta đều cùng một phe, phải không? Nếu chúng ta tìm ra KillRoy không giết Elizabeth Beck, nó chỉ khiến mở ra cả một hộp sâu, phải không? Luật sư của thằng đó có thể sẽ đòi một phiên tòa mới...”
“Chúng ta chưa bao giờ cố đổ vấy cho hắn vụ Elizabeth Beck.”
“Nhưng chúng ta kết luận cô ta là nạn nhân của KillRoy. Chỉ khiến có thêm nghi ngờ vào, thế thôi. Cách này gọn hơn.”
“Tôi không muốn gọn,” Carlson nói. “Tôi muốn sự thật.”
“Chúng ta thảy đều muốn thế, Nick ạ. Nhưng chúng ta thậm chí còn muốn công bằng hơn, phải không? Beck sẽ bị kết án chung thân vì giết Rebecca Schayes. KillRoy sẽ ở trong tù. Sẽ nên là như thế.”
“Có lỗ hổng, Tom ạ.”
“Anh vẫn cứ nói thế, nhưng tôi chẳng thấy gì. Anh chính là người đầu tiên nảy ra cái ý nghĩ Beck là tội phạm trong vụ giết vợ hắn.”
“Chính xác,” Carlson nói. “Trong vụ giết vợ hắn. Không phải vụ Rebecca Schayes.”
“Tôi không hiểu ý anh.”
“Vụ giết Schayes không khớp.”
“Anh đùa à? Nó còn vững chắc hơn ấy chứ. Schayes biết điều gì đó. Chúng ta đang tiến lại gần. Beck phải bịt miệng cô ta lại.”
Carlson lại nhíu mày.
“Sao?” Stone nói tiếp. “Anh nghĩ việc Beck đến studio của cô ta ngày hôm qua - ngay sau khi chúng ta gây áp lực với hắn - chỉ là ngẫu nhiên thôi ư?”
“Không,” Carlson nói.
“Vậy thì sao nữa, Nick? Anh không hiểu à? Kẻ giết Schayes khớp một cách hoàn hảo.”
“Hơi hoàn hảo quá,” Carlson nói.
“Này, đừng khơi chuyện lên theo lối chết tiệt đó.”
“Để tôi hỏi anh điều này, Tom. Beck lên kế hoạch và thực hiện giết vợ hắn tốt đến mức nào?”
“Tốt bỏ mẹ.”
“Chính xác. Hắn giết tất cả nhân chứng. Hắn phi tang các thi thể. Nếu không phải vì trời mưa và con gấu kia, chúng ta sẽ không có gì cả. Và nói thẳng nhé. Ngay cả khi có được thông tin đó, chúng ta vẫn không có đủ bằng chứng để buộc tội, nói gì đến kết án.”
“Vậy thì?”
“Vậy thì sao tự dưng Beck lại ngu đột ngột thế? Hắn biết chúng ta bám theo hắn. Hắn biết trợ lý của Schayes sẽ có thể chứng thực hắn đã gặp Rebecca Schayes vào cái ngày cô ta bị giết. Vậy sao hắn lại ngu đến mức giữ khẩu súng trong gara của mình? Sao hắn lại ngu đến mức vứt đôi găng tay trong thùng rác của chính mình?”
“Đơn giản,” Stone nói. “Lần này hắn vội vã. Với vợ hắn, hắn có cả đống thời gian để lên kế hoạch.”
“Anh xem cái này chưa?”
Anh ta đưa cho Stone bản báo cáo theo dõi.
“Beck đến gặp nhân viên giám định pháp y sáng nay,” Carlson nói. “Tại sao?”
“Tôi không biết. Có lẽ hắn muốn biết có gì đó có thể đổ tội trong hồ sơ khám nghiệm tử thi.”
Carlson lại nhíu mày. Tay anh ta đang khao khát được rửa. “Chúng ta đang để lỡ điều gì đó, Tom ạ.”
“Tôi không thấy cái gì, nhưng này, dù kiểu gì, chúng ta cũng phải bắt giam được hắn ta. Rồi chúng ta sẽ tìm ra được chứ?”
Stone đi lại chỗ Fein. Carlson để cho những nghi hoặc chìm đi. Anh ta nghĩ lại về việc Beck đến văn phòng của nhân viên giám định pháp y. Anh ta rút số điện thoại ra, lau sạch nó bằng khăn mùi soa, và nhấn số. Khi có người trả lời, anh ta nói, “Cho tôi số của nhân viên giám định pháp y Hạt Sussex.”
29
Ngày xưa - cách đây mười năm - cô có bạn ở tại Chelsea Hotel trên Phố 23 Tây. Trong khách sạn một nửa là khách du lịch, một nửa là dân ở lâu dài, tuyền diện gàn dở. Nghệ sĩ, nhà văn, sinh viên, dân nghiện á phiện, mọi loại, mọi giới. Móng tay đen, mặt sơn trắng, môi đánh màu đỏ máu, tóc không một dấu vết uốn quăn - tất thảy trong những ngày trước khi nó thành xu thế chủ đạo.
Ít thứ đã thay đổi. Đó vẫn là một nơi tốt để ẩn danh.
Sau khi nuốt vội một miếng pizza phía bên kia đường, cô đăng ký vào khách sạn và không mạo hiểm ra khỏi phòng. New York. Cô đã từng gọi thành phố này là nhà, nhưng đây chỉ là lần thứ hai cô ghé đến trong tám năm qua.
Cô nhớ New York.
Bằng bàn tay đã quá thông thạo, cô nhét tóc mình vào dưới bộ tóc giả. Màu của ngày hôm nay sẽ là vàng với chân tóc đen. Cô đeo một cái kính có gọng bằng dây kim loại mảnh lên và nhét hàm giả vào miệng. Nó làm thay đổi hình dạng khuôn mặt cô.
Tay cô run run.
Hai tấm vé máy bay nằm trên bàn bếp. Tối nay, họ sẽ đi chuyến bay 174 của hãng British Airways từ JFK đến Sân bay Heathrow London, đầu mối liên lạc của cô sẽ gặp họ tại đây và họ sẽ có giấy tờ tùy thân mới. Rồi họ sẽ lấy tàu đi Gatwick và lấy chuyến bay chiều đi Nairobi, Kenya. Một chiếc jeep sẽ đưa họ tới gần chân Núi Meru ở Tanzania, và sau đó họ sẽ leo núi ba ngày liền.
Một khi đến được đó - một trong rất ít những nơi trên hành tinh này không radio, không tivi, không điện - họ sẽ được tự do.
Tên trên hai tấm vé là Lisa Sherman. Và David Beck.
Cô giật mạnh mái tóc giả một lần nữa và đăm đăm nhìn vào mình trong gương. Mắt mờ đi, và trong một thoáng, cô quay về chỗ cái hồ. Hy vọng nhen nhóm trong ngực, và chỉ một lần này thôi, cô không làm gì để dập tắt nó đi. Cô cố mỉm cười và quay đi.
Cô đi thang máy xuống sảnh và rẽ phải trên Phố 23.
Từ chỗ này mà đi bộ đến Washington Square Park thì vừa tuyệt.
Tyrese và Brutus thả tôi trên góc giữa Phố 4 Tây và Lafayette, cách công viên bốn tòa nhà về hướng Đông. Tôi biết khu vực này khá rõ. Elizabeth và Rebecca ở cùng nhau trong một căn hộ ở Washington Square, cảm thấy sung sướng ở trên đỉnh cao trong khu West Village của họ - một nhiếp ảnh gia và một luật sư làm công tác xã hội, đấu tranh cho chủ nghĩa bôhêmiêng khi họ trà trộn vào nhóm bạn những đứa lớn-lên-ở-ngoại-ô muốn khẳng định mình và những đứa con ông cháu cha muốn làm cách mạng. Nói một cách thẳng thắn, tôi chưa bao giờ tin chuyện đó, nhưng cũng không có vấn đề gì với nó cả.
Lúc đó tôi đang theo học tại Trường Y Columbia, và nói một cách chính xác, tôi sống ở khu phố trên Haven Avenue gần bệnh viện bây giờ được gọi tên là New York Presbyterian. Nhưng theo lẽ tự nhiên, tôi ở dưới này rất nhiều.
Những năm tháng tốt lành.
Nửa tiếng nữa mới đến giờ gặp.
Tôi đi xuống Phố 4 Tây qua Tower Records và vào khu vực trong thành phố nơi tọa lạc trường Đại học New York. NYU muốn bạn biết điều này. Họ đóng cọc trên khu đất này bằng những lá cờ có in logo của NYU màu tía lòe loẹt ở khắp mọi nơi. Xấu chết khiếp, lá cờ màu tía lòe loẹt này nổi rõ trên nền gạch sẫm màu của Greenwick Village. Cũng rất ích kỷ và địa phương chủ nghĩa, tôi nghĩ, đối với một vùng đất tự do đến vậy. Nhưng biết làm thế nào được.
Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực như thể nó muốn phá ra để được tự do.
Liệu nàng đã có mặt ở đó chưa?
Tôi không chạy. Tôi cố bình thường và làm mình sao lãng khỏi thứ mà khoảng một giờ nữa có thể đem tới. Những chỗ bị thương từ lần đụng độ vừa đây đang ở trong trạng thái giữa bỏng rát và ngứa ngáy khó chịu. Tôi nhìn mình trong kính cửa sổ một khu nhà và không thể không nhận thấy mình trông lố bịch hết cỡ trong bộ quần áo đi mượn này. Găngxtơ Dự bị.
Xin chào mày, từ ngữ.
Quần tôi cứ tụt xuống. Tôi kéo lên bằng một tay và cố gắng bước đều.
Elizabeth có thể đã ở công viên rồi.
Giờ tôi có thể nhìn thấy quảng trường. Góc Đông Nam chỉ cách đó một tòa nhà. Dường như có tiếng xào xạc trong không khí, có lẽ một cơn bão đang nổi lên cũng nên, nhưng đó chắc hẳn là trí tưởng tượng của tôi hoạt động quá mức. Tôi cúi đầu xuống. Hình tôi được đưa lên tivi chưa nhỉ? Người dẫn chương trình đã phát đi lời cảnh báo cần-phải-đề-phòng chưa nhỉ? Tôi ngờ lắm. Nhưng mắt tôi vẫn dán chặt xuống mặt đường.
Tôi rảo bước. Washington Square đã luôn là nơi quá náo nhiệt với tôi trong suốt những tháng hè. Tình trạng náo nhiệt này luôn có gì đó miễn cưỡng. Sự náo nhiệt giả tạo, tôi gọi thế. Chỗ tôi ưa thích là nơi hàng đống người tụ tập ồn ào gần mấy bàn chơi trò chơi bằng xi măng. Thỉnh thoảng tôi chơi cờ ở đó. Tôi khá giỏi, nhưng trong công viên này, cờ vua là thứ rất bình đẳng. Giàu, nghèo, trắng, đen, vô gia cư, nhà cao tầng, ở thuê, ở chung - tất cả hòa hợp trên những quân cờ trắng đen cũ rích. Tay chơi giỏi nhất mà tôi từng gặp ở đây là một gã da đen dành hầu như toàn bộ các buổi chiều ở đoạn trước Giuliani quấy rối những người lái môtô, xin tiền lẻ bằng cái chổi của gã.
Elizabeth vẫn chưa có mặt ở đó.
Tôi ngồi xuống một ghế dài.
Mười lăm phút nữa.
Ngực tôi căng lên gấp bốn lần. Tôi chưa bao giờ sợ đến thế trong đời mình. Tôi nghĩ đến màn biểu diễn công nghệ của Shauna. Một trò bịp? Tôi tự hỏi một lần nữa. Sẽ thế nào nếu tất thảy những chuyện này đều là một trò bịp? Sẽ thế nào nếu Elizabeth thực sự đã chết rồi? Khi đó tôi sẽ làm gì?
Suy đoán vô ích, tôi tự nhủ. Lãng phí năng lượng.
Nàng phải còn sống. Không có lựa chọn nào khác.
Tôi ngồi lại và chờ.
“Hắn đến rồi,” Eric Wu nói vào điện thoại di động.
Larry Gandle nhìn ra từ cửa sổ kính màu của xe tải. David Beck thực sự đã xuất hiện ở nơi hắn được cho là sẽ đến, ăn mặc như một tay du côn đường phố. Mặt hắn dằng dịt những vết xước và thâm tím.
Gandle lắc đầu. “Làm thế quái nào mà hắn làm được thế nhỉ?”
“À,” Eric Wu nói giọng ngân nga, “bọn mình luôn có thể hỏi hắn mà.”
“Chúng ta cần chuyện này diễn ra suôn sẻ, Eric.”
“Phải thật.”
“Mọi người vào vị trí rồi chứ?”
“Dĩ nhiên.”
Gandle nhìn đồng hồ. “Ả sẽ có mặt ở đây ngay thôi.”
Nằm giữa Phố Sullivan và Thompson, dinh thự hoành tráng nhất của Washington Square là một tòa tháp gạch màu nâu ở phía Nam công viên. Hầu hết tin rằng tòa tháp đó vẫn là một phần của Judson Memorial Church. Không phải vậy. Trong hai thập kỷ qua, tòa tháp là phòng nội trú sinh viên và văn phòng của NYU. Phần trên của tháp rất dễ đột nhập vào nếu cô trông như thể biết mình sẽ đi đâu.
Từ trên cao này, cô có thể nhìn xuống toàn bộ công viên. Và khi nhìn xuống, cô bắt đầu khóc.
Beck đã đến. Anh cải trang theo kiểu kỳ dị nhất, nhưng email đã cảnh báo anh có thể bị bám đuôi. Cô nhìn thấy anh ngồi ở băng ghế dài đó, một mình, chờ đợi, chân phải run bần bật. Chân anh luôn như vậy mỗi khi căng thẳng.
“Ôi, Beck...”
Cô nghe thấy mồn một sự đau đớn, nỗi thống khổ cay đắng trong giọng mình. Cô vẫn đăm đăm nhìn anh.
Cô đã làm gì?
Quá ngu ngốc.
Cô buộc mình quay đi. Chân cô khép lại và cô trượt lưng dựa vào tường cho đến khi bệt xuống sàn. Beck đã đến vì cô.
Nhưng bọn chúng cũng vậy.
Cô chắc chắn. Cô đã phát hiện thấy ba trong số chúng, ít nhất là thế. Có lẽ còn hơn. Cô cũng phát hiện chiếc xe tải công ty Sơn B&T. Cô đã bấm số điện thoại trên biển hiệu xe, nhưng nó không tồn tại. Cô kiểm tra với sự giúp đỡ của danh bạ điện thoại. Không có công ty Sơn B&T.
Chúng đã tìm thấy họ. Mặc cho hết thảy những đề phòng của cô, chúng đã ở đây.
Cô nhắm mắt lại. Ngu ngốc. Quá ngu ngốc. Nghĩ rằng cô có thể thực hiện được việc này. Làm thế nào cô có thể cho phép nó xảy ra? Khao khát đã che mờ đầu óc cô. Bây giờ cô đã hiểu ra rồi. Bằng cách nào đó, cô đã tự lừa phỉnh mình rằng có thể biến một tai ương khủng khiếp - hai thi thể được phát hiện ra gần cái hồ - thành thứ vận may từ trên trời rơi xuống.
Ngu ngốc.
Cồ ngồi dậy và mạo hiểm nhìn Beck lần nữa. Tim cô rơi tõm như một hòn đá quăng xuống giếng. Anh trông quá cô độc ở dưới kia, quá nhỏ bé, mong manh và bất lực. Beck đã quen được với cái chết của cô chưa? Có lẽ. Anh có đấu tranh với những gì đã xảy ra và tạo dựng cuộc sống cho riêng mình không? Lại một lần nữa có lẽ. Anh đã hồi phục sau tai họa chỉ để sự ngu ngốc của cô đập mạnh vào đầu anh một phát nữa?
Rõ ràng thế.
Nước mắt lại về giàn giụa.
Cô lấy ra hai tấm vé máy bay. Chuẩn bị. Đó đã luôn là mấu chốt cho sự sống sót của cô. Chuẩn bị cho mọi tình huống có thể xảy ra. Đó là lý do tại sao cô đã lên kế hoạch gặp ở đây, tại một công viên công cộng cô biết rất rõ, nơi cô sẽ có được lợi thế. Cô đã không chịu thừa nhận điều này với chính bản thân mình, nhưng cô biết khả năng này - không, sự thật này - tồn tại.
Hết rồi.
Một khe hở nhỏ, nếu từng có một cái như vậy, đã bị đóng sập lại.
Đã đến lúc phải đi. Một mình. Và lần này là vĩnh viễn.
Cô tự hỏi anh sẽ phản ứng thế nào nếu cô không xuất hiện. Liệu anh có tiếp tục sục tìm trên máy tính những cái email không bao giờ đến nữa? Liệu anh có đi tìm khuôn mặt những người lạ và tưởng tượng anh nhìn thấy cô? Liệu có đơn giản là anh chỉ quên đi và sống tiếp - và khi cô thực sự bộc lộ tình cảm thật của mình, cô có muốn anh làm như thế?
Không quan trọng, sống sót trước tiên đã. Sự sống sót của anh. Cô không có lựa chọn nào khác. Cô phải đi.
Bằng nỗ lực tột đỉnh, cô dứt mắt quay đi và vội vã xuống cầu thang. Có một lối ra phía sau dẫn ra Phố 3 Tây, vì vậy cô không cần phải đến công viên. Cô đẩy cánh cửa kim loại nặng nề và bước ra ngoài. Xuống dưới Phố Sullivan, cô tìm thấy một chiếc taxi ở góc Bleecker.
Cô ngồi ngả người ra sau và nhắm mắt lại.
“Đi đâu?” người lái xe hỏi.
“Sân bay JFK,” cô nói.