Không khoan nhượng - Chương 001 - 002 - 003 - 004
Chương 1
TRẠI DELTA CĂN CỨ HẢI QUÂN MỸ
VỊNH GUANTANAMO, CUBA
Khi trời nóng ấm, ở Cuba, cuộc sống của con người ta đâu đó lư lửng giữa hai thái cực, giữa nỗi khổ cùng cực và sự chịu đựng cái nóng nực, bức bối, chen chúc chờ đợi được tắm cho bớt khó chịu, để rồi, khi đến lượt mình thì, “Có bồn tắm rồi đấy, có ai có dao lam không?”. Còn khi mưa lạnh, ở Cuba quả là không thể chịu nổi. Đêm nay là một đêm như vậy.
Lúc những người lính gác đễn chỗ xà lim đặc biệt thuộc “Trại 5” Delta, khu giam giữ những kẻ tình nghi nguy hiểm nhất và có giá trị tình báo cao nhất, nơi đây tồi tệ hơn ngày thường rất nhiều. Và đó không phải vì thời tiết. Có cái gì đó không ổn. Nó hiển hiện trên netsmawtj họ khi đẩy năm tù nhân ra khỏi xà lim và giơ súng yêu cầu chúng cở quần áo.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Thời gian Philippe Roussard ở Guantanamo không phải là dài nhất, nhưng hắn đã trải qua những cuộc lấy cung khó khăn nhất. Một người Châu Âu mang dòng máu Ả-rập, hắn là tay bắn tỉa cừ khôi với những kỳ tích đi vào huyền thoại. Những cuốn băng video về tài nghệ bắn súng của hắn được đẩy lên liên tiếp trên khắp các trang web của các tín đồ Hồi giáo thánh chiến. Đối với những tín đồ Hồi giáo, hắn là một siêu anh hùng trong các danh nhân đạo Hồi cấp tiến. Đối với nước Mỹ, hắn là cỗ máy giết người kinh hoàng, kẻ đã gây ra cái chết của trên một trăm lính Mỹ.
Nhìn vào gã cai ngục, hắn nhận thấy ánh mắt ấy hơn cả nỗi thù hận đơn thuần. Đêm nay, ánh mắt ất còn có cả sự ghê tởm tột độ. Có điều gì đó mách bảo, cho dù lính của Lực lượng Liên quân Guantanamo có chiến thuật hỏi cung nửa đêm đối với Roussard và bốn đồng nghiệp của hắn như thế nào đi nữa, đêm nay, sẽ hoàn toàn khác những gì chúng đã từng trải qua. Những người lính gác có vẻ bắt đầu bối rối.
Liệu có phải đã có cuộc tấn công thành công vào nước Mỹ?
Còn điều gì khác có thể khiến những người lính kia rơi vào trạng thái như thế? Nếu vậy, Roussard cảm nhận rõ ràng rằng người Mỹ sẽ bắt các tù nhân phải trả giá. Không nghi ngờ gì nữa, hẳn là chúng đã có một kiểu đê tiện khác để xúc phạm sự nhạy cảm kiểu đạo Hồi của các tù nhân. Riêng mình, Roussard hy vọng cuộc tra tấn có người lính tóc vàng tham gia và rằng cô sẽ cởi quần áo cho tới khi chỉ còn bộ đồ lót đen bằng ren và cọ sát thân hình quyến rũ ấy vào người hắn. Dù biết mình đoán sai, nhưng những suy nghĩ thích thú về những gì hắn muốn với người đàn bà ấy đã giúp hắn dễ dàng trải qua những giờ đồng hồ cách ly dài đằng đẵng và cô đơn mà hắn phải chịu đựng.
Hắn vẫn còn đang tiên đoán về số phận của mình khi nghe tiếng khóa cửa ở tận đầu kia xà lim. Roussard nhìn lên, hy vọng đó là người lính tóc vàng, nhưng không. Một người lính khác bước vào mang theo năm cái túi giấy. Cứ ngang qua mỗi tù nhân, anh ta lại vứt cho một cái.
“Mặc vào!” Anh ta ra lệnh bằng thứ tiếng Ả-rập vụng về.
Tất cả tù nhân, kể cả Philippe, đều bối rối lấy quần áo dân sự ra khỏi túi và mặc vào người. Chúng kín đáo nhìn nhau trong khi cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Roussard nhớ lại những câu chuyện đã từng nghe về các tù nhân trong trại tập trung người Do Thái, chúng nói rằng đưa họ đi tắm, nhưng thực chất là đưa đến các phòng gas.
Hắn ngờ rằng những người Mỹ này đang cho cả bọn mặc quần áo mới chỉ để hành quyết họ, tuy nhiên, hắn hơi lo lắng một chút vì không biết chắc sẽ phải đối mặt với cái gì.
“Sao chúng không chạy nhỉ?” Một trong số những người lính gác thì thầm vào tai đồng bọn khi anh ta đánh vào cái vòng cản của khẩu M16 của mình. “Tao chỉ muốn một trong số những thằng khốn này nói dông dài với chúng ta.”
“Nhảm nhí,” người lính kia trả lời. “Chúng ta đang làm cái quái gì vậy?”
“Hai thằng, câm ngay!” Chỉ huy của họ quát lên, rồi ra một loạt lệnh qua điện đài.
Hẳn có chuyện gì đó không ổn.
Ngay khi vừa mặc xong quần áo, chúng bị còng tay chân và bắt đứng xếp hàng quay mặt vào bức tường phía xa.
Thế đấy, Roussard nghĩ bụng khi hắn bắt gặp cái nhìn chằm chằm của gã lính gác đang hy vọng một trong những tù nhân sẽ chạy chọt. Ngón tay anh lính bắt đầu lần từ cái vòng cản xuống chỗ cò súng và có vẻ muốn nói gì đó khi có một loạt xe dừng lại phía bên ngoài.
“Đón chúng ta đấy.” Vị chỉ huy Lực lượng Liên quân hết lên. “Lên thôi!”
Đám tù nhân bị đẩy về phía cửa. Roussard hy vọng khi ra ngoài, hắn có thể nhìn thấy là họ đang đi đâu, như vậy sẽ rõ ràng hơn.
Không được rồi, từng tù nhân một bị trùm đầu trước khi được đưa ra một đoàn xe đa năng màu xanh đang chờ bên ngoài.
Mười phút sau, đoàn xe dừng lại. Trước khi cái mũ chụp đầu nặng nề ấy được gỡ bỏ, Roussard có thể nhận ra tiếng động cơ phản lực gào xé.
Trên mặt nhựa đường đẫm nước mưa, trước khi được tháo còng, đám tù nhân nhìn lên, thấy một chiếc Boeing 727 khổng lồ. Một cái thang cuộn lên một bên chiếc phi cơ và khoang cửa mở rộng.
Chẳng ai nói một lời, nhưng dựa vào thái độ của những người lính – dường như họ được lệnh đứng cách xa chiếc máy bay – Roussard đi đến một kết luận sáng suốt. Dù không được lệnh, Roussard cứ tiến một bước về phía trước. Không thấy người lính nào ngăn cản, hắn tiến lên bước nữa, rồi bước nữa, cho tới khi chân chạm vào bậc thang kim loại đầu tiên và hắn bắt đầu trèo lên. Hắn sắp có cơ hội được cứu. Chỉ đến cuối cùng hắn mới biết. Thấy tiếng các tù nhân khác chạy rầm rập ở lối đi phía sau mình, Roussard thận trọng bước vào cabin. Người hắn gặp đầu tiên trên máy bay là một sĩ quan, anh ta so sánh hắn với một tấm ảnh trên bìa kẹp hồ sơ, rồi rút ra một cái phong bì đen nặng nề, anh ta nói, “Chúng tôi được lệnh đưa anh cái này”.
Trước đó, Roussard đã từng nhận được những phong bì giống thế này. Dù không mở ra, hắn cũng biết ai gửi nó tới.
“Mời anh ngồi vào chỗ,” viên sĩ quan đầu tiên tiếp lời. “Cơ trưởng đang nóng lòng muốn cất cánh.”
Roussard tìm thấy một chỗ trống gần cửa sổ và thả mình vào đó. Khi cánh cửa khoang chính đóng lại, một số thành viên phi hành đoàn biến mất về phía đuôi máy bay và quay lại mang theo những thiết bị y tế kì cục cùng một số đồ làm lạnh bằng nhựa to.
Chẳng điều gì có ý nghĩa với Roussard cho tới khi hắn mở chiwwcs phong bì và đọc nội dung bên trong. Một nụ cười từ từ hiện lên trên khuôn mặt. Thế alf xong. Không những đã được tự do, mà người Mỹ còn không thể theo đuổi được hắn nữa. Hắn sắp được trả thù – và nhanh hơn rất nhiều so với hắn tưởng.
Mở cánh cửa sổ ra, Roussard có thể nhìn thấy đám lính đang trèo trở lại những chiếc xe đa năng và lái ra khỏi đường bay, một số giơ tay ra ngoài cửa sổ và giơ ngón giữa ra chào một cách mỉa mai.
Khi động cơ của chiếc máy bay bắt đầu rú lên và con thú to lớn bỗng chồm mình về phía trước, phía mũi máy bay vang lên những tiếng vui mừng “Allahu Akbar”, thánh Ala vĩ đại.
Thánh Ala vĩ đại thật đấy, nhưng Roussard biết chẳng phải Người đã thu xếp vụ phóng thích này. Và khi nhìn vào chiếc phong bì màu đen, hắn biết rằng họ phải cảm ơn một người nào đó ít nhân từ hơn Người nhiều.
Tập trung chú ý về phía cửa sổ nơi những người lính đang nhanh chóng khuất khỏi tầm nhìn, Roussard gõ gõ ngón trỏ và ngón cái, lấy mục tiêu và đẩy cò súng tưởng tượng.
Giờ đây, khi đã được tự do, hắn biết rằng, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi người quản lý để hắn tự do trong lòng nước Mỹ để báo thù.
Chương 2
QUẬN FAIRFAX, VIRGINIA
SÁU THÁNG SAU
Một tiếng sấm làm rung chuyển cả tường và cửa sổ phòng ngủ nổ ra trong một trận mưa đá đày kính vỡ vụn. Hoàn toàn theo bản năng, Scot Harvath với tìm cô bạn gái Tracy và lăn ra khỏi giường.
Phía vai yếu của anh va mạnh xuống. Nặng nhọc nâng người lên, anh với tay và kéo ngăn kéo ra khỏi cái bàn đầu giường. Nó rơi đánh xoảng xuống. Những đồng ngoại tệ, một lọ thuốc giảm đau, một chùm chìa khóa cất giữ tài sản, bút, một tập giấy từ Rizt ở Parkerris gửi đế, tất cả văng ra nền gỗ.Mọi thứ đề ở đó trừ thứ anh đang cần khủng khiếp – khẩu súng của anh.
Harvath lăn ngửa ra và chới với dưới gầm giường. Cuối cùng, anh tìm được cái hộp đạn rỗng và vỏ súng cũng rỗng nốt.
Bản năng gào lên làm anh phải đi tìm một thứ vũ khí, trong khi lương tâm lại đang mắng chửi anh vì tội đi ngủ mà không mang theo súng. Nhưng anh có mang súng đi ngủ đấy chứ. Anh luôn làm thế mà. Anh đã cất nó trong ngăn kéo cạnh chỗ anh nằm. Chắc chắn là như vậy.
Có khi Tracy lấy nó trước cũng nên. Anh quay sang phía cô, nhưng cô không còn ở đó. Thực ra, trong lúc lăn lộn, anh cũng không rõ cô có trên giường hay không. Không hiểu thế nào nữa.
Đứng dậy, Harvath cố lần ra hành lang và cầu thang ở tận đầu đằng kia. Cứ mỗi bước chân, anh lại càng thêm lo lắng. Ruột gan như cố mách bảo anh điều gì và đến bước chân cuối cùng, anh nhìn thấy máu. Nền nhà, tường, trần nhà, chỗ nào cũng đầy máu.
Đâu cũng lênh láng máu. Máu từ đâu ra nhỉ? Máu của ai vậy?
Mặc dù Adranalin đang chảy khắp cơ thể, nhưng chân anh vẫn cứng đờ ra như đá. Phải dùng hết sức bình sinh, anh mới lết được về phía đường vào và mở cửa trước ra.
Khi anh bước ra ngoài, đạp vào mắt anh là hình ảnh làm tim anh đau nhói – ngay trên cửa, một cái hòm mây treo ngược, sơn đầy máu và đổ sụp xuống bên thềm cửa, ngay cạnh chú chó trắng nhỏ, chính là cơ thể của người phụ nữ anh yêu.
Harvathart nghĩ anh nhìn thấy có chuyển động đâu đó dọc theo hàng cây ở ven khu nhà, Một con dao dài, đen vung lên từ phía sau vai và mũi dao gí vào cổ họng trong khi anh đang tìm kiếm thứ gì đó để tự vệ.
Chương 3
BỆNH VIỆN FAIRFAX FALIS
CHURCH, VIRGINIA
Đầu Harvath bất ngờ ngật ra đằng sau làm anh giật mình tỉnh dậy. Vài giây sau, tim đập chậm trở lại, anh mới nhận ra là mình đang ở đâu. Nhìn quanh căn phòng trong bệnh viện, anh thấy mọi thứ vẫn như trước khi anh rời khỏi đây rồi bị chìm sâu vào giấc ngủ. Cái thành giường mà anh dịnhđể trán lên cho đỡ mỏi vẫn còn đó, Tracy Hastings, người đang nằm trên giường cũng vậy.
Harvath quét mắt dọc cơ thể cô, xem có chút dấu hiệu chuyển động nào không, nhưng Tracy vẫn nằm bất động. Cô là nạn nhân bị trúng đạn của một tên sát thủ cách đây năm ngày và từ đó đến nay, cô vẫn nằm bất động, không xê dịch dù chỉ là một centimet nhỏ.
Cánh quạt thông gió vẫn đang chạy đều đều. Harvath không thể chịu đựng được khi nhìn thấy cô như vậy. Cô đã chịu đựng quá nhiều. Và nỗi đau đớn mà cô đang phải chịu chính là do anh.
Mặc dù bị thương nhiều lần – đặc biệt là trong một vụ thiết bị nổ tự chế ở Iraq, bom đã nổ ngay trước mặt, lấy đi đôi mắt xanh đẹp mê hồn của cô và cô cũng mất luôn công việc là chuyên viên kỹ thuật hàng đầu về tháo gỡ chất nổ hải quân – cô vẫn cố gắng để giữ được tính hài hước đến kỳ lạ.
Dù ngần ngại một lúc mới dám thú nhận, nhưng phải nói rằng Harvath đã yêu Tracy ngay từ giây phút đầu tiên.
Họ đã gặp nhau khá tình cờ ở Manhattan cách đây chưa đầy một tháng. Harvath đã tới Big Apple để nghỉ kỳ nghỉ cuối tuần mùng bốn tháng bảy với người bạn thân Robert Herrington. Robert, bạn thân của anh được biết đến với cái tên “Bob viên đạn”, từng là một đặc vụ huyền thoại của Lực lượng Delta mới giải ngũ do bị thương ở Afghanistan.
Harvath và Herington đã có một kỳ nghỉ cuối tuần bù khú rất đã ở thành phố New York nơi đã xảy ra một vụ khủng bố kinh hoàng. Không ai trong số họ có thể ngờ rằng đêm khuya hôm ấy Bob lại bị giết.
Đảo Manhattan hoàn toàn bị phong tỏa, cảnh sát, những đám cháy và các đơn vị EMS kéo dài tới mức không chịu nổi. Bob đã giúp Scot điều hành đội của mình để săn tìm thủ phạm. Đội này bao gồm những quân nhân hoạt động đặc biệt từ Hội Cựu chiến binh Manhattan, những người giải ngũ do bị thương ở nước ngoài gần đây giống như Bob. Harvath đang đứng trên nóc nhà của Hội Cựu chiến binh dọc sông Đông khi Tracy và hai người bạn nữa của Bob bước lên đó.
Hai mươi sáu tuổi, Tracy trẻ hơn Harvath mười tuổi, nhưng sự khôn ngoan và hiểu biết ở cô khiến giữa họ như không còn sự khác biệt tuổi tác. Khi Harvath nhận xét điều này với cô, cô đùa rằng vô hiệu hóa các thiết bị gây nổ chết người có một cách để làm con người ta lão hóa rất nhanh.
Bên trong cô là người chững chạc hơn tuổi hai mươi sáu của mình, nhưng bề ngoài lại không như vậy. Cô sở hữu một thân hình tuyệt đẹp. Thực ra, cô có vóc dáng đẹp nhất trong số những người phụ nữ Harvath từng biết. Tracy nói vui, cô có một thân thể đẹp mê hồn và một khuôn mặt để bảo vệ thanh hình ấy. Đó là cách cô dí dỏm về những vết sẹo trên mặt trong vụ nổ ở Iraq. Các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đã xử lý khuôn mặt cô thật tuyệt vời, phù hợp với đôi mắt màu xanh nhạt còn lại của cô, nhưng dù trang điểm kỹ đến thế nào, Tracy cũng không thể che lấp được những vết sẹo mờ ấy.
Với Harvath, điều ấy chẳng có gnhiax lý gì. Anh nghĩ rằng cô là một người tuyệt vời. Anh yêu sao cái cách cô tết bím tóc vàng của mình lại. Chỉ những cô bé mới tết tóc, nhưng khi một người phụ nữ như cô để kiểu tóc ấy, lại cực kỳ quyến rũ.
Đó là một Tracy nguyên bản. Ở cô, chẳng có gì bình thường. Trí thông minh, niềm đam mê, sự kiên định trên khuôn mặt đầy thương tích của cô là những nét để Harvath ngưỡng mộ Tracy sâu sắc. Lý do để anh yêu cô cũng vì bản thân anh nhiều hơn.
Harvath quan tâm tới cô nhiều như vậy bởi lần đầu tiên trong đời, anh đã tìm thấy một người thực sự hiểu anh. Hơn ai hết, cô đã nhìn thấy chính anh đằng sau hàng chuỗi những lời nói lém lỉnh, những câu chuyện cười không bao giờ kết thúc và đống đá anh ném lên tường. Anh không cần phải chơi những trò chơi với cô và cô cũng vậy. Từ giây phút gặp nhau, họ đã tìm thấy chính mình. Đó là cảm giác Harvath tưởng mình chẳng bao giờ có được.
Khi nhìn thấy Tracy ở trên giường bệnh, anh biết, đó là một cảm giác anh chẳng bao giờ có lại nữa.
Anh nhẹ nhàng gỡ tay khỏi tay cô và đứng dậy.
Chương 4
Trong phòng tắm riêng ở bệnh viện, có cả bàn chải và thuốc đánh răng, dao cạo, khử mùi hôi và kem cạo râu. Laverna, người y tá đêm đã vứt chúng ngay sau khi Harvath tới vào buổi sáng Tracy bị bắn. rõ ràng là anh không có ý định rời đi. Anh sẵn sàng ở lại lâu bao nhiêu cũng được, cho tới khi cô bình phục.
Đóng cửa lại, Harvath cởi quần áo và vặn vòi nước bồn tắm. Khi nước đã đủ nóng, anh trèo vào trong và mặc cho nước mơn man cơ thể. Nhắm mắt lại, từng chi tiết của cơn ác mộng ấy lại trở lại và anh phải cố gắng lắm mới xua đuổi được chúng ra khỏi tâm trí. Anh vừa xoa bánh xà phòng nhỏ xíu lên người vừa cố nghĩ đến một điều gì đó.
Đã xong rồi, nhưng anh biết những con quỷ ấy sẽ quay trở lại. Chúng đã ám ảnh anh ngày đêm từ khi Tracy bị bắn.
Một trong những bác sĩ dứng trong phòng khi Harvath thoát ra khỏi một cơn ác mộng tồi tệ đã khuyên anh tìm một liệu pháp nào đó, nhưng anh lịch sự cười đáp lại ông ta. Rõ ràng là ông bác sĩ không biết mình đang nói chuyện với ai. Những người trong đường dây làm việc của Scot không tìm kiếm liệu pháp nào hết. Chẳng ai trên thế giới này có thể hiểu được cuộc đời anh như thế nào và hiểu được những tổn thất đã giáng xuốn anh trong những năm qua.
Vặn nước về mức lạnh, Harvath rùng mình tỉnh dậy và bước ra. Quấn khăn tắm quanh bụng, anh tựa vào bồn và lau lớp hơi nước mờ ở gương đi. Lần duy nhất trong đời, anh thực sự nhìn thấy mình thế nào – thật kinh khủng. Đôi mắt màu xanh lơ hàng ngày của anh ảm đạm và đỏ ngầu, khuôn mặt đẹp trai nhăn nhó, hốc hác. Mái tóc nâu hung hung đỏ, dù sao cũng đã đến lúc cắt. Thân hình vạm vỡ, cao lớn vốn khiến bất kỳ gã đàn ông nào bằng nửa tuổi anh cũng phải ghen tị thì đang suy nhược vì gần như năm ngày qua anh chẳng ăn gì.
Giá mà trước đây Harvath từng nghi ngờ và căm ghét bản thân như bậy giờ.
Cách đây mười tám năm, anh không gnhe lời cha, một giáo viên huấn luyện người nhái SEAL1 tại Trường Chiến tranh đặc biệt của Hải quân gần nhà ở Coronado, Califonia.
(1) SEAL: Người nhái với cả ba phương tiện, đường biển, đường không và đường bộ.
Anh đã cố gắng và được nhận vào Đội trượt tuyết kiểu tự do của Mỹ. Măc dù biết con mình là một vận động viên trượt tuyết có một không hai, nhưng cha anh vẫn muốn anh học tiếp Đại học sau khi kết thúc phổ thông trung học chứ không tham gia vào giới điền kinh chuyên nghiệp. Cha và con đều ngang như nhau và từ đó, trong suốt một thời gian dài, chẳng ai nói với ai một lời nào nữa. Chính mẹ của Scot, bà Maureen, đã trở thành chiếc cầu nối trong gia đình. Và mặc dù đã có một số cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông, song mọi chuyện không thể nào trở lại thực sự như cũ được nữa. Cả cha và con đều chẳng muốn nhận lỗi về mình, việc này khiến cái chết của cha Harvath càng tồi tệ hơn.
Khi ông Michael Harv chết vì một tai nạn nghề nghiệp, Scot đã thay đổi hoàn toàn. Có cố gắng đến đâu đi nữa, anh cũng không thể để tâm trở lại với việc thi thố trượt tuyết. Anh rất yêu thể thao, nhưng dường như điều ấy chẳng còn quan trọng chút nào.
Trích một phần trong số tiền thưởng lớn của mình, anh mua một cái ba lô và đi du lịch khắp Châu Âu, rồi cuối cùng dừng lại ở Hy Lạp, trên một hòn đảo nhỏ gọi là đảo Parkerros. Tại đó, anh tìm được công việc làm nhân viên đứng quầy bar cho một cặp không xứng đôi vừa lứa. Một người trước đây lái xe cho một gia đình tội phạm ở Nam Luân Đôn, còn người kia nguyên là lính trong lực lượng đặc nhiệm SWAT của Anh, một kẻ hay cằn nhằn. Sau một năm, Harvath biết anh muốn làm gì.
Anh trở về nhà và vào học tại trường Đại học Nam Califonia, ngành khoa học chính trị và lịch sửa quân đội.
Ba anwm sau, anh tốt nghiệp, anh vào ngành Hải quân và cuối cùng được nhận vào trường Người nhái Thủy công cơ bản và tham gia chương trình đặc biệt SQT hay cong gọi là chương trình Đào tạo Chuyên ngành Người nhái Hải quân. Mặc dù quá trình tuyển chọn và đòa tạo làm anh mệt nhoài, nhưng tình trạng thể lực và tinh thần thuộc hàng vận động viên đẳng cấp quốc tế, việc anh không chịu từ bỏ bất cứ thứ gì và niềm tin rằng cuối cùng mình cũng tìm thấy tiếng gọi chân chính của cuộc đời mình điều đó đã trở thành động lực giúp anh tiến bước và mang lại cho anh vinh dự được coi là một trong những chiến binh xuất sắc nhất thế giới – một Người nhái của Hải quân Hoa Kỳ.
Với khả năng trượt tuyết có một không hai, Harvath được giao nhiệm vụ làm việc với những chuyên gia khí hậu lạnh của SEAL, Đội số Hai. Vì không hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên, Harvath bị ra khỏi đội. Cuối cùng, những thành viên của đội Người nhái số Sáu danh tiếng lại để mắt đến anh. Chính họ đã giuso anh phát triển những khả năng của mình, không chỉ như một chiến binh, mà còn là một chuyên gia ngôn ngữ, cải thiện vốn tiếng Pháp ít ỏi và dạy thêm anh tiếp Ả-rập.
Chính trong thời gian thuộc Đội số Sáu, Harvath đã hỗ trợ một đội bảo vệ Tổng thống ở Maine và lọt vào mắt xanh của Sở Mật vụ. Nhằm tăng cường đội ngũ chống khủng bố ở Nhà Trắng, cuối cùng, họ đã thuyết phục được anh rời khỏi lực lượng Hải quân và tới thủ đô. Harvath nhanh chóng tiến xa hơn nữa và chỉ trong một thời gian ngắn đã được đề cử vào một chương trình tuyệt mật tại Bộ Nội an Mỹ, đứng đầu là một người bạn cũ của gia đình anh, Nguyên Phó Giám đóc FBI Gary Lawlor.
Chương trình này mang tên Dự án Apex, được bí mật đặt tại một chi nhánh ít ai bieets tới của Bộ An ninh Nội địa, Văn phòng Hỗ trợ Điều tra Quốc tế, gị tắt là OIIA. Nhiệm vụ của OIIA là hỗ trợ cảnh sát, quân đội và các cơ quan tình báo nước ngoài trong việc ngăn ngừa các cuộc tấn công vào người Mỹ và quyền lợi của người Mỹ ở nước ngoài. Như vậy, một phần nhiệm vụ của Harvath là phù hợp với nhiệm vụ chính thức của OIIA. Thực ra, anh là một “con chó” chiến tranh bí mật đã được tổng thống thả vào kẻ thù của Mỹ sau vụ 11/9 nhằm ngăn cản không cho bất kỳ vụ khủng bố nào vào nước mỹ xảy ra nữa.
Lý do là bọn khủng bố không chơi theo một quy tắc nào, nên nước Mỹ cũng vậy. Nhưng có những xu hướng nhạy cảm còn tôn tại ở nước Mỹ, rằng nước ta là nước duy nhất nên quân thủ theo các quy tắc, vì vậy tổng thống nhận thấy rằng chỉ một số rất ít nhân vật chủ chốt mới có thể biết về nhiệm vụ thực sự của Harvath, đó là chính ngài tổng thống và sếp của Harvath, Gary Lawlor.
Harvath ddwwocj hậu thuẫn bằng toàn bộ swasc nặng của Phủ tổng thống cũng như sức mạnh tổng hợp của quân đội và cộng đồng tình báo Mỹ. Trên giấy tờ, nghe thì có vẻ rất tuyệt, nhưng trong thực tế, đặc biệt là trong bộ máy quan liêu Washington, hóa ra lại hoàn toàn biến thành thứ khác.
Giờ đây, Harvath không muốn nghĩ về công việc của mình. Lý do là vì chính công việc đó, vì anh, vì nó mà Tracy bị bắn. Chẳng cần kết quả điều tra nào anh cũng biết điều đó. Anh biết chắc chắn là như vậy và cũng biết rõ rằng người phụ nữ nằm trên giường bệnh kia không đáng phải chịu những gì xảy ra đối với cô.
FBI có thể đã thu thập lại một số thứ trong vụ bắn giết. họ đã phát hiện ra nơi ẩn náu mà tên sát nhân nấp trong khu rừng ven nhà anh thời điểm đó. FBI cho rằng, cho dù kẻ ám sát là ai đi nữa, hắn cũng phải tự chôn mình trong suốt buổi tối, có lẽ là vài giờ trước khi trời sáng.
Hắn để lại một lời nhắn – Máu phải trả bằng máu. Hắn cũng có một hành động kỳ quái, đó là sơn khung cửa nhà anh bằng máu. Phân tích đầu tiên cho thấy đó là máu của Tracy. Nó được vẽ trong đêm và đã khô trước khi Tracy bị bắn.
Rồi còn một con chó nhỏ đặt trong một cái giỏ nhỏ ở bậu cửa như một món quà. Harvath chỉ nhìn thấy mấy chữ cảm ơn để lại đó là biết nó từ đâu ra. Nhưng nếu ai đó muốn nhằm vào anh hoặc Tracy, việc gì phải để lại tấm thiếp làm om xòm lên như thế?
Trước đó vài tuần, trong một hoạt động bí mật ở Bibraltar, Harvath đã cứu sống một con chó Cáp Ca – cùng giống với con chó để lại trước cửa nhà anh. Chủ của con chó ở Gibraltar là một người đàn ông nhỏ thó – một gã lùn, thực ra gã này tham gia vào những vụ mua bbans thông tin cao cấp. Gã cũng là người giúp cho kế hoạch tấn công vào New York. Gã được biết tới với cái tên gã Lùn ranh mãnh.
Nhưng làm sao gã Lùn tìm ra anh nhỉ? Chỉ vài người biết về ngôi nhà thờ lịch sử và khu đất mang tên Bishop’s Gate mà bây giờ Harvath gọi là nhà. Anh thấy khó mà tin rằng gã Lùn lại chủ quan và ngốc nghếch đến độ thông báo rằng ông ta đứng sau vụ nổ súng vào Tracy.
Tuy nhiên, thời gian không còn nhiều và Harvath không phải là một người tin vào sự trùng hợp. Phải có một mối liên hệ nào đó và anh quyết tìm ra nó.