Phần V- Hồi 3
Hồi thứ ba: MŨ SẮT
Sau khi thông tin được truyền đến, từ nơi sâu trong bóng tối phát ra tín hiệu “A...A...D” thì nó liền đứt đoạn liên lạc. Ngọc Phi Yến ngạc nhiên hỏi: “Như vậy... có nghĩa là gì? AAD là ai nhỉ?” Tư Mã Khôi nói: “Có khả năng là một loại mật mã quốc tế được tăng thêm độ bảo mật hoặc là ám ngữ chỉ người trong quân đội mới sử dụng, chúng ta không thể biết được.” Tuyệt gắng sức sục sạo trí nhớ trong đầu: “Hình như tôi... đã nghe thấy đoạn mật mã này ở đâu rồi thì phải, nhưng sao chẳng thể nhớ ra nổi...”
Trong huyệt động dưới lòng đất thâm u, sâu thăm thẳm, độ ẩm của không khí rất cao, chỗ nào cũng mờ ảo mơ hồ, địa hình đặc biệt khiến nó hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài, còn hội Tư Mã Khôi thì căn bản không thể tìm cách suy đoán nguồn gốc của đoạn sóng điện khi nãy. Bởi vì, những người bị mất tích trong sơn cốc núi Dã Nhân quả thực quá nhiều, có khả năng đoạn sóng điện này được phát ra do một kẻ may mắn sống sót nào đó trong đoàn thám hiểm, cũng có thể là của tên Nấm mồ xanh lúc ẩn lúc hiện giống như vong hồn kia. Nhất thời chẳng ai có thể đoán chính xác nó là điềm lành hay điềm dữ, nhưng mọi người đều cảm thấy việc này rất mờ ám, có khả năng là trò lừa đảo, không nên tin thì hơn, chẳng những vậy, nội dung mã cũng rất khó lý giải: “Trong rắn? Chẳng lẽ một người chết bị rắn nuốt chửng vào bụng, đang liên lạc với chúng ta?”
Tư Mã Khôi nói chuyện này có chút kỳ quái, những thiết bị lẽ ra đều có thể sử dụng bình thường, đến đây thì bị hỏng hóc, còn chiếc máy điện đàm không dây lẽ ra không thể bắt được sóng điện, thì lại bất ngờ thu được tín hiệu. Chẳng lẽ tất cả những điều này đều có liên quan đến sương mù xuất hiện trong núi Dã Nhân? Phương hướng của la bàn hoàn toàn hỗn loạn, chúng ta không thể căn cứ vào phương hướng thông tin cung cấp để điều tra gốc rễ sự việc.
Trong lúc mọi người đang bàn bạc kế sách, thì Hải ngọng đứng bên cảnh giới đột nhiên phát hiện: nơi xa trong bóng tối, thấp thoáng ẩn hiện ánh sáng của một ngọn đèn lúc tỏ lúc mờ, anh vội vàng nhắc hội Tư Mã Khôi chú ý. Tư Mã Khôi chăm chú quan sát hồi lâu, thấy đó không phải lửa ma trơi, mà dường như người nào đó dùng tay che đèn làm tín hiệu, tín hiệu ánh sáng vừa lóe lên, chẳng đợi mọi người kịp phân biệt kỹ, nó đã vụt tắt không thấy đâu nữa.
Hải ngọng chẳng buồn để tâm, từ lúc vào núi đến nay, anh đã phải dằn lòng kìm nén sự ức chế tức giận của bản thân, giờ đây không chịu được nữa, anh bực tức hầm hầm nói: “Mẹ nhà nó, không biết thằng oắt con nào đang tác yêu tác quái thế không biết? Ông mày nhất định phải xem mày là người hay là ma mới được!” Nói xong, anh liền xách khẩu súng săn, lần theo phương hướng phát ra tín hiệu ánh sáng, đi về phía trước tìm kiếm. Tư Mã Khôi cũng gọi Tuyệt và Ngọc Phi Yến, bảo bọn họ hãy mau bám theo sau, xem bên đó rốt cục đang xảy ra chuyện gì.
Bốn người lấy khí thế, dàn trận thành đường quân đi theo hình nan quạt tiến lên phía trước truy lùng, trong khi bốn phía chỉ thấy một dải đêm tối đen như mực, mắt nhìn cái gì cũng nhập nhòa chập chờn, nên bước chân đành phải giảm tốc độ.
Tuyệt nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: “Nấm mồ xanh cứ trốn mãi trong bóng tối nhìn lén chúng ta, không biết hắn là người hay là ma, hay là một loài quái vật nào khác. Nhưng từ sau khi quả bom địa chấn phát nổ, hắn chẳng còn xuất hiện nữa, tín hiệu ánh sáng và âm thanh khi nãy lai lịch rất quái dị, hay là do hắn phát ra nhỉ?”
Tư Mã Khôi cũng cho rằng, lúc đang ở trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải, Nấm mồ xanh chắc đã ẩn trốn giữa mấy kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm, bởi vì tình hình lúc đó rất đặc thù, khoang máy bay giống như một gian mật thất, nếu hắn không ở gần ngay trước mắt, thì tuyệt đối không thể nắm rõ tình hình xảy ra trong khoang như lòng bàn tay thế được. Nếu tín hiệu khi nãy có liên quan đến hắn, thì tuyệt đối không đáng tin, vì quá nửa là hắn muốn dẫn dụ những kẻ may mắn sống sót từng nhìn thấy tòa thành Nhện Vàng bước vào con đường chết, nhằm giết người diệt khẩu. Hơn thế nữa, Tư Mã Khôi còn suy đoán, giờ đây kẻ bám đuôi giống như u hồn kia, chắc chắn đang trốn ở một góc chết nào đó, chỉ có điều bọn họ mãi vẫn chưa tìm được cơ hội tóm cổ hắn ra mà thôi.
Tuyệt nghĩ đi nghĩ lại lời của Tư Mã Khôi, nhưng vẫn không hiểu nổi, nên đành hỏi anh: “Lúc trước anh từng nói trong tâm lý con người tồn tại góc chết, đó là điểm mù như thế nào vậy?”
Tư Mã Khôi nói, đã là góc chết trong tâm lý, thì nó chính là phạm trù rất khó tưởng tượng bằng tư duy thông thường, bởi vậy bây giờ chúng ta ngồi đây suy đoán lung tung cũng chẳng có ý nghĩa gì. Năm đó, ở vùng Tương Tây thuộc tỉnh Hồ Nam, có xảy ra một vụ án mạng rất ly kỳ uẩn khúc. Khu vực Tương Tây từ xưa đến nay là nơi nhiều núi, lắm động, vô số vũ khí súng đạn và thổ phỉ, bọn sơn tặc thổ phỉ nhiều như cỏ dại, những thương nhân đi lại trên đường, một mình dừng chân bên sườn núi nghỉ ngơi đều bị kẻ từ phía sau xô ngã xuống, rồi dùng dao cắt đầu. Năm đó có một tiệm buôn, mà ông chủ của tiệm tự mình ra ngoài lấy hàng, người nhà không yên tâm, liền tính ngày ông sắp trở về, rồi phái quản gia mang theo hai gia nhân, đến thị trấn nhỏ cách nhà khoảng mười mấy dặm đón chủ. Thị trấn đó nằm trong núi sâu heo hút, xung quanh có rất nhiều thổ phỉ, nhưng lại là con đường bắt buộc phải đi qua nếu muốn về nhà. Trong thị trấn chỉ có một quán trọ lớn, không có phòng đơn, mà toàn bộ hai mươi mấy người nằm quay đầu vào nhau trong một gian phòng. Vị quản gia đến rất đúng lúc, ông ta dò hỏi nhà trọ, được biết ông chủ tối hôm qua đã nghỉ trọ ở quán, rồi mắt nhìn mặt trời đã lên khá cao, cũng đến lúc phải trả tiền phòng đi về, nhưng nheo mắt đếm tất cả khách trọ trong quán từ đầu chí cuối có mười tám người, chỉ duy bóng dáng của ông chủ là chẳng thấy đâu. Vị quản gia lại vào trong phòng xem, chỉ thấy bốn bức tường trống hoang, làm gì còn ai nữa. Thầm cảm thấy việc này có gì không ổn, ông liền vội vã đi tìm chủ quán đối soát xem danh sách khách trọ ngày hôm qua, quả nhiên, giấy trắng mực đen ghi rõ: tối qua có mười chín khách trọ, nhưng qua một đêm sang bình minh ngày hôm sau, một người đang sống sờ sờ lại tự dưng bốc hơi biến mất trước mắt mọi người? Trong lúc cấp bách, vị quản gia, cố sống cố chết ngăn cản những người khách đang định ra về lại, rồi trần tình: ông chủ chúng tôi tối qua rõ ràng nghỉ trọ trong quán này, mà sao bây giờ sống chẳng thấy người, chết chẳng thấy thây, tung tích hoàn toàn bất minh như vậy? Hay là quán trọ này là quán trọ xã hội đen, ngầm mưu sát tính mạng khách để cướp tài sản. Lúc đó trên phố cũng vừa vặn có một đội tuần phủ đi tuần, thấy đám đông náo loạn ồn ào, liền bắt tất cả về phủ tra xét. Bọn họ vốn chỉ định nhân loạn kiếm tí tiền, chẳng ngờ, khi lục soát, trên mình mười tám vị khách trọ cùng phòng với người khách thương nhân kia, mỗi người đều mang theo một bao thịt người. Dưới sự bức cung tra hỏi và dùng hình, cuối cùng mấy vị khách kia đã phải cúi đầu nhận tội, đồng thời thuật lại toàn bộ quá trình sự việc. Thì ra mười tám tên này đều là thổ phỉ, trên đường nhìn thấy vị thương nhân kia xách hành lý đầy căng, liền muốn tìm nơi hoang vắng giết người đoạt tài sản, nhưng từ đầu chí cuối đều không tìm được cơ hội hạ thủ, cuối cùng, bọn chúng đành bám theo đến tận thị trấn nhỏ. Bọn thổ phỉ giả như không quen biết, đã thuê đứt cả quán trọ để được cùng chung phòng với vị khách kia. Sau khi màn đêm buông xuống, đợi lúc vị khách đó ngủ say, bọn chúng liền dùng gối bịt chặt mũi, khiến người đó ngạt thở mà chết, sau đó dùng dao phanh thây, chia thành mười tám khúc, lại dùng vôi và dầu hỏa bao kín lại, không để lộ nửa vết máu. Sau đó, mỗi tên lần lượt vác một phần xác theo người, định bụng sau khi rời quán trọ, sẽ ném xuống núi cho chim thú rỉa thịt, như vậy tuyệt đối không thể để lại bất kỳ dấu vết nào. Nhưng chắc là do bọn chúng đã giết quá nhiều người, nên cuối cùng cũng bị oan hồn của họ ngáng chân, khiến lũ thổ phỉ chưa kịp rời khỏi quán trọ, thì vị quản gia nọ đã làm loạn lên, vụ án từ đó bại lộ. Sau đó, chúng bị quan phủ trói gô lại, mang vào thành diễu phố rồi chặt đầu thị uy dân chúng. Vụ án mười tám mảnh thây xác kia đã gây chấn động không nhỏ trong xã hội lúc bấy giờ, biển người bách tính trăm họ đua nhau đổ xô ra xem cảnh xử tử lũ thổ phỉ ở pháp trường, đúng là vô cùng náo nhiệt.
Tư Mã Khôi nói với Tuyệt: “Trong ‘Đáy biển giang hồ’, giới lục lâm gọi giết người là ‘đẩy bò’, bọn thổ phỉ kia đã lợi dụng góc chết trong tâm lý con người, sau khi ngắm trúng vị khách buôn trên đường, chúng bèn ra tay giết chết ông ta trong quán trọ, phanh thây thành nhiều mảnh, dùng vôi yểm vùi, khiến máu không nhỏ ra, rồi chia mỗi người một bao mang theo. Bởi vậy lúc vào thì có mười chín khách trọ, nhưng lúc ra lại chỉ có mười tám người. Chúng ngang nhiên giết người cướp của ngay trong thị trấn mà không hề để lộ chút dấu vết nào, nếu không có sự ngẫu nhiên xảy ra, thì ai có thể vạch trần thủ đoạn ‘đẩy bò’ của bọn bất nhân đó?”
Tuyệt nghe xong thì tỉnh ngộ ra, có lẽ Nấm mồ xanh đã dùng một thủ đoạn khác thường nào đó để lẩn trốn vào giữa những thành viên may mắn sống sót của đội thám hiểm, nhờ thế mà hắn có thể xuất hiện hoàn toàn vô hình trước cặp mắt của mọi người, chứ chưa hẳn là một vong hồn thật sự.
Lúc này, Hải ngọng đang lùng sục ở phía trước, anh phát hiện trong lùm tàn tích của loài cây dây leo mọc ngay bên cạnh, dường như ẩn giấu một vật gì đó. Hệ thực vật dưới lòng đất, cây nào cây nấy thân mình to lớn, hình dáng kỳ dị, tán lá dày rậm tầng tầng lớp lớp, vượt xa mọi định nghĩa diễn giải trong bất kỳ cuốn từ điển nào. Những rễ cây cổ thụ lồi lõm nhấp nhô trên mặt đất, chẳng khác nào bề mặt của mặt trăng: nghèo nàn mà thê lương, tuyệt đối không tồn tại sự sống. Trong khi ấy, giữa những thân cây cổ thụ, xuất hiện một vật nằm thù lù thành đống đen sì, thể tích rất lớn, xem ra nó hoàn toàn không ăn nhập với môi trường xung quanh, cũng chẳng giống với thân cây cổ thụ khô héo bị đổ rạp. Hải ngọng giương khẩu súng săn đâm một cái, chỉ thấy vang lên âm thanh nghe đánh “coong”, như thể chạm phải vỏ sắt. Anh ngạc nhiên cực độ: “Trong cánh rừng rậm nguyên sinh chôn vùi dưới lòng đất, làm sao tự dưng lại mọc ra vật này được nhỉ?” đoạn quay đầu vội vã vẫy gọi ba người còn lại đến xem rốt cục nó là cái gì.
Tư Mã Khôi nghe tiếng gọi, liền nhanh chân chạy mấy bước, anh xách đèn halogen vừa chạy vừa quét một đường ánh sáng, chỉ thấy trong lùm cây cạnh chỗ Hải ngọng đứng, thấp thoáng một bóng đen đang quỳ, bóng đen đó đội chiếc mũ sắt M1 trên đầu, hắn đang định giằng co nhổm người dậy, dưới chiếc mũ sắt dường như là một khuôn mặt trắng bệch đến đáng sợ.
Tư Mã Khôi vô tình liếc mắt nhìn, trong phút chốc một luồng khí lạnh thổi thấu cả xương, anh giật nảy mình kinh hãi, đang đà chạy nhanh, chân không kịp thu lại, suýt chút nữa đâm bổ vào thân cây. Chẳng lẽ Tư Mã Khôi sợ ma? Anh là người bò ra từ đống thây người chết trên chiến trường. Từ khi nam tiến đến nay, ngày này qua ngày khác hành quân tác chiến nơi rừng sâu núi thẳm, nếu anh là người nhát gan một chút, thì chắc đã đứt dây thần kinh mà hóa điên, nhưng một người cho dù có gan góc, dũng cảm thế nào thì vẫn tồn tại một vài nhược điểm. Lúc này, anh nhìn thấy chiếc mũ sắt M1, mà cảm nhận được nỗi sợ dường như đang bò vào tận từng gióng xương.
Thì ra nỗi sợ của anh bắt nguồn từ sự ám ảnh khó quên trong quá khứ. Cục diện chiến trường Bắc Miến khi ấy vô cùng phức tạp, ở khu vực không nằm trong sự kiểm soát của quân đội, địa bàn chiếm cứ của các băng nhóm lực lượng vũ trang đan cài hình răng lược, trong đó có vài đội quân là cựu binh của Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, từ Trung Quốc chạy trốn sang Miến Điện, vào thời kỳ chiến tranh giải phóng, quân đội cộng sản Miến Điện gọi chúng là “bọn phỉ Tưởng”. Hội người này rất cục bộ, lại giỏi xuyên núi vượt non. Hơn nữa, tất cả đều là bọn cựu binh giảo hoạt già đời, kinh nghiệm tác chiến vô cùng phong phú, súng bắn cực chuẩn xác, người ngoài bất kể dùng kế mềm hay cách cứng đều chẳng thể lung lạc được chúng, bất kể là quân đội cộng sản hay quân đội chính phủ, kẻ nào ngáng chân, chúng giết kẻ nấy. Bình thường chúng sinh sống trong núi sâu, tự cung tự cấp, đôi khi lại chạy ra ngoài làm lính đánh thuê để kiếm tí tiền; đã ẩn trốn là ẩn liền một mạch hai mươi mấy năm, nhóm người này hình thành một dạng lực lượng vũ trang rất đặc thù ở Bắc Miến. Người Trung Quốc có mặt rất nhiều trong đội ngũ quân đội cộng sản, mà đại đa số đều là thành phần thanh niên trí thức đến từ Vân Nam. Thông thường họ đều chưa học qua bất kỳ khóa huấn luyện quân sự nào, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm người cũ dạy người mới; bình thường họ chỉ cần học qua cách sử dụng vũ khí hạng nhẹ và lựu đạn cầm tay là có thể xách vũ khí xông ra mặt trận. May mà năng lực chiến đấu của quân đội chính phủ cũng chẳng cao siêu gì, nên anh em chỉ cần dựa vào bầu nhiệt huyết sôi sục cũng có thể đánh nhau ngang ngửa với chúng. Những chú lính mới vận đen, vừa giao đấu với quân địch đã chạm phải nòng súng mà tử trận thì chả nói làm gì, nhưng còn những người mệnh lớn, sống dai một chút, sẽ học được rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu từ chiến tranh, đánh nhau nhiều thì kiến thức trận mạc cũng tự nhiên sẽ tăng lên theo từng ngày.
Tư Mã Khôi nằm trong thành phần này, nên đừng thấy anh còn trẻ tuổi mà coi thường. Anh đã đánh trận ở Miến Điện ngót nghét mấy năm, nên bảo anh là cáo già chốn sa trường thì cũng chẳng ngoa, vì chỉ nghe âm thanh pháo đạn rạch trời, là biết ngay nó có rơi xuống đầu mình hay không, lại nói lỡ gặp mai phục trong rừng, đánh cả ngày mà chẳng thấy bóng dáng của kẻ địch, nhưng chỉ cần nghe âm thanh vũ khí trên tay đối phương bắn ra, là có thể phán đoán được mình đang phải đối mặt với loại vũ khí nào. Quân đội chính phủ, súng ống tốt, pháo đạn cũng không tệ, nhưng khi bắn phá thì bừa bãi, mù quáng, chẳng thèm ngắm chính xác mục tiêu, nên sức chiến đấu cũng kém. Trong khi đó bọn phỉ Tưởng tuy số lượng không đông lắm, về cơ bản cũng chẳng có đạn pháo gì sất, súng ống cũng chỉ là loại phổ thông đời cũ, phương thức bắn phần lớn đều sử dụng kiểu bắn tỉa, đặc biệt rất giỏi trốn ở nơi tối bắn lén đối phương, vậy mà, xác suất bắn trúng lại cao đến kinh ngạc, nên chỉ cần tiếng súng vang lên thì chắc chắn nếu không phải bạn thì sẽ có đồng đội nào đó đứng cạnh bạn đổ cái rầm.
Lúc đó anh em rất rầu rĩ: “Nghĩ năm ấy quân đoàn hàng triệu người chúng ta oai hùng vượt sông lớn, ưu thế lấn lướt, tiến quân như chẻ tre, đánh bọn Quốc dân đảng tan tác như gió thu quét lá, kẻ địch chẳng dám bắn trả lấy một phát súng, sao bây giờ lũ tàn quân chạy xuống Miến Điện lại trở nên lợi hại thế nhỉ?” Về vấn đề đó họ nghĩ mãi đến tận giờ mà vẫn chưa thông, nhưng vì chịu thiệt nhiều thì kinh nghiệm chiến đấu cũng phải phong phú lên, cuối cùng họ tổng kết được một bài học: “Không gặp bọn phỉ Tưởng thì thôi, chứ lỡ gặp rồi thì không chết cũng thương nặng, chẳng mò được tí lời nào từ chúng, ta căn bản chẳng phải đối thủ của chúng.” Bọn họ đúng là sợ phỉ Tưởng sợ đến tận xương tủy.
Trong ấn tượng của Tư Mã Khôi, mãi tới bây giờ hình ảnh các kiểu thành viên vũ trang ở Miến Điện vẫn hiện lên trong đầu rất sống động, nhưng dường như chẳng ai trong số họ đội kiểu mũ sắt M1 của Mỹ. Loại mũ này mấy năm gần đây chỉ có bọn phỉ Tưởng đội mà thôi, có điều cũng rất ít hàng thật, đa số chỉ là hàng Tưởng nhái Mỹ, kiểu dáng nhang nhác, nhưng nhìn kỹ mới phát hiện có rất nhiều điểm khác biệt.
Bởi vậy, phản ứng đầu tiên của Tư Mã Khôi lại cứ ngỡ nó là thật: “Sợ cái gì chứ, chẳng ngờ lại gặp phải bọn phỉ Tưởng trong núi sâu này.” Anh không buồn lý giải thêm nữa, tóm lấy cơ hội bất ngờ ra tay, giơ tay lao mạnh con dao săn về phía cái bóng, con dao vừa vặn cắm đúng vào cổ nó, nhưng nơi lưỡi dao sắc cứa vào lại chặt đứt một sợi dây tử đằng, còn chiếc mũ sắt rơi lăn lóc xuống đất.
Tư Mã Khôi định thần nhìn kỹ lại, thấy trên cây cổ thụ nổi cộm lên một hình khối thực vật màu trắng giống như cây họ dền, hình thù kỳ dị, nó vừa vặn mọc đúng dưới chiếc mũ sắt. Sau khi nhìn rõ, Tư Mã Khôi thầm tự xấu hổ trong lòng, không ngờ anh lại bị thứ này dọa cho đứng tim.
Lúc này Tuyệt và Ngọc Phi Yến cũng đuổi đến sau lưng, hai người đỡ Tư Mã Khôi dậy, đồng thời nhặt chiếc mũ sắt lên xem, cả hai đều rất đỗi ngạc nhiên: “Vật này ở đâu ra thế nhỉ?” Tư Mã Khôi cũng lại gần nhìn, rồi bảo: “Không phải kiểu Tưởng, chiếc mũ này là M1 chính hãng của Mỹ đấy!” Anh chợt nhớ vết thương trên đầu Tuyệt cũng khá nặng, trong không gian hoàn toàn kín mít thế này, mà chiếc mũ sắt vẫn mới nguyên, không hề có chút han gỉ, anh liền phủi bùn đất dính phía ngoài, lau sạch rồi đội lên đầu Tuyệt.
Tuyệt thấy chiếc mũ sắt M1, đột nhiên nhớ ra một chuyện, cô lập tức giở cuốn nhật ký của ông nội Karaweik ra xem lại, chỉ vào một dòng trong đó rồi nói với Tư Mã Khôi: “Thì ra ám ngữ AAD xuất hiện trong chiếc máy bộ đàm không dây chiến thuật, chính là tên mã liên lạc của đoàn tác chiến công trình độc lập thứ sáu.”
Tư Mã Khôi liếc nhìn, thì quả đúng như vậy, không những thế, điều khiến người ta ngạc nhiên còn ở phía sau. Hải ngọng gọi mọi người lại xem thứ anh vừa phát hiện được, đó là một chiếc xe tải lớn loại mười bánh kiểu Dodge của Mỹ, có tải trọng khoảng sáu bảy tấn, bản thân nó cũng nặng tầm ba bốn tấn. Kiểu xe tải vận chuyển quân dụng đời cũ của Mỹ sản xuất này cũng thường thấy ở khu vực miền núi Miến Điện, năm đó, men theo đường viền của con đường Stilwell, rất nhiều chiếc xe đã bị đổ nhào xuống vực thẳm hoặc bị bom mìn phá nổ, đến nay người ta cũng không thể thống kê ra con số tổn thất chính xác.
Nhưng điều khiến hội Tư Mã Khôi cảm thấy khó lòng lý giải không phải ở bản thân chiếc xe, vì nếu suy đoán theo niên đại người Chăm Pa cổ xây dựng tòa thành bốn triệu bảo tháp, thì cánh rừng rậm nguyên sinh này ít nhất cũng phải đến hàng ngàn năm không nhìn thấy ánh mặt trời, vậy sao tự dưng lại mọc ra một chiếc xe tải đời cổ của thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai?
Mọi người giơ ngón tay tính đi tính lại, bây giờ là mùa hè năm 1974, còn quân Đồng minh tiến hành chiến dịch quy mô lớn ở Miến Điện, và những việc xảy ra sau năm 1941, chỉ cách thời điểm hiện tại một khoảng thời gian ngắn ngủi ba mươi mấy năm. Đương nhiên rất có khả năng trong ba mươi năm ấy, từng xảy ra một cơ duyên trùng hợp ngẫu nhiên nào đó, khiến nó xâm nhập vào sơn cốc núi Dã Nhân, nếu nới rộng phạm vi tư duy một chút, thì điều đó vẫn có thể giải thích được.
Những cây cổ thụ rợp trời trong cánh rừng rậm nguyên sinh, cây nào cây nấy cao to kềnh càng, cành lá xuề xòa vươn ra tứ phía, quấn quýt đan bện vào nhau, loằn ngoằn như rắn lượn. Giữa những cành cây khô là loài dây leo chằng chịt giăng mắc từ nơi này sang nơi khác, bủa vây không gian xung quanh chẳng khác gì thiên la địa võng, khiến con người đi bộ qua đó cũng cảm thấy vô cùng vất vả, đành phải tiến từng bước khó khăn, vậy thì làm sao lại có thể lái cả một chiếc xe tải, tổng trọng lượng lên tới mười tấn vào trong này được?
Ngay liền đó, mọi người còn phát hiện, phía sau chiếc xe tải kiểu Dodge khoảng vài mét, lại có một chiếc xe khác giống y như vậy, rồi men theo con đường, họ còn tìm thấy vô số xe tải Dodge trong tàn tích cánh rừng. Chúng dường như kéo dài đến vô tận, chiếc này nối tiếp chiếc khác.