Phần V- Hồi 6
Hồi thứ sáu: SƯƠNG MÙ
Mọi người nhất thời không kịp phản ứng, chẳng hiểu vì sao tòa tháp cổ lại có thể liên quan đến chiếc máy bay tiêm kích vận tải? Ngọc Phi Yến tranh hỏi trước: “Mấy lời anh nói ngọn nguồn bắt đầu từ đâu vậy?”
Tư Mã Khôi giải thích: “Trên thân mãng xà không phải là những chiếc vây ngắn, mà khả năng rất lớn là một loại ‘cánh’. Ban đầu, tôi cũng không nghĩ ra chi tiết này, nhưng từ hình dạng kỳ quái và những hoa văn họa tiết phù điêu hoa cỏ chi chít khắp thân tháp, có thể suy đoán, hình dạng của nó chẳng khác nào Udumbara; xem ra tòa tháp phong bế trong ngoài nhất thể, dường như tượng trưng cho sương mù xuất hiện dưới lòng đất. Còn hình con rắn quái dị có những cặp vây ngắn bò xuyên qua thân tháp, đây chẳng phải đang vẽ cảnh chiếc tiêm kích vận tải mang biểu tượng Rắn đen thâm nhập vào sơn cốc ư? Có thể tất cả những điều đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng Wilson - thành viên của đoàn thám hiểm Anh gặp nạn, nói không sai: Nghiên cứu về logic càng sâu, thì càng phải trân trọng sự ngẫu nhiên. Mọi truyền thuyết cổ xưa vừa thần bí vừa đáng sợ trong núi Dã Nhân đều không tách rời hai yếu tố - mãng xà và sương mù, nên hàm ý ẩn dụ mà tòa tháp xây kín mít kia tượng trưng có lẽ là: ‘Chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù’. Đây chính là ám hiệu của vương triều Chăm Pa để lại từ hàng ngàn năm trước.”
Ban đầu hội Ngọc Phi Yến nghe Tư Mã Khôi giải thích đều cảm thấy quá đỗi ly kỳ, nhưng nghe đến cuối cùng, thì lại thấy khá hợp tình hợp lý, chỉ e người cổ đại đúng thực đã để lại ám hiệu này cho hậu thế.
Tư Mã Khôi nói: “Đây chỉ là suy đoán chủ quan của bản thân tôi, vì vẫn còn rất nhiều tình tiết quan trọng không thể lý giải được. Nhưng luận điểm về chiếc tháp xây kín với ám thị tiên tri: chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù, thì có lẽ không thể sai được. Nấm mồ xanh - kẻ đã thuê đội thám hiểm mạo hiểm tiến vào sơn cốc - không rõ vì lý do gì, chắc cũng nắm được bí mật này, bởi vậy hắn mới sắp xếp kế hoạch hành động, lợi dụng máy bay tiêm kích vận tải chở bom địa chấn. Có điều, Nấm mồ xanh chắc cũng giống chúng ta, chỉ nhìn thấy ẩn số, chứ không rõ hàm ý thực sự của ẩn số đó, chính vì vậy nên hai chiếc tiêm kích vận tải bay vào sơn cốc mới lần lượt gặp phải tai nạn bất trắc.”
Hội Tư Mã Khôi vẫn còn nhớ trong cuốn băng ghi âm mà Karaweik phát hiện, đã ghi âm lại màn thảm kịch khi đoàn thám hiểm gặp tai nạn. Họ đáp chiếc Rắn đen II, bay vào sơn cốc, sau khi bị rơi xuống liền sử dụng đèn chiếu cường quang đặc chế để quan sát địa hình trong sương mù, chẳng ngờ ánh sáng đèn lại dẫn dụ một “vật thể sống” to lớn khác thường, nhanh chóng bò từ dưới vực thẳm lên, rồi liền ngay sau đó là tạp âm khủng bố giống như cành cây khô bị gẫy vụn vang lên từng đợt, cuối cùng vật thể lạ đó tấn công đội thám hiểm. Hội Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến khi bám vách đá cheo leo dựng đứng bò xuống đáy sơn cốc, thì sương mù đã bị mưa lớn áp chế hạ xuống thấp, hai người bọn họ cũng chẳng phát hiện thấy ai sống sót trong chiếc phi cơ, thậm chí ngay cả mảnh vụn của thi thể cũng không còn, dường như mọi người trong khoang máy bay đều tan biến vào sương mù vậy. Trong khi đó, lúc hội Tư Mã Khôi xuống đầm lầy, và tìm thấy tàn tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải mất tích hai mươi mấy năm trước; khi bắt đầu bước chân vào cánh cửa, màn sương mù chưa bị nước mưa xua tan, vẫn còn tích tụ ở khoang máy bay, dường như trong đám sương mù ấy tồn tại một sức mạnh đáng sợ không thể ngăn cản, nên xém chút nữa Tư Mã Khôi đã bị nó lôi tuột vào bên trong. Thế nhưng lúc đó, anh lại không hề nghe thấy âm thanh tạp âm chói tai, nên mãi đến tận bây giờ anh vẫn không thể giải thích nổi: vậy giữa khoảnh khắc ngắn ngủi đó, rốt cục mình đã gặp phải chuyện gì.
Giờ đây, mọi người đang đứng giữa những tòa tháp xây kín hoang phế trong ngôi chùa cổ, phát hiện nó ẩn chứa một ám hiệu bí mật, đó là: “chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù”. Chân tướng của ẩn số này rất khó phán đoán, có lẽ “rắn bay” quấn quanh thân tháp, chính là “vật thể sống” xuất hiện từ đám sương mù dày đặc và tấn công các thành viên của đội thám hiểm Anh. Sương mù bí ẩn do Udumbara sinh ra và con quái vật nằm rình mồi trong sương mù, chính là hai cánh cửa lớn khóa chặt bí mật cuối cùng của tòa thành Nhện Vàng.
Mọi người căn bản không thể tưởng tượng nổi con mãng xà mang theo vây ngắn ở hai bên mình, rốt cục là thứ gì, trên thế giới này chẳng lẽ lại từng tồn tại loài mãng xà có thể bay lượn trong sương mù? Con rồng trong truyền thuyết Trung Hoa cổ đại, cũng có thể vờn mây cưỡi gió, nhưng rốt cục nó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, chứ làm gì có ai đã tận mắt nhìn thấy?
Ngọc Phi Yến nói với Tư Mã Khôi: “Con quái xà luồn ra từ tháp kín, trên mình có ít nhất sáu, bảy cặp vây ngắn, cũng chưa hẳn là nguyên hình của một loài sinh vật nào đó. Bởi vì những sinh vật có thể dang cánh bay lượn trong thế gian, bất luận là côn trùng, loài chim, hay loài dơi, đều chỉ có nhiều nhất hai cặp cánh, nghĩa là bốn chiếc cánh, đây là quy luật khách quan của quá trình tiến hóa.”
Tư Mã Khôi nói, phàm chuyện gì cũng không thể tuyệt đối, lúc trước ai có thể nghĩ ở nơi sâu thẳm trong khe núi, lại sinh trưởng cây Udumbara to lớn dường vậy. Từ khi nó sinh cho đến lúc chết đi, vốn dĩ chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng hiện tượng đang xảy ra lúc này quá sức khác thường, các quy luật và phép tắc của tự nhiên dường như đều bị bóp méo; không chừng, trong sương mù quả thật còn tồn tại một thứ vượt xa phạm trù nhận thức của con người.
Trong suốt thời gian mọi người bàn luận, đám sương mù ở sau lưng dường như đã đậm đặc đến nỗi không thể nhìn thấy gì trong đó. Tuyệt nhắc nhở mọi người: “Chúng ta buộc phải tìm nơi ẩn thân ngay lập tức, bởi vì bất kể trong sương mù tồn tại vật thể gì, thì chắc chắn nó sắp xuất hiện rồi đấy.”
Tư Mã Khôi cũng nghe thấy từ nơi xa trong đám sương mù, xuất hiện một âm thanh “két két” rất chói tai, nghe như thể tiếng đóng mở của cánh cửa gỗ mục nát. Trong khi Udumbara sinh trưởng từ trong khe đá càng lúc càng nhiều, thì anh hiểu rõ thời gian chạy trốn càng lúc càng ít, nên không dám nấn ná lâu hơn, liền vội vàng hét gọi mọi người mau mau tháo chạy.
Nhưng, ở đây khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, tường đá, tháp đá đổ ngổn ngang khắp nơi, tàn tích rễ cây đan cài, quấn quýt vào nhau, hơn nữa mọi người lại ở trong hoàn cảnh tắt lửa tối đèn, sương khí mù mịt, chỉ dựa vào mỗi ngọn đèn halogen để tìm đường, thì đừng nói lúc này thời gian gấp gáp mà ngay cả trong tình huống bình thường, mò mẫm giữa đống đổ nát những cung điện đền chùa cổ này một hai ngày, cũng chưa chắc đã tìm thấy lối ra của mạch nước ngầm.
Lúc trước, Tư Mã Khôi thấy dòng nước tù ngập ngang đầu gối, từ từ hạ thấp và có xu hướng chảy về một nơi; lại thấy cổ thành và cả cánh rừng rậm nhiệt đới sau khi sụt xuống lòng đất đều được bảo tồn nguyên vẹn, liền ngẫm nghĩ gần đây chắc hẳn phải là vùng địa hình vòm cầu, mà địa tầng lòng núi sụt lở từ hơn một ngàn năm trước chính là phần mặt cầu, còn phía dưới của nó rất có khả năng là huyệt động hoặc khe nứt tương tự như hố ở dưới gầm cầu. Ở những khu vực có nước, sự sinh trưởng của Udumbara sẽ phải chịu sự hạn chế, mà nếu không có loài thực vật này, thì sẽ không xuất hiện sương mù; không có sương mù nghĩa là mọi người được an toàn. Bởi vậy anh cho rằng cần phải nhanh chóng tìm thấy lối ra của huyệt động dưới lòng đất, dẫu cho không có mạch nước, thì ít nhất cũng có thể đảm bảo trong khoảng thời gian nhất định sẽ không nguy hiểm đến tính mạng.
Chẳng ngờ, môi trường khắc nghiệt hạn chế tốc độ di chuyển, không những vậy sương khí lại lan tỏa rất nhanh, Tư Mã Khôi thấy cứ thế này thì không ổn, trong lòng biết rõ, cho dù mọi người cố gắng tranh thủ từng phút, cũng không thể kịp được. Anh nhìn địa hình xung quanh, thấy cách đó không xa có một tòa điện bằng đá, trước tường điện có một hàng cổng vòm đá, trong ngoài thông thoáng, bên trong có tượng thần bốn mặt, bốn tay, bèn giơ tay chỉ, bảo mọi người mau vào trong tránh nạn, rồi lách người vào theo. Thế nhưng, khi giơ đèn halogen lên quét một đường, thì thấy bức tường phía sau điện đã sớm sụp đổ từ bao giờ, con người căn bản chẳng thể ẩn nấp.
Bốn người không ngớt kêu ca, đang định quay đầu bước ra, đột nhiên lại nghe thấy trên bức tường vòng cung có tiếng “soạt soạt” khe khẽ. Tư Mã Khôi chiếu đèn vào trong tường đá xem xét, thì thấy một nhành Udumbara to như cổ tay đang từ khe ngói trên đỉnh đầu chui vào, và phun ra từng dòng sương khí mỏng tang. Lúc này ở phía sâu trong đám sương mù vọng lại tiếng động như thể cành khô gẫy vụn, âm thanh đó có vẻ như từ xa đang tiến lại gần. Rồi không đợi mọi người kịp phản ứng, chỉ thấy đột nhiên “soạt” một tiếng, một bóng đen rất dài từ trên không lướt vèo qua. Tuy mọi người đều chăm chú quan sát, nhưng chẳng ai thấy rõ đó là thứ gì, vì dường như nó dán vào vỏ bức tường, rồi lắc mình một cái là biến mất, còn bóng đen nhìn thấy trước mất chỉ là tàn dư của thị giác. Trên bức tường đá, nhành Udumbara cũng đã vỡ vụn thành một đám sương khí. Nói thì dài dòng, nhưng sự việc diễn ra vô cùng nhanh chóng, sao băng vụt lướt qua bầu trời, hay gió thổi điện giật có lẽ cũng không thể nhanh bằng, chỉ có thể nói nó vượt cả tốc độ của ánh sáng, nên mắt người dường như không thể theo kịp tốc độ di chuyển của nó; bởi chỉ thoáng một cái, tạp âm “cọt kẹt” kia đã cách xa đến mấy trăm mét.
Tư Mã Khôi kinh hãi đến cực độ: “Đây chính là quái vật trong sương mù rồi, có khả năng nó đang đi săn mồi, di chuyển nhanh như thể vút một cái là mất tăm dấu vết trên bầu trời; cứ cho là trên thế gian thực sự có loài mãng xà biết bay, thì chắc chắn cũng không thể bay nhanh đến vậy”.
Ý nghĩa trong đầu Tư Mã Khôi vẫn chưa kịp chuyển động, thì vật vừa lướt qua đỉnh đầu lại lượn một vòng nữa ở gian điện, và trong nháy mắt đã bay đến ngay trước mặt. Anh vội vàng ném chiếc đèn halogen trong tay ra xa, hòng đánh lạc hướng nó, nhưng chiếc đèn vừa tuột khỏi tay thì ánh sáng của nó gần như bị động tối nuốt chửng, lập tức tắt lịm giữa không trung. Hải ngọng đứng bên cũng cảm thấy nguy hiểm, đang định bóp cò khẩu súng săn nòng ngoại cỡ, nhưng trong lúc lúng túng thế nào lại chẳng ngắm chuẩn mục tiêu, nên cũng không biết đạn bay đi đằng nào.
Có câu: “Tiếng đạn chữa khỏi bách bệnh”, tuy mọi người đã sớm sức cùng lực kiệt, đi bộ mà hai cẳng chân gần như không thể trụ thẳng được nữa, nhưng khi thực sự đến thời khắc nguy cấp liên quan đến tính mạng, thì năng lực tiềm tàng trong tinh thần lại luôn có thể phút chốc vượt xa cực hạn chịu đựng của thể xác. Tư Mã Khôi cảm thấy tình hình không ổn, lập tức đẩy Hải ngọng đang đứng ở trong vòm cổng đá sang một bên, đồng thời cũng thuận đà nằm rạp sang bên cạnh. Động tác này hoàn thành gần như cùng lúc với thời điểm đèn chiếu tắt lịm và súng săn phát nổ, bởi sau đó mới nghe thấy tiếng đèn halogen rơi xuống mặt đất. Tuy tốc độ phản xạ của Tư Mã Khôi vô cùng thần tốc, nhưng vẫn chậm mất một bước, trong lúc Hải ngọng né tránh, thì cảm thấy có cái gì vụt quét qua hông một cái, giống như bị tảng băng lạnh buốt đâm xuyên thấu, giơ tay ra sờ thì thấy toàn là máu tươi, lúc đó anh mới cảm thấy như bị lửa thiêu đốt.
Thì ra Hải ngọng bị vật lướt nhanh như tia sét trong sương mù chạm một chút vào eo, vậy mà không ngờ ngay cả quần áo và da thịt đều bị xẻo mất một mảng, vết thương thành hình vòng cung, đều tăm táp, phút chốc máu trào ra như suối chảy.
Tuyệt và Ngọc Phi Yến đứng phía sau phát hiện đèn halogen phía trước đột nhiên vụt tắt, liền biết có chuyện xảy ra, hai cô vội rút ra hai quả lựu đạn phốt pho, loại lựu đạn này chẳng khác gì quả bom xăng, lúc nó bốc cháy, tuy rằng sản sinh ra màn khói dày đặc, nhưng trong khoảnh khắc, ánh sáng trắng của nó sẽ bốc lên chói lòa, khiến tứ phía trông như một vùng ánh tuyết.
Ngọc Phi Yến lập tức lấy bình tông đựng nước trên người xuống, rót toàn bộ chút nước sạch còn sót lại vào mấy nhánh Udumbara đang sinh sôi nảy nở trong khe đá, sau đó lại lấy thêm nước tù dưới lòng đất, tưới ướt sũng toàn bộ khu vực trong ngoài cửa điện. Đám sương khí từ đó cũng giảm dần, nhưng bên tai họ vẫn nghe âm thanh trong bóng tối di chuyển mau lẹ kinh người, nên biết rằng nó vẫn lảng vảng bay lượn đâu đấy xung quanh, nhưng không dám lại gần điện đá, nơi lượng sương mù đã trở nên yếu mỏng.
Tư Mã Khôi và Tuyệt nhờ ánh sáng nên có thể nhìn thấy Hải ngọng đang nằm vật ra đất, máu chảy lênh láng, vết thương có vẻ không nhẹ, hai người vội vàng chạy tới đỡ anh dậy. Hòm cứu thương mà Tuyệt tìm thấy trong máy bay của đội thám hiểm Anh, loại thuốc cấp cứu nào cũng có, trong đó có cả loại keo đặc cầm máu, có thể trực tiếp dán lên vết thương hở. Lúc này, chẳng thể suy tính gì thêm, cô lấy tất cả số keo trong hộp dán cả vào vết thương của Hải ngọng, lại giở băng gạc cuốn mấy vòng liền. Hì hục làm một hồi lâu, cuối cùng cô cũng đã cầm máu được cho anh.
Gương mặt La Đại Hải trắng bệch, đau đến nỗi các cơ trên mặt đều co rút, anh cúi đầu nhìn vết thương, gắng gượng nói cứng: “Vết thương bé tí này, mẹ nhà nó, chẳng khác nào gãi ngứa cho ông...” tuy nói vậy, nhưng trong lòng anh sợ đến tột cùng, thầm nghĩ: “Cái thứ chết tiệt này ít ra cũng phải xẻo của mình mất hai cân thịt, may mà Hải ngọng ta đây da cứng thịt dày, chứ không khéo ngay cả ruột cũng lòi ra ngoài chứ chẳng chơi”.
Lúc này Ngọc Phi Yến phát hiện cạnh bức tường đổ nát mọc lên nhánh Udumbara, khói trắng của lựu đạn phốt pho và sương mù chạm vừa vào nhau, thì từ đó rơi ra một vật hình dạng như thể con mãng xà lớn, lúc này nhìn kỹ lại, nó rõ ràng giống như loài sinh vật nhuyễn thể ruột khoang sống ở đáy biển, to như cái thùng nước, dài khoảng hơn hai mét, không vảy, không da, toàn thân gần như trong suốt, trông nó chẳng khác gì một ống thủy tinh lớn biết chuyển động, hai bên có những cặp vây ngắn, mọc đối xứng, sắc như lưỡi dao, chẳng thể phân biệt được phần nào là đầu, phần nào là đuôi, nó ngọ nguậy uốn éo, lắc mình rũ hết bùn đất trên người, định dang cánh bay, tần suất chuyển động của những chiếc vây ngắn tựa mái chèo xoắn ốc càng lúc càng mau, phát ra thứ tạp âm ồn ào như thể gỗ mục rạn nứt.