Hỏa ngục - Chương 045 + 046
Chương 45
Với lớp ván ốp bằng gỗ sồi và phần trần gỗ ấm áp, Sảnh Bản đồ thế giới giống như một thế giới tách biệt hẳn với nội thất bằng thạch cao và đá ốp khô cứng của Cung điện Vecchio. Ban đầu là gian phòng cất giữ mũ áo của tòa nhà, không gian rộng rãi này gồm hàng chục buồng nhỏ và tủ từng được sử dụng để cất giữ hành trang của Đại Công tước. Ngày nay, các bức tường được trang trí toàn bản đồ - năm mươi ba bức vẽ bằng tay trên da thuộc – mô tả thế giới theo nhận thức vào những năm 1550.
Bộ sưu tập bản đồ vô cùng ấn tượng của sảnh này còn nổi bật với sự hiện diện của một quả cầu khổng lồ ở chính giữa phòng. Vẫn được biết đến với tên gọi Mappa Mundi, trái cầu cao một mét tám này từng là quả cầu có thể quay được to nhất ở thời đại của nó. Người ta đồn rằng có thể xoay tròn nó dễ dàng chỉ bằng một ngón tay. Ngày nay, quả cầu là trạm dừng chân cuối cùng cho du khách sau khi đã đi hết chặng đường dài dằng dặc qua các phòng trưng bày và tới một lối cụt, nơi họ vây quanh quả cầu và ra về theo đúng lối họ đã vào.
Langdon và Sienna hổn hển chạy đến Sảnh Bản đồ. Trước mặt họ, Mappa Mundi đứng sừng sững, nhưng Langdon thậm chí không liếc mắt nhìn nó, anh hướng mắt tới những bức tường bên ngoài của gian phòng.
“Chúng ta cần tìm Armenia!”, Langdon nói. “Tấm bản đồ Armenia!”
Lúng túng thấy rõ trước yêu cầu của anh, Sienna lao bổ tới bức tường bên phải của gian phòng để tìm kiếm tấm bản đồ Armenia.
Langdon lập tức bắt tay vào việc tìm kiếm dọc bức tường bên trái, lần bước theo chu vi của gian phòng.
Ả Rập, Tây Ban Nha, Hy Lạp…
Mỗi quốc gia được khắc họa rất chi tiết, nếu như ta nhớ rằng các bức vẽ này được làm ra từ hơn năm trăm năm trước, ở một thời kỳ nhiều nơi trên thế giới còn chưa được vẽ trên bản đồ hoặc khám phá.
Armenia đâu nhỉ?
So với trí nhớ vô cùng chính xác của mình thì những gì Langdon còn nhớ được về “chuyến tham quan các lối đi bí mật” tại nơi này vài năm về trước rất mờ mịt, một phần do ly rượu Gaja Nebbiolo thứ hai mà anh uống trong bữa trưa ngay trước chuyến tham quan. Thật khéo thay, từ nebbiolo lại có nghĩa là “mờ sương”. Mặc dù vậy, lúc này Langdon vẫn nhớ đã được từng xem một tấm bản đồ duy nhất trong gian phòng này - Armenia – tấm bản đồ nắm giữ một đặc tính vô song.
Mình biết nó ở trong này, Langdon nghĩ, tiếp tục lướt nhìn dãy bản đồ dường như bất tận.
“Armenia!”, Sienna reo lên. “Đằng này!”
Langdon xoay lại và thấy cô đang đứng trong góc sâu bên phải của gian phòng. Khi anh chạy đến, Sienna chỉ vào tấm bản đồ Armenia với vẻ mặt như nói, “Chúng ta tìm thấy Armenia rồi, giờ làm sao?”
Langdon biết họ không có đủ thời gian để giải thích. Thay vào đó, anh chỉ vươn tay, nắm lấy phần khung gỗ rất lớn của tấm bản đồ, và kéo mạnh nó về phía mình. Toàn bộ tấm bản đồ trội tuột vào phòng, cùng với một phần bức tường và ván ốp, để lộ ra một lối đi bí mật.
“Được rồi”, Sienna nói, giọng đầy ấn tượng. “Armenia là đây.”
Không chút do dự, Sienna vội vã bước qua lối vào, chẳng chút e dè tiến vào không gian tối om phía trước. Langdon theo sau cô và nhanh chóng kéo bức tường đóng lại phía sau họ.
Mặc dù nhớ không rõ lắm về chuyến tham quan các lối đi bí mật, Langdon vẫn rất ấn tượng với lối đi này. Anh và Sienna vừa đi qua, đúng như vậy, lớp kính trong suốt để bước vào Cung điện Vô hình – cái thế giới bí mật tồn tại phía sau những bức tường của Cung điện Vecchio – một lãnh địa tối mật mà chỉ duy nhất vị công tước đương trị vì thời đó cùng những người thân cận nhất với ông ấy mới có thể tiếp cận được.
Langdon dừng lại một lúc bên trong khuôn cửa và làm quen với không gian xung quanh họ - một hành lang bằng đá lờ mờ nhờ ánh sáng tự nhiên yếu ớt lọt vào qua một loạt cửa sổ gắn chì. Lối đi này dẫn xuống dưới năm mươi thước tới một cánh cửa gỗ.
Anh xoay sang bên trái, nơi có cầu thang nhỏ đi lên nhưng bị chặn bằng một sợi xích. Tấm biển phía trên cầu thang để rõ:
USCITA VIETATA
Langdon leo thẳng lên cầu thang.
“Đừng anh!”, Sienna cảnh báo. “Nó nói ‘KHÔNG CÓ LỐI RA’ đấy.”
“Cảm ơn”, Langdon nói kèm theo một nụ cười chế giễu. “Anh đọc được tiếng Ý mà.”
Anh tháo sợi xích, mang trở lại cánh cửa bí mật và nhanh nhẹn dùng nó để buộc chặt bức tường xoay. Anh luồn sợi xích qua tay nắm cửa và quấn quanh một cái mấu cố định gần đó để cánh cửa không thể kéo mở ra từ phía bên kia được nữa.
“Ồ”, Sienna bẽn lẽn nói. “Ý tưởng hay đấy.”
“Nó không giữ chân bọn họ được lâu đâu”, Langdon nói. “Nhưng chúng ta sẽ không cần nhiều thời gian. Theo anh.”
Cuối cùng khi tấm bản đồ Armenia bị giật tung, đặc vụ Brüder cùng lính của gã tràn vào hành lang hẹp để đuổi theo, nhắm thẳng tới cánh cửa gỗ đầu bên kia. Khi cả bọn tràn ra ngoài, Brüder cảm thấy một luồng khí lạnh quất thẳng vào mặt, đồng thời lóa mắt vì ánh nắng chói chang.
Gã bước lên lối đi bên ngoài, len lỏi theo phần mái của cung điện. Mắt gã lần theo con đường dẫn thẳng tới một cánh cửa nữa, cách đó khoảng năm mươi thước, và lại chui vào trong tòa nhà.
Brüder đánh mắt về bên trái lối đi, nơi phần mái vòm cao ngất của Sảnh Năm trăm vươn lên như một trái núi. Không thể vượt qua. Giờ Brüder nhìn sang bên phải, nơi lối đi bám sát một vách tường dựng đứng chiếu thẳng xuống một giếng trời sâu hoắm. Chết ngay lập tức.
Mắt gã lại nhìn thẳng về phía trước. “Lối này!”
Brüder và người của gã tiến vội theo lối đi về phía cánh cửa thứ hai trong khi chiếc máy bay thám thính lượn vòng tròn như một con kền kền trên đầu.
Khi Brüder cùng người của gã xông qua cửa, tất cả dừng phắt lại, gần như xô thẳng vào nhau.
Họ đang đứng trong một gian phòng bằng đá nhỏ xíu không còn lối thoát nào khác ngoài cánh cửa mà cả bọn vừa bước qua. Chỉ có duy nhất một cái bàn gỗ dựa vào tường. Phía trên đầu, những hình người kỳ quái được mô tả trong các bức tranh vẽ trên trần như trợn mắt nhìn họ, vẻ giễu cợt.
Đây là một lối cụt.
Một người lính của Brüder tiến vội lên và đọc lướt bảng thông tin trên tường. “Khoan đã”, anh ta nói. “Nó nói có một finestra ở đây – một kiểu cửa sổ bí mật chăng?”
Brüder nhìn quanh nhưng chẳng thấy ô cửa sổ bí mật nào cả. Gã bước lại và tự mình đọc tấm bảng.
Rõ ràng nơi này từng là phòng làm việc riêng của Công nương Bianca Cappello và có một cửa sổ bí mật – una finestra segrata – để Bianca có thể ngầm quan sát chồng bà phát biểu bên dưới Sảnh Năm trăm.
Brüder đưa mắt tìm kiếm gian buồng một lần nữa, và nhận ra một lỗ hổng gắn lưới mắt cáo rất nhỏ được giấu kín ở bức tường bên. Chẳng lẽ bọn họ thoát qua lối đó?
Gã hùng hổ tiến lại và kiểm tra lỗ hổng, có vẻ quá nhỏ cho một người bằng cỡ Langdon chui qua. Brüder áp mặt vào tấm lưới và nhìn qua, để khẳng định chắc chắn rằng không có ai thoát qua đường này. Ở phía bên kia tấm lưới là một khoảng trống chạy thẳng qua vài tầng nhà, xuống sàn Sảnh Năm trăm.
Vậy thì bọn chúng biến đi đằng quái nào?!
Lúc quay lại gian buồng đá nhỏ xíu, Brüder cảm thấy toàn bộ tâm trạng chán chường của ngày hôm nay đang trào dâng trong lòng. Trong một khoảnh khắc hiếm hoi không tiết chế được cảm xúc, đặc vụ Brüder ngửa cổ và gầm lên một tiếng giận dữ.
Tiếng gầm làm inh tai trong không gian chật hẹp.
Từ phía dưới, trong Sảnh Năm trăm, đám du khách cùng sĩ quan cảnh sát đều ngoái nhìn lên lỗ hổng gắn lưới mắt cáo trên tường cao. Căn cứ vào những tiếng vọng lại, gian phòng làm việc riêng của Công nương giờ đang được dùng làm chuồng nhốt một con thú hoang.
Sienna Brooks và Robert Langdon đứng khuất trong bóng tối đặc quánh.
Mấy phút trước, Sienna nhìn thấy Langdon khôn ngoan dùng sợi xích để giữ chặt tấm bản đồ Armenia có thể di chuyển được, rồi mới chạy tiếp. Tuy nhiên, trước vẻ ngạc nhiên của cô, thay vì tiếp tục tiến vào hành lang, Langdon lại leo lên cầu thang dốc đứng đề biển:
KHÔNG CÓ LỐI RA
“Anh Robert!”, cô thì thào vẻ bối rối. “Tấm biển đó nói ‘Không có lối ra’ mà! Thêm nữa, em nghĩ chúng ta cần đi xuống!”
“Đúng thế”, Langdon nói, ngoái nhìn lại. “Nhưng đôi khi chúng ta cần đi lên… để đi xuống.” Anh nháy mắt khích lệ cô. “Em còn nhớ cái rốn của Satan không?”
Anh ấy đang nói chuyện gì nhỉ? Sienna bước lên theo anh, cảm thấy mất phương hướng.
“Em đã từng đọc Hỏa Ngục chưa?”, Langdon hỏi.
Rồi… nhưng em nghĩ lúc em bảy tuổi.
Một lúc sau, cô sực nhớ ra. “Ồ, cái rốn của Satan!”, cô nói. “Giờ em nhớ rồi.”
Phải mất một lúc lâu, nhưng giờ Sienna đã nhận ra Langdon đang nói đến đoạn kết trong Hỏa Ngục của Dante. Trong mấy khổ thơ này, để thoát ra khỏi địa ngục, Dante phải leo xuống cái bụng đầy lông lá của quỷ Satan, và khi tới được rốn của Satan – được xem là trung tâm của trái đất – thì lực hấp dẫn của trái đất đột ngột đổi hướng, và để tiếp tục leo xuống luyện ngục, Dante lại phải tìm cách leo lên.
Sienna chẳng nhớ gì mấy về Hỏa Ngục ngoài nỗi thất vọng khi chứng kiến những biến động đột ngột của lực hấp dẫn ở trung tâm trái đất, vì rõ ràng tài năng của Dante không bao gồm việc am hiểu về tính chất vật lý của các lực vector.
Họ lên đến đỉnh cầu thang, Langdon mở cánh cửa duy nhất họ thấy ở đó, trên cửa có ghi:
SALA DEI MODELLI DI ARCHITECTTURA (21).
(21) Sảnh Mô hình kiến trúc.
Langdon giục cô vào bên trong, đóng và chốt chặt cửa lại phía sau.
Gian phòng nhỏ hẹp và trống trơn, chỉ có vài cái hòm trưng bày các bản mẫu bằng gỗ những thiết kế kiến trúc của Vasari dành cho phần nội thất của cung điện. Sienna không hề để tâm lắm đến các bản mẫu này. Tuy nhiên, cô lại để ý thấy rằng gian phòng không hề có cửa lớn, cửa sổ và đúng như thông báo… không có lối thoát.
“Vào giữa thế kỷ XIV”, Langdon thì thào, “Công tước vùng Athens lên nắm quyền lực tại cung điện và cho xây lối thoát bí mật này phòng trường hợp bị tấn công. Nó được gọi là Cầu thang Công tước Athens, và dẫn xuống một cửa hầm nhỏ ở con phố bên cạnh. Nếu chúng ta đi được tới đó, sẽ không ai nhìn thấy chúng ta thoát ra”. Anh chỉ tay vào một bản mẫu. “Nhìn xem. Có nhìn thấy gì ở bên cạnh không?”
Anh ấy đưa mình lên đây để cho mình xem các bản mẫu sao?
Sienna ném một cái nhìn lo lắng vào mô hình thu nhỏ và thấy một cầu thang bí mật dẫn thẳng từ nóc cung điện xuống tận phố, được giấu kín giữa các bức tường bên trong và bên ngoài của tòa nhà.
“Em nhìn thấy cầu thang rồi, Robert”, Sienna gắt, “nhưng chúng hoàn toàn ở phía đối diện của cung điện. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tới được đó!”.
“Biết tin tưởng một chút đi em”, anh nói kèm theo một nụ cười méo xệch.
Có tiếng đổ vỡ đột ngột vọng lại từ bên dưới cho họ biết rằng tấm bản đồ Armenia vừa bị giật tung. Họ đứng như trời trồng trong khi lắng nghe tiếng bước chân của đám lính bước vào hành lang, không ai trong số đó nghĩ rằng con mồi của họ sẽ còn leo lên cao hơn nữa… đặc biệt lại theo một cầu thang nhỏ xíu có gắn biển:
KHÔNG CÓ LỐI RA
Khi những tiếng động phía dưới lắng đi, Langdon tự tin sải bước qua phòng trưng bày, lách qua các hiện vật, tiến thẳng đến thứ trông như một cái tủ lớn ở bức tường đằng kia. Cái tủ khoảng một mét vuông và ở vị trí cách sàn khoảng một mét. Không chút do dự, Langdon nắm lấy tay tủ và kéo mạnh cánh cửa ra.
Sienna sửng sốt.
Không gian bên trong có vẻ như một khoảng trống sâu, như thể cánh cửa tủ là một cánh cổng dẫn vào thế giới khác. Phía sau là một vùng tối đen.
“Theo anh”, Langdon nói.
Anh cầm lấy chiếc đèn pin duy nhất treo trên bức tường bên cạnh khung cửa. Sau đó, bằng sự nhanh nhẹn và mạnh mẽ đến ngạc nhiên, vị giáo sư nhấc mình chui qua lỗ hổng và biến mất trong cái hang thỏ ấy.
Chương 46
Tầng áp mái, Langdon nghĩ thầm. Tầng áp mái ấn tượng nhất trên trái đất.
Không khí bên trong khoảng trống tỏa ra toàn mùi bụi và cũ kỹ, như thể hàng thế kỷ bụi thạch cao giờ đây trở nên mịn và nhẹ đến mức không chịu nằm yên mà cứ lơ lửng trong không khí. Không gian rộng rãi ấy phát ra những tiếng cọt kẹt và rền rĩ, khiến Langdon có cảm giác mình vừa chui vào bụng một con thú đang còn sống.
Khi lấy được thăng bằng trên thanh vì kèo rộng bản, anh giơ đèn pin lên, để cho quầng sáng xuyên qua bóng tối.
Trải dài trước mắt anh là một đường hầm dường như bất tận chằng chịt một mạng lưới bằng gỗ gồm những hình tam giác và tứ giác hình thành từ vị trí giao cắt của những trụ, xà, vì kèo cùng nhiều thành phần kết cấu khác tạo thành bộ xương vô hình của Sảnh Năm trăm.
Phần không gian áp mái đồ sộ này là nơi Langdon từng xem xét trong chuyến tham quan các lối đi bí mật mà anh còn nhớ mang máng cách đây vài năm. Khuôn cửa sổ quan sát trông như chạn bát được khoét trong tường của một gian phòng trưng bày mô hình kiến trúc nên khách khứa có thể xem xét các mô hình vì kèo, sau đó soi đèn pin qua lỗ hổng và xem kết cấu thật.
Lúc này, Langdon đã ở bên trong phần xép áp mái, anh ngạc nhiên khi thấy cấu trúc vì kèo này rất giống cấu trúc một kho thóc cũ ở New England - một tập hợp trụ và vì kèo truyền thống với các mối nối kiểu “mũi tên của thần Jupiter”.
Sienna cũng đã trèo qua lỗ hổng và đứng thăng bằng trên một thanh rầm bên cạnh anh, thấy rõ là mất phương hướng. Langdon vung vẫy đèn pin ra trước và sau để cho cô thấy cảnh tượng hết sức đặc biệt.
Từ đầu bên này, nhìn xuyên suốt chiều dài của tầng áp mái chẳng khác gì nhìn qua một cái ống dài gồm những tam giác cân đang chĩa thẳng, hướng về một điểm mất hút xa vời nào đó. Dưới chân họ, tầng áp mái không hề có chỗ đặt chân, và các rầm đỡ nằm ngang của nó hoàn toàn lộ thiên, trông giống như cả loạt thanh tà vẹt đường sắt khổng lồ.
Langdon chỉ thẳng xuống đường ống hun hút chạy dài, nói bằng giọng cổ ghìm âm lại. “Không gian này nằm ngay phía trên Sảnh Năm trăm. Nếu chúng ta tới được đầu bên kia, anh biết cách tới được Cầu thang Công tước Athens.”
Sienna phóng ánh mắt đầy hoài nghi vào cái mê cung rầm và vì kèo trải rộng trước mặt họ. Lối đi duy nhất họ thấy rõ để vượt qua tầng áp mái chính là nhảy giữa các thanh giằng giống như bọn trẻ con vẫn làm trên các đường tàu hỏa. Các thanh giằng rộng bản, mỗi thanh đều gồm vài xà rầm bó lại với nhau bằng đai sắt lớn tạo thành một cụm chắc chắn, đủ rộng để đứng thăng bằng bên trên. Tuy nhiên, thử thách là ở chỗ khoảng cách giữa các thanh xà quá lớn khó có thể nhảy qua một cách an toàn.
“Em không thể nhảy giữa những thanh xà này được đâu”, Sienna thì thào.
Langdon cũng ngờ rằng chính anh khó lòng làm được, và một khi ngã xuống là cầm chắc cái chết. Anh soi cây đèn pin xuống khoảng trống giữa các thanh rầm chống.
Phía dưới họ hơn hai mét, treo lên các thanh sắt là một bề mặt nằm ngang phủ bụi dày – một kiểu sàn gì đó – mở rộng hút tầm mắt họ. Mặc dù trông nó có vẻ rất chắc chắn nhưng Langdon biết mặt sàn đó cơ bản gồm những giàn khung phủ bụi. Đây chính là “mặt sau” của phần trần treo trong Sảnh Năm trăm – một bề mặt gồm những nẹp gỗ làm khuôn cho ba mươi chín bức tranh của Vasari, tất cả được treo nằm ngang thành một dạng kết cấu giống như nhiều mảnh vải may ghép lại.
Sienna chỉ xuống bề mặt phủ bụi bên dưới hai người. “Chúng ta có thể leo xuống dưới kia và đi trên đó không?”
Không thể trừ khi cô muốn rơi qua một bức tranh của Vasari để lọt xuống Sảnh Năm trăm.
“Thực tế có một cách hay hơn”, Langdon bình tĩnh nói, không muốn làm cô sợ hãi. Anh bắt đầu di chuyển theo trụ chống về phía xương sống trung tâm của tầng áp mái.
Trong lần tham quan trước, ngoài việc ngó qua cái cửa sổ quan sát trong căn phòng mô hình kiến trúc, Langdon còn khám phá phần áp mái bằng chân, chui vào đây qua một khuôn cửa ở đầu bên kia của tầng áp mái. Nếu không bị rượu vang làm lu mờ trí nhớ thì Langdon chắc chắn có một lối đi vững chãi chạy dọc theo xương sống trung tâm của tầng áp mái, giúp du khách tiếp cận được một sàn quan sát rộng rãi ở chính giữa khu vực này.
Tuy nhiên, khi đến được trung tâm của trụ chống, Langdon tìm thấy một lối đi chẳng giống gì với lối anh còn nhớ được trong lần tham quan của mình.
Ngày hôm đó mình uống bao nhiêu Nebbiolo không biết?
Thay vì một kết cấu vững chắc phục vụ du khách, anh chỉ nhìn thấy một đống ván lỏng lẻo được đặt vuông góc ngang qua các thanh xà để tạo thành lối đi tạm bợ - giống sợi dây làm xiếc hơn là cây cầu.
Rõ ràng, lối đi vững chắc dành cho du khách, bắt nguồn từ đầu bên kia, chỉ dài tới sàn quan sát trung tâm mà thôi. Từ chỗ đó, du khách lại theo đúng dấu chân của mình quay lại. Còn cái xà thăng bằng trước mặt Langdon cùng Sienna lúc này chắc chắn được lắp để những người thợ có thể làm việc tại khu vực áp mái còn lại ở đầu bên này.
“Giống như chúng ta đang đi trên ván vậy”, Langdon nói, mắt nhìn những tấm ván hẹp với vẻ không lấy gì làm chắc chắn.
Sienna nhún vai, không hề lúng túng. “Cũng đâu có tệ hơn Venice vào mùa lụt.”
Langdon nhận ra cô có lý. Trong chuyến đi nghiên cứu gần đây nhất của anh tới Venice, Quảng trường St. Mark ngập sâu đến ba mươi centimet nước, và anh đã đi bộ từ khách sạn Danieli tới Vương cung Thánh đường trên những tấm ván gỗ kê trên các khối xỉ than và những cái xô úp ngược. Dĩ nhiên, khả năng làm ướt giày đế mềm rất khác với khả năng ngã xuyên qua một kiệt tác thời Phục Hưng rồi tử vong.
Langdon gạt mọi ý nghĩ ra khỏi tâm trí, bước lên tấm ván hẹp, cố tỏ ra quả quyết với hy vọng sẽ giúp trấn an cảm giác lo lắng mà Sienna đang cố giấu. Tuy nhiên, bất chấp bề ngoài tự tin, tim anh vẫn đập thình thịch khi di chuyển qua tấm ván đầu tiên. Lúc anh ra đến gần giữa, tấm ván oằn xuống dưới sức nặng của anh, kêu răng rắc. Anh bước nhanh chân hơn, và cuối cùng cũng tới được đầu kia tương đối an toàn trên trụ giằng thứ hai.
Langdon thở ra một hơi rồi quay lại để soi đèn sáng cho Sienna, định đưa ra mấy lời động viên cô. Nhưng rõ ràng cô không cần đến. Quầng sáng của anh vừa soi tỏ tấm ván, cô đã vượt qua hết chiều dài của nó với sự khéo léo tuyệt vời. Tấm ván gần như không oằn dưới thân hình mảnh mai của cô, và chỉ trong mấy giây cô đã có mặt bên anh ở đầu kia.
Như được khuyến khích, Langdon quay lại và tiếp tục tiến lên tấm ván tiếp theo. Sienna đợi cho tới khi anh đã qua hẳn và có thể quay lại chiếu sáng đèn cho mình rồi mới đi theo, bám sát anh. Bằng nhịp độ đều đặn, họ cứ đi tới. Hai bóng người lần lượt di chuyển dưới ánh sáng của cây đèn pin duy nhất. Đâu đó bên dưới họ, tiếng bộ đàm cảnh sát lạo xạo vọng lên qua lớp trần mỏng. Langdon thoáng mỉm cười. Chúng ta đang lượn lờ ngay bên trên Sảnh Năm trăm, không trọng lượng và vô hình.
“Anh Robert?”, Sienna thì thào. “Anh nói Ignazio bảo anh tìm chiếc mặt nạ ở đâu?”
“Ông ấy có dặn… nhưng dưới dạng một loại mật mã.” Langdon nhanh chóng giải thích rằng Ignazio rõ ràng không muốn hé lộ về vị trí của chiếc mặt nạ trong máy trả lời, và vì thế ông ấy chia sẻ thông tin theo một hình thức khó hiểu hơn. “Ông ấy nói đến thiên đường, anh cho rằng là một cách ám chỉ tới phần cuối của Thần khúc. Chính xác lời ông ấy là ‘Thiên đường Hai mươi lăm’.”
Sienna ngước nhìn lên. “Chắc chắn ý ông ấy là Khổ XXV.”
“Anh đồng ý”, Langdon nói. Một khổ thơ cơ bản tương tự với một Chương sách, từ này gợi nhớ lại truyền thống “hát” bằng miệng các thiên sử thi. Thần khúc chính xác gồm một trăm khổ thơ, được chia làm ba phần.
Hỏa Ngục có từ khổ I đến XXXIV
Luyện ngục có từ khổ I đến XXXIII
Thiên đường có từ khổ I đến XXXIII
Thiên đường Hai mươi lăm, Langdon thầm nghĩ, rất mong trí nhớ rành mạch của mình đủ mạnh để nhớ được toàn bộ phần nội dung. Mặc dù không giúp tìm ra chính xác, chúng ta vẫn phải tìm một bản sách.
“Còn nữa”, Langdon tiếp tục. “Điều cuối cùng Ignazio dặn anh là: ‘Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên’”. Anh ngừng lại, quay lại nhìn Sienna. “Khổ XXV có lẽ gợi ý cho một địa điểm cụ thể ở Florence này. Rõ ràng là một nơi nào đó có cổng.”
Sienna cau mày. “Nhưng thành phố này có đến hàng chục cổng.”
“Phải, đó là lý do tại sao chúng ta phải đọc Khổ XXV của Thiên đường.” Anh nhoẻn miệng cười đầy hy vọng với cô. “Nói gì thì nói, em cũng không thuộc toàn bộ Thần khúc có phải không?”
Cô lặng thinh nhìn anh. “Mười bốn nghìn dòng chữ Ý cổ mà em đọc khi còn là một đứa trẻ sao?” Cô lắc đầu. “Anh là một người có trí nhớ kỳ dị, giáo sư ạ. Còn em chỉ là một bác sĩ.”
Trong khi họ tiếp tục đi tới, Langdon cảm thấy hơi buồn vì sau tất cả những gì họ đã trải qua cùng nhau, Sienna rõ ràng vẫn muốn giữ kín sự thật về trí thông minh tuyệt vời của mình. Cô ấy chỉ là một bác sĩ thôi ư? Langdon bật cười khan. Cô nàng bác sĩ khiêm tốn nhất trên đời, anh nghĩ thầm, nhớ lại tập báo cáo mình đã đọc về những tài năng đặc biệt của cô. Tuy nhiên, dù rất tiếc nhưng không lấy gì làm lạ, tài năng ấy không bao gồm việc nhớ trọn vẹn một trong những trường ca dài nhất trong lịch sử.
Họ im lặng đi tiếp, vượt qua vài xà rầm nữa. Cuối cùng, Langdon nhìn thấy trong khoảng tối phía trước một hình khối khiến anh phấn chấn. Sàn quan sát! Tấm ván không lấy gì làm chắc chắn mà họ đang bước bên trên dẫn thẳng tới một kết cấu vững chãi hơn nhiều và có hẳn thành lan can. Nếu trèo lên cái sàn đó, họ có thể tiếp tục đi cho tới khi thoát khỏi tầng áp mái, qua cánh cửa, mà theo trí nhớ của Langdon, là rất gần Cầu thang Công tước Athens.
Đến gần sàn hơn, Langdon liếc nhìn xuống phần trần treo hơn hai mét bên dưới. Cho đến lúc này, các ô trần nhà phía dưới đều giống nhau. Tuy nhiên, ô trần phía trước rất lớn, lớn hơn nhiều so với những ô khác.
Bức lễ phong thánh của Cosimo I đây mà, Langdon đăm chiêu.
Ô trần hình tròn rất lớn này là bức vẽ quý giá nhất của Vasari – ô trần trung tâm của Sảnh Năm trăm. Langdon thường trình chiếu những hình ảnh của tác phẩm này cho sinh viên của mình, chỉ ra các chi tiết giống với bức Lễ phong thánh của Washington trong điện Capitol ở Hoa Kỳ - một tác phẩm khiêm nhường gợi nhắc rằng nước Mỹ non trẻ đã tiếp nhận nhiều thứ từ Ý chứ không chỉ khái nhiệm về một nền Cộng hòa.
Nhưng hôm nay, Langdon quan tâm đến việc vượt nhanh qua bức Lễ phong thánh hơn là nghiên cứu nó. Trong lúc tăng tốc độ di chuyển, anh hơi ngoái đầu lại để nói khẽ với Sienna rằng họ đã gần đến đó.
Vừa làm như vậy, bàn chân phải của anh lỡ đà nên không đặt đúng chính giữa tấm ván, chiếc giày đế mềm đi mượn của anh lệch ra ngoài mép một nửa. Anh bị lệch khớp mắt cá chân và chúi về phía trước, nửa ngã, nửa xô tới, cố gắng bước nhanh thêm một bước nữa để lấy lại thăng bằng.
Nhưng đã quá muộn.
Đầu gối anh va mạnh vào tấm ván, còn hai tay anh vươn hết cỡ một cách tuyệt vọng về phía trước, cố gắng bíu lấy thanh giằng. Chiếc đèn pin rơi lạch cạch xuống một khoảng trống tối om bên dưới, đập thẳng vào lớp vải toan, mắc vào đó như một tấm lưới. Chân Langdon lắc mạnh, vừa hay đẩy anh bám an toàn vào thanh giằng tiếp theo trong khi tấm ván trượt luôn xuống dưới, rơi mạnh lên phần khung gỗ bao quanh tấm toan bức Lễ phong thánh của Vasari sâu hơn hai mét phía dưới.
Tiếng động vang vọng khắp tầng áp mái.
Kinh hãi, Langdon lồm cồm bò dậy và quay lại phía Sienna.
Trong ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn pin bị rớt đang nằm trên lớp toan phía dưới, Langdon có thể nhìn thấy Sienna đang đứng trên thanh giằng phía sau mình, giờ đây bị mắc kẹt hẳn vì không còn cách nào vượt qua. Mắt cô nói rõ những gì Langdon đã biết. Tiếng động của tấm ván rơi chắc chắn đã tố giác bọn họ.
Mắt Vayentha hướng thẳng lên phần trần nhà lộng lẫy.
“Chuột trên tầng áp mái chăng?”, người đàn ông cầm máy quay bông đùa khi nghe tiếng động dội xuống.
Những con chuột rất to, Vayentha nghĩ bụng, ngước mắt nhìn bức tranh hình tròn ở chính giữa trần sảnh. Lúc này, một đám bụi nhỏ đang trút xuống từ giữa các khung tranh, và Vayentha có thể nhìn rõ một chỗ phình lên chút ít trên lớp toan, gần như thể có ai đó đang ấn nó xuống từ phía trên.
“Có lẽ một sĩ quan cảnh sát nào đó đánh rơi khẩu súng của anh ta từ sàn quan sát rồi”, người đàn ông nói, đưa mắt nhìn chỗ lồi trên bức vẽ. “Chị nghĩ họ đang tìm cái gì? Chuyện này xem ra rất thú vị.”thì
“Một sàn quan sát à?”, Vayentha hỏi lại. “Thực tế mọi người có thể lên trên đó à?”
“Chắc chắn rồi.” Anh ta làm hiệu về phía lối vào bảo tàng. “Ngay phía trong cánh cửa kia là một cái cửa dẫn thẳng lên lối đi trên tầng áp mái. Chị có thể nhìn thấy công trình vì kèo của Vasari. Thật phi thường.”
Tiếng Brüder đột ngột lại ầm vang khắp Sảnh Năm trăm. “Vậy thì họ biến đi đằng quái nào?”
Những lời nói của gã, cũng giống như tiếng gầm thống thiết của gã lúc trước, phát ra từ sau tấm lưới ở tít trên bức tường cao bên trái Vayentha. Rõ ràng Brüder đang ở trong một gian phòng sau tấm lưới cách đúng một tầng nhà bên dưới phần trần trang trí của gian phòng.
Mắt Vayentha lại hướng chỗ phình ra ở tấm toan trên đầu.
Đám chuột trên tầng áp mái, ả nghĩ thầm. Đang tìm kiếm một lối thoát.
Ả cảm ơn người đàn ông cầm máy quay và nhanh chóng tiếp cận vào bảo tàng. Cách cửa đã đóng, nhưng hiện giờ có rất nhiều cảnh sát ra vào, ả đoán rằng nó không hề khóa.
Quả thật, trực giác của ả đã đúng.