Lịch sử văn minh thế giới - Chương 02 + 03
Chương II: VĂN MINH ẤN ĐỘ:
I. Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ:
1. Điều kiện tự nhiên, dân cư:
Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía Bắc, bán đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở Tây -Bắc Ấn. Đông Nam và Tây Nam Ấn Độ giáp Ấn Độ dương.
Hàng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn.
Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại gồm cả vùng đất ở các nước Ấn Độ, Pakixtan, Nêpan, Bănglađét ngày nay.
Về cư dân, người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn là những người Đraviđa. Ngày nay những người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến 1500 năm TCN có nhiều tộc người Aria tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo Ấn. Sau này, trong quá trình lịch sử còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Arập, Mông Cổ xâm nhập Ấn Độ do đó cư dân ở đây có sự pha trộn khá nhiều dòng máu.
1.2. Các giai đoạn lịch sử chính:
Thời kì văn minh lưu vực sông Ấn (Khoảng 3000 năm đến 1500 năm TCN):
Đây là thời kì người Đraviđa đã xây dựng nên những nền văn minh đầu tiên ở lưu vực sông Ấn. Trước kia người ta cũng không biết nhiều về giai đoạn lịch sử này. Mãi đến năm 1920, nhờ phát hiện ra dấu tích hai thành phố cổ ở Harappa và Môhenjô Đarô người ta mới biết về nó. Ở đây, qua các di vật khảo cổ người ta có thể suy ra phần nào sự phát triển kinh tế, văn hoá, và đây là thời kì đã xuất hiện bộ máy nhà nước. Còn về lịch sử tương đối cụ thể của nó thì chưa biết. Người ta tạm đặt cho nó cái tên là nền văn hóa Harappa - Môhenjô Đarô. Có người gọi đây là nền văn minh sông Ấn.
Thời kì Vêđa (Khoảng 1500 năm TCN đến thế kỉ VI TCN):
Đây là thời kì những bộ lạc du mục người Aria từ Trung Á tràn vào xâm nhập Bắc Ấn. Thời kì này được phản ánh trong bộ kinh Vêđa cho nên được gọi là thời kì Vêđa. Đây là thời kì có hai vấn đề quan trọng ảnh hưởng lâu dài đến lịch sử Ấn Độ sau này: đó là vấn đề đẳng cấp (Vacna) và đạo Balamôn.
Giai đoạn từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII:
Từ thế kỉ VI TCN Ấn Độ mới có sử sách ghi chép. Lúc đó, ở miền Bắc Ấn có tới mười sáu nước trong đó vương quốc Mađaga ở hạ lưu sông Hằng là nước hùng mạnh nhất. Năm 327 TCN, Ấn Độ bị đội quân của Alêchxănđrơ xâm lược trong một thời gian ngắn.
Ấn Độ từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XIX:
Trong giai đoạn này, Ấn Độ bị người Apganixtan theo đạo Hồi xâm nhập, sau đó, thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII lại bị người Mông Cổ xâm lược. Người Mông Cổ đã lập ra ở đây triều Môgôn. Đến giữa thế kỉ XIX, Ấn Độ bị Anh xâm lược tới năm 1950 mới giành độc lập.
II. Những thành tựu chủ yếu của văn minh Ấn Độ:
2.1. Chữ viết, văn học:
Thời đại Harappa - Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng ba nghìn con dấu có khắc những kí hiệu đồ hoạ.
Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng ba mươi bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.
Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220 000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó.
Ramayana là một bộ sử thi dài 48 000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita. Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.
Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á - Âu.
2.2. Nghệ thuật:
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo.
Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới hai chín gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20 m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích họa rất đẹp.
Các công trình kiến trúc Hinđu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ VII - XI. Tiêu biểu cho các công trình Hinđu giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả tám lăm đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.
Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII.
2.3. Khoa học tự nhiên:
Về Thiên văn, người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm mười hai tháng, mỗi tháng có ba mươi ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau năm năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận.
Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học.) Họ đã tính được căn bậc hai và căn bậc ba; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa ba cạnh trong một tam giác. Pi = 3,1416.
Về Vật lý, người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “... Trái Đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”.
Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “Y học toát yếu” và “Luận khảo về trị liệu”.
2.4. Tư tưởng, tôn giáo:
Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như đạo Balamôn, đạo Phật, đạo Jain và đạo Xích.
2.4.1. Đạo Balamôn ra đời vào khoảng thế kỉ XV TCN, trong hoàn cảnh đang có sự bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng đó.
Đạo Balamôn không có người sáng lập, không có giáo chủ. Đạo Balamôn thờ thần Brama (thần Sáng tạo), Visnu (thần Bảo vệ), Siva (thần Hủy diệt, có hủy diệt cái cũ thì mới có thể sáng tạo cái mới)... Về mặt xã hội, đạo Balamôn là công cụ để bảo vệ chế độ đẳng cấp. Giáo lý quan trọng nhất của đạo Balamôn là thuyết luân hồi mà sau này nhiều tôn giáo khác chịu ảnh hưởng. Trong quá trình phát triển, đạo Balamôn có thể chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn Vêđa (thế kỉ XV TCN - thế kỉ V TCN), giai đoạn Balamôn (thế kỉ V TCN - đầu CN), giai đoạn Hinđu (đầu CN - nay).
2.4.2. Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Lịch Phật, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. (Vì vậy, những người châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những người theo đạo Thiên chúa).
Giáo lý cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điền suy xét kì diệu):
• Khổ đế (suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo).
• Nhân đế - Tập đế (nguyên nhân của sự khổ là dục - lòng ham muốn).
• Diệt đế (con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo).
• Đạo đế (con đường để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo).
Đức Phật còn đề ra tám con đường chính trực để tu hành - Bát chánh:
• Chánh kiến: Phải có tín ngưỡng đúng đắn.
• Chánh tư duy: Phải có suy nghĩ đúng đắn.
• Chánh ngữ: Phải có lời nói đúng.
• Chánh nghiệp: Phải có hành động đúng.
• Chánh mệnh: Phải có cuộc sống đúng đắn.
• Chánh tinh tiến: Phải có những ước mơ đúng đắn.
• Chánh niệm: Phải có những điều tưởng nhớ đúng đắn.
• Chánh định: Phải tập trung tư tưởng mà suy nghĩ.
Đạo Phật còn đề ra Ngũ giới:
• Bất sát sinh: Không giết hại các động vật.
• Bất đạo tặc: Không trộm cướp.
• Bất vọng ngữ: Không nói dối.
• Bất tà dâm: Không tham vợ hay chồng của người khác.
• Bất ẩm tửu: Không uống rượu.
Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên khởi. Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô ngã, Vô thường.
Vô tạo giả quan niệm, thế giới này không do một đấng tối cao nào tạo ra, tự nhiên mà có và vô cùng vô tận. Như vậy là đạo Phật không dựa vào một đấng tối cao nào để giải thích về sự xuất hiện thế giới như các tôn giáo khác.
Vô ngã cho là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là tập hợp của Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài.
Vô thường cho là vạn vật trong thế giới này biến đổi không ngừng, không có gì là vĩnh cửu cả.
Qua những giáo lý ban đầu của đạo Phật như vậy, ta thấy lúc đầu đạo Phật chỉ là một triết lí về nhân sinh quan. Đạo Phật sơ khai lúc đầu không thờ bất cứ một vị thần thánh nào. Ngay cả Phật tổ Sakya Muni cũng không tự coi mình là thần thánh. Tuy Phật tổ Sakya Muni có tổ chức các tăng đoàn Tỳ Kheo (đoàn thể những tăng lữ khất thực) để đi truyền bá đạo Phật ở khắp nơi nhưng đó không phải là một tổ chức tôn giáo có hệ thống chùa tháp như ngày nay.
Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ đẳng cấp gây ra, thì đạo Phật lại chủ trương không phân biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng thương người (từ bi hỉ xả), tránh điều ác, làm điều thiện. Những lời kêu gọi sự công bằng, lòng nhân đức đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng.
2.4.3. Đạo Jain - Kỳ Na cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI TCN. Đạo này chủ trương bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
2.4.4. Đạo Sikh - Xích xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lý của đạo Xích có sự kết hợp giáo lý của đạo Hinđu và giáo lý của đạo Islam. Tín đồ đạo Xích tập trung rất đông ở bang Punjap và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjap.
Chương III: VĂN MINH TRUNG QUỐC:
I. Cơ sở hình thành nền văn minh Trung Hoa:
1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư:
Lãnh thổ Trung Quốc ngày nay rộng mênh mông nhưng Trung Quốc thời cổ đại nhỏ hơn bây giờ nhiều. Địa hình Trung Quốc đa dạng, phía Tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.
Trong hàng ngàn con sông lớn nhỏ ở Trung Quốc, có hai con sông quan trọng nhất là Hoàng Hà và Trường Giang (Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng Tây- Đông và hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.
Trung Quốc gồm nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa - Hạ. Người Hoa ngày nay tự cho tổ tiên họ gốc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay (dân núi Hoa sông Hạ).
Trong gần một trăm dân tộc hiện sinh sống trên đất Trung Quốc ngày nay, có năm dân tộc đông người nhất là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng.
1.2. Sơ lược lịch sử:
Con người đã sinh sống ở đất Trung Quốc cách đây hàng triệu năm. Dấu tích người vượn ở hang Chu Khẩu Điếm (gần Bắc Kinh) có niên đại cách đây hơn 500 000 năm. Cách ngày nay khoảng hơn 5000 năm, xã hội nguyên thủy ở Trung Quốc bước vào giai đoạn tan rã, xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời.
Giai đoạn đầu, lịch sử Trung Quốc chưa được ghi chép chính xác mà chỉ được chuyển tải bằng truyền thuyết. Theo truyền thuyết, các vua đầu tiên của Trung Quốc là ở thời kì Tam Hoàng (Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông) và Ngũ Đế (Hoàng đế, Cao Dương đế, Cốc đế, Nghiêu đế, Thuấn đế). Theo các nhà nghiên cứu, thực ra đây là giai đoạn cuối cùng của thời kì công xã nguyên thuỷ.
1.2.1. Thời Tam đại ở Trung Quốc trải qua ba triều đại:
Nhà Hạ từ khoảng thế kỉ XXI - XVI TCN.
Nhà Thương (còn được gọi là Ân - Thương) từ thế kỉ XVI - XI TCN.
Nhà Chu về danh nghĩa từ thế kỉ XI - III TCN, nhưng thực chất nhà Chu chỉ nắm thực quyền từ thế kỉ XI TCN đến năm 771 TCN (thời Tây Chu). Còn từ năm 771, (sau loạn Bao Tự) đến năm 221 TCN, Trung Quốc ở vào thời loạn. Giai đoạn lịch sử này được ghi lại trong hai bộ Xuân thu sử và Chiến quốc sách.
1.2.2. Thời phong kiến:
Nhà Tần (221-206 TCN): Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng đánh bại các nước khác thời Chiến quốc, thống nhất đất nước, tạo điều kiện thống nhất chữ viết, đo lường, tiền tệ.
Nhà Hán (206 TCN - 220): Lưu Bang lập nên nhà Hán. Giai đoạn đầu, nhà Hán đóng đô ở phía tây Trung Quốc - Tây Hán. Sau loạn Vương Mãng, nhà Hán dời đô sang phía Đông - Đông Hán.
Thời Tam quốc (220 - 280): đây là thời kì Trung Quốc bị chia xẻ ra làm ba nước Ngụy, Thục, Ngô.
Nhà Tấn (265 - 420): Năm 265, cháu Tư Mã Ý (tướng quốc nước Ngụy) là Tư Mã Viêm bắt vua Ngụy phải nhường ngôi, lập ra nhà Tấn.
Nam - Bắc triều (420 - 581): Thời kì này, Trung Quốc lại chia làm hai triều đình riêng biệt, đến năm 581 Dương Kiên mới thống nhất lại được.
Nhà Đường (618 - 907): đây là thời kì phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc.
Thời kì Ngũ đại - Thập quốc (907 - 960): hơn năm mươi năm này lại loạn lạc, ở miền Bắc có năm triều đại kế tiếp nhau tồn tại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Tần, Hậu Chu). Ở miền Nam chia thành chín nước đó là: Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Tiền Thục, Hậu Thục, Nam Hán, Sở Mãn, Nam Bình, (và một nước nữa chưa rõ tên).
Nhà Tống (960 - 1279): Giai đoạn đầu nhà Tống đóng đô ở phía Bắc (Bắc Tống), sau bị bộ tộc Kim tấn công quấy phá phải chạy về phía Nam (Nam Tống). Đến năm 1279 thì bị nhà Nguyên diệt.
Nhà Nguyên (1279 - 1368): Sau khi diệt Tây Hạ, Kim, Nam Tống, Hốt Tất Liệt thống nhất toàn bộ Trung Quốc và lập ra nhà Nguyên.
Nhà Minh (1368 - 1644): Năm 1368, Chu Nguyên Chương đã lãnh đạo người Hoa khởi nghĩa lật đổ ách thống trị của nhà Nguyên, lập ra nhà Minh.
Nhà Thanh (1644 - 1911): Người Mãn vốn là một nhánh của tộc Nữ Chân, năm 1636 họ lập nước Thanh. Năm 1644, nhân sự loạn lạc ở vùng Trung Nguyên, người Mãn đã kéo quân vào đánh chiếm Bắc kinh, lập ra triều đại cuối cùng của phong kiến Trung Quốc.
II. Những thành tựu chủ yếu của văn minh Trung Hoa:
Trung Quốc là một trong những nơi xuất hiện nền văn minh sớm thời cổ - trung đại. Văn minh Trung Hoa thời cổ - trung đại có ảnh hưởng rất lớn tới các nước phương Đông.
2.1. Chữ viết, văn học, sử học:
Chữ viết:
Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa, xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện.
Văn học:
Kinh thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân - Thu, được Khổng tử sưu tập và chỉnh lý. Kinh thi gồm có ba phần: Phong, Nhã, Tụng.
Thơ Đường là thời kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả nổi bật lên ba nhà thơ lớn đó là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Tới thời Minh - Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần... trong đó Hồng lâu mộng được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.
2.2. Sử học:
Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân - Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu.
Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác Phẩm Sử kí, chép lại lịch sử Trung Quốc gần ba nghìn năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.
Tới thời Đông Hán, có các tác phẩm Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp.
Tới thời Minh - Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ khố toàn thư là những di sản văn hóa đồ sộ của Trung Quốc.
2.3. Khoa học tự nhiên và kỹ thuật:
Toán học:
Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện cuốn Chu bễ toán kinh, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa ba cạnh trong một tam giác vuông.
Thời Đông Hán, đã có cuốn Cửu chương toán thuật, trong sách này đã nói đến khai căn bậc hai, căn bậc ba, phương trình bậc nhất, đã có cả khái niệm số âm, số dương.
Thời Nam - Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó.
Thiên văn học:
Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới tám trăm vì sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can - Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời. Thế kỉ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất.
Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII.
Y dược học: Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời Minh có cuốn Bản thảo cương mục của Lí Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữ Latinh và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc.
Kỹ thuật:
Có 4 phát minh quan trọng về mặt kỹ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ.
Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỉ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng.
2.4. Hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc:
Hội hoạ:
Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thủy mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tuỳ.
Điêu khắc:
Ở Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.
Kiến trúc:
Cũng có những công trình rất nổi tiếng như Vạn lí trường thành (tới 6700 km), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.
2.5. Triết học, tư tưởng:
Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành, Âm dương gia:
Âm dương, bát quái, ngũ hành, là những thuyết mà người Trung Quốc đã nêu ra từ thời cổ đại để giải thích thế giới. Họ cho rằng trong vũ trụ luôn tồn tại hai loại khí không nhìn thấy được xâm nhập vào trong mọi vật là âm và dương (lưỡng nghi).
Bát quái là tám yếu tố tạo thành thế giới: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm), Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (hồ). Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất.
Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Đó là năm nguyên tố tạo thành vạn vật. Các vật khác nhau là do sự pha trộn, tỉ lệ khác nhau do tạo hóa sinh ra. Sau này, những người theo thuyết Âm dương gia đã kết hợp thuyết Âm dương với Ngũ hành rồi vận dụng nó để giải thích các biến động của lịch sử xã hội.
Về tư tưởng:
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều những nhà tư tưởng đưa ra những lí thuyết để tổ chức xã hội và giải thích các vấn đề của cuộc sống (Bách gia tranh minh).
Nho gia:
Đại biểu cho phái Nho gia là Khổng Tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề cao Tam cương, Ngũ thường, cùng với tư tưởng Chính danh định phận và đề cao tư tưởng Thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người.
Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo.
Đạo gia:
Đại biểu cho phái Đạo gia là Lão Tử và Trang Tử. Hai ông đã thể hiện tư tưởng của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Theo Lão Tử, “Đạo” là cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Quy luật biến hóa tự thân của mỗi sự vật ông gọi là “Đức”. Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát triển và suy vong đều có mối liên hệ với nhau.
Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại “đạo trời”, từ đó sinh tư tưởng an phận, lánh đời.
Phái Đạo giáo sinh ra sau này khác hẳn Đạo gia, mặc dù có phái trong Đạo giáo tôn Lão Tử làm “Thái thượng lão quân”. Hạt nhân cơ bản của Đạo giáo là tư tưởng thần tiên. Đạo giáo cho rằng sống là một việc sung sướng nên họ trọng sinh, lạc sinh.
Pháp gia:
Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương “pháp trị”, coi nhẹ “lễ trị”. Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sĩ thời Tần Thủy Hoàng.
Theo Hàn Phi Tử, trị nước chỉ cần pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu với mọi người, không cần lễ nghĩa. Ông cho rằng trị nước cần nhất ba điều:
• Pháp: đó là phải định ra được pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu, công bằng với mọi người, không phân biệt đó là quý tộc hay dân đen.
• Thế: Muốn thực thi pháp luật thì các bậc quân vương phải nắm vững quyền thế, không chia xẻ cho kẻ khác.
• Thuật: đó là thuật dùng người. Thuật có ba mặt: Bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ vào tài năng và lòng trung thành, không cần dòng dõi, đức hạnh. Khảo hạch là phải kiểm tra công việc thường xuyên. Thưởng phạt thì chủ trương “ai có công thì thưởng, ai có tội thì trừng phạt thật nặng, bất kể là quý tộc hay dân đen”, trọng thưởng, trọng phạt.
Mặc gia:
Người đề xướng là Mặc Tử (Khoảng giữa thế kỉ V TCN đến giữa thế kỉ IV TCN). Hạt nhân tư tưởng triết học của Mặc gia là nhân và nghĩa.
Mặc Tử còn là người chủ trương “thủ thực hư danh” (lấy thực đặt tên). Tư tưởng của phái Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng không ít ảo tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau, ảnh hưởng của phái Mặc gia hầu như không còn đáng kể.