Việc máu - Chương 45 + 46 + 47 (Hết)

45

McCaleb vừa lái xe dọc những con đường rải sỏi trên triền đá phía trên làng Playa Grande vừa săm soi từng căn nhà cố định, mỗi căn nhà lưu động mà mình đi qua, tìm dấu hiệu không thể nhầm lẫn của mạng điện thoại hay đĩa vi ba gắn trên mái. Ông mở hết cửa sổ xe và mỗi lần gặp một cơ ngơi khớp với mô tả, ông lại tấp xe lại gần, tắt máy, lắng nghe.

Không có nhiều cơ ngơi tại đây được nối kết với thế giới bên ngoài bằng điện thoại hay sóng radio. McCaleb cho rằng hầu hết dân sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh thế này chủ ý chọn vậy là vì họ không cần sự nối kết đó. Họ là người nước ngoài và dân sống ẩn dật, những người muốn tách lìa khỏi phần còn lại của thế giới. Lại một lý do khác để Crimmins chọn nơi này.

Có hai lần người ta ra khỏi nhà hỏi McCaleb xem ông muốn gì. Ông đưa mấy tấm ảnh cho họ xem nhưng họ đều nói không biết. Ông xin lỗi đã làm phiền họ rồi đi tiếp.

Cho đến khi mặt trời đã xuống mấp mé chân trời, ông bắt đầu đâm ra tuyệt vọng. Không có ánh sáng ban ngày thì ông biết mình sẽ không thể tìm kiếm được nữa. Ông sẽ phải dừng lại từng nhà một, nếu không thì đợi sáng mai. Nếu đợi thì ông sẽ để mặc Graciela và Raymond một mình đâu đó suốt đêm, không có đồ ăn thức uống và ánh sáng, có khi còn không có gì sưởi ấm, khiếp sợ, bị trói hoặc bị giam bằng cách nào đó.

Ông tăng tốc rồi nhanh chóng đi qua một công viên gồm toàn nhà lưu động, chỉ dừng lại một lần để đưa mấy tấm ảnh cho một bà già ngồi nơi hiên trước một căn nhà lưu động cũ nát xem. Bà ta lắc đầu trước mấy tấm ảnh, thế là ông đi tiếp.

Cuối cùng, khi mặt trời đã lặn và bầu trời còn lưu giữ chút ánh sáng ban ngày còn lại, ông đi ngang qua một con đường nhỏ dành cho ô tô lát vỏ sò đập vụn dẫn lên một cái gò nhỏ rồi khuất khỏi tầm mắt. Một cái cổng chắn ngang con đường đó, trên có đề Không được qua bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh. McCaleb xem xét cánh cổng một hồi thì thấy nó được cột lại chỉ bằng một đoạn dây kim loại ngắn tròng qua bản lề. Ông ra khỏi xe, kéo đoạn dây ra rồi mở cổng.

Khi đã lên tới cái gò đầu tiên, McCaleb thấy con đường nhỏ dẫn đến một căn nhà lưu động nằm trên gò bên cạnh. Linh cảm đau đáu bắt đầu rộn lên trong ngực ông khi ông nhìn thấy cái đĩa nhỏ lắp trên mái nhà phẳng. Khi lại gần, ông thấy không có chiếc xe nào đỗ dưới nhà để xe bằng nhôm. Ông cũng nhận thấy cái nhà kho nhỏ kiểu Quonset phía sau nhà, gần một hàng rào cũ. Trên một số cọc rào có úp những chai lọ, như để làm đích tập bắn.

Tiếng lốp xe chiếc Cherokee siết lên những vỏ sò đập vụn làm tiêu tan mọi khả năng lại gần một cách êm thắm. Nó cũng tước luôn khỏi McCaleb cơ hội lắng nghe chừng nào ông chưa dừng xe.

Ông tấp xe vào nhà để xe rồi dừng lại. Ông tắt khóa xe rồi ngồi bất động lắng nghe. Chỉ im lặng trong hai giây, rồi thì ông nghe thấy. Âm thanh đó bị lớp ván nhôm của căn nhà lưu động làm nghẹt lại, nhưng ông có nghe thấy. Tiếng điện thoại reo bên trong căn nhà. McCaleb nín thở lắng nghe điện thoại reo mãi, reo mãi cho đến khi ông biết chắc. Ông thở hắt ra và cảm thấy tim mình như nhảy thốc lên. Ông biết mình đã tìm ra hai dì cháu.

Ông ra khỏi xe, lại gần cửa căn nhà lưu động. Điện thoại vẫn reo, cho đến khi ông dừng xe đến giờ ít nhất cũng mười lần rồi. Ông biết nó sẽ kêu mãi chừng nào ông chưa vào trong nhà đặng trả lời hoặc chưa có ai liều vào trong buồng điện thoại ở trạm Pemex mà gác ống nói.

Ông thử mở cửa thì thấy cửa khóa. Dùng xâu chìa khóa lấy trong túi quần Crimmins, ông thử mấy lần cho đến khi mở được cửa. Ông bước vào trong căn nhà lưu động im ắng và ấm áp, nhìn quanh cái nơi dường như là một phòng khách nhỏ. Mành cửa kéo kín mít nên căn phòng tối om ngoại trừ ánh sáng hắt ra từ một màn hình vi tính đặt trên cái bàn kê sát vách bên phải. McCaleb quờ tay lên vách bên trái cửa thì tìm thấy công tắc đèn. Ông bật công tắc và căn phòng sáng rõ lên.

Nó rất giống cái nhà kho ông phát hiện được ở Los Angeles, chật ních những máy vi tính và đồ nghề thiết bị. Có một khoảnh nhỏ để ngồi, hẳn được dành riêng để nghỉ ngơi thư giãn. Chẳng có cái gì trong đó khiến McCaleb bận tâm. Ông không thèm để ý nữa. Ông đến chỉ vì hai lý do duy nhất.

Ông bước hẳn vào căn nhà rồi gọi to.

“Graciela ơi! Raymond ơi!”

Chẳng có tiếng trả lời. Ông nghĩ đến điều Crimmins nói, rằng họ đang ở trong một cái hố đen. Ông quay lại nhìn ra khỏi cửa, dõi mắt nhìn khắp quang cảnh hoang vắng. Ông thấy cái nhà kho kiểu Quonset, liền cất bước về phía đó.

Ông dùng phần dưới lòng bàn tay đập mạnh vào cánh cửa bị khóa bằng khóa móc, tiếng động rầm rầm vang vọng bên trong nhưng không có tiếng trả lời. Ông lóng ngóng rút xâu chìa khóa ra lần nữa, hối hả thọc chiếc chìa khóa nhỏ trên có khắc logo Master Lock vào ổ khóa. Cuối cùng, ông mở toang cánh cửa và bước vào trong bóng tới. Nhà kho trống rỗng và McCaleb cảm thấy bên trong mình như bị xé.

Ông xoay người và cố xốc lại tinh thần nơi ngưỡng cửa, mắt ông cúi gằm trong khi tâm trí ông tràn ngập hình ảnh Graciela và Raymond, hai dì cháu choàng tay ôm chặt nhau, trong bóng tối như mực ở nơi nào đó.

Chính khi ấy ông nhìn thấy nó. Trên con đường rải vỏ sò đập vụn dành cho ô tô trước mặt ông có một khoảnh trũng xuống cắt ngang hai vệt bánh xe. Có một lối mòn cắt qua con đường, dẫn về phía triền đồi thoai thoải. Nom như thể phía ấy chẳng có gì, thế nhưng có ai đó đã đi về phía ấy nhiều lần đủ để tạo thành lối mòn cắt ngang con đường.

Ông tiến theo lối mòn ấy, ban đầu xoạc cẳng bước, rồi nhanh dần lên thành chạy hết tốc lực. Ông lên đến triền đồi, và nơi dốc thẳng đứng bên dưới ông thấy cái nền phẳng bằng bê tông của một cấu trúc chưa bao giờ được dựng lên. Càng đến gần ông càng chậm bước cho đến khi trở lại thành đi bộ, bụng tự hỏi mình đã tìm thấy cái gì. Những thanh dầm sắt gỉ sét và ống nước từ trong bê tông thòi ra. Nằm lăn lóc trên nền xi măng là một cây cuốc chim cũ và một cái xẻng. Có bậc tam cấp để bước lên phiến bê tông, nơi đó rõ là phải lắp một cánh cửa nhưng chưa bao giờ có cửa nào được lắp. McCaleb bước lên, nhìn quanh. Chẳng có cánh cửa nào dẫn xuống tầng hầm bên dưới, chẳng có gì ông nhìn thấy khả dĩ khớp với những gì Crimmins nói.

Ông đá vào một trong mấy ống nước bằng đồng rồi nhìn xuống cái ống chính đường kính khoảng mươi phân, trên cái ống này lẽ ra người ta phải lắp một cái toa lét. Chính lúc đó ông hiểu ra hai dì cháu đang ở đâu.

Ông xoay tới xoay lui, mắt nhìn khắp mặt đất xung quanh cái nền bê tông. Nhận thấy rằng bậc tam cấp hẳn nằm ở mặt trước cấu trúc này, ông tập trung chú ý vào mặt đất ở phía sau, tìm cái nơi mà hệ thống ống nước sẽ dẫn tới, một hố rác tự hoại. Mắt ông lập tức bắt gặp một khoảnh đất tơi và đá mà ông biết ngay là mới được đào lên. Ông chộp lấy xẻng rồi cắm đầu chạy.

Phải mất năm phút ông mới dọn sạch được chỗ đất tơi và đá ra khỏi nắp hố. Ông biết hai dì cháu có không khí để thở; các ống nước dẫn lên nền nhà bê tông sẽ cung cấp không khí. Nhưng ông hì hục dọn như thể họ đang chết ngạt dưới chân ông. Khi rốt cuộc ông cũng mở được cái nắp hố cỡ vừa một người chui, ánh mặt trời đang tắt luồn vào và ông thấy gương mặt họ. Hai dì cháu sợ hết hồn nhưng vẫn sống. McCaleb cảm thấy một khối nặng trịch vừa được cất khỏi mình khi ông chìa tay xuống đỡ họ.

Ông giúp họ ra khỏi bóng tối, mắt hai người nhíu lại ngay cả trước ánh sáng nhá nhem khi trời sẩm tối. Rồi ông ôm hai người vào lòng chặt đến nỗi ông cứ nghĩ mình có thể làm họ đau. Graciela tấm tức khóc, thân hình nàng rung rung ép sát vào người ông.

“Ổn cả rồi,” ông nói. “Xong rồi.”

Nàng ngả đầu ra sau mà nhìn vào mắt ông.

“Giờ thì xong rồi,” ông nhắc lại. “Hắn sẽ không bao giờ còn làm hại ai nữa.”

46

Đáy tàu là một không gian chật hẹp bí rì sặc sụa mùi hơi xăng đến váng cả đầu. McCaleb quấn một cái áo phông cũ quanh mặt trông như tên cướp nhưng hơi xăng vẫn xộc vào đầy phổi ông. Ông đang thay dở các bù loong cố định bộ lọc nhiên liệu, cần thay chín cái thì ông đã lắp xong ba cái và siết chặt. Ông đang đánh vật với cái thứ tư, nghếch mặt về phía trước cố ngăn không cho mồ hôi chảy vào mắt mà không được, thì nghe thấy giọng chị ta từ trên gọi xuống.

“Xin chào. Có ai ở nhà không?”

McCaleb bỏ dở việc đang làm, giật cái áo đang buộc quanh mặt ra. Ông bò về phía cửa hầm để mở, chui lên. Jaye Winston đang đứng trên bến đợi ông.

“Jaye. Chào, có gì không? Lên thuyền đi.”

“Thôi, tôi đang vội. Tôi chỉ muốn ghé qua cho anh hay là người ta tìm ra hắn rồi. Tôi đang trên đường xuống Mexico đây.”

McCaleb nhướn mày.

“Hắn không còn sống nữa. Hắn tự sát rồi.”

“Thật sao?”

“Chúng tôi đang làm việc với Cảnh sát Pháp lý Baja nên tạm thời chưa có gì chắc chắn, tôi phải xuống tận đó xem sao đã, nhưng người ta tìm thấy hắn bị sóng đánh dạt lên bãi biển ở một chỗ gọi là Playa Grande. Xuôi theo bờ biển ấy. Hắn tự bắn vào tim. Một thằng bé chăn ngựa trên bãi biển phát hiện ra hắn. Ấy là hai hôm trước. Bọn tôi vừa mới hay tin thôi.”

McCaleb nhìn quanh. Ông thấy một người mặc sơ mi trắng thắt cà vạt đang lảng vảng gần cổng dẫn vào cầu tàu. Cộng sự của chị ta, ông đồ là vậy.

“Họ có chắc là hắn không?”

“Họ bảo là chắc. Mô tả giống. Với lại họ lần theo được dấu vết của hắn dẫn đến một căn nhà lưu động cách xa bãi biển. Họ tìm thấy nhiều máy vi tính, ảnh chụp, đủ thứ đồ đạc. Giống thằng cha nhà mình lắm. Với lại hắn có để lại thư tuyệt mệnh trên màn hình máy tính.”

“Hắn nói gì?”

“Ừ thì, đây chỉ là thuật lại thôi, nhưng cơ bản là hắn nhận trách nhiệm về những gì hắn làm và bảo hắn đáng chết vì các nạn nhân của hắn. Ngắn gọn, nhẹ nhàng.”

“Họ có tìm thấy vũ khí không?”

“Chưa, nhưng hôm nay họ đang rà soát bãi biển bằng máy dò kim loại. Nếu tìm ra thì chắc đó là khẩu HK P7 của nhà mình. Viên đạn người ta lấy được khi khám nghiệm pháp y là một viên có đầu bọc kim loại, hãng Federal. Chúng tôi sẽ xem liệu có thể mượn để đối chiếu với các vụ của chúng tôi ở đây không.”

McCaleb gật đầu.

“Thế họ luận vụ này ra sao?”

“Khá đơn giản. Tên này biết tụi tôi sắp tóm được hắn rồi, hắn cảm thấy ăn năn hối hận, liền viết thư tuyệt mệnh rồi đi xuống bãi biển, cho một viên vào tim. Thủy triều lôi hắn ra ngoài ghềnh đá ngoài kia và cái xác mắc lại đó. Vì vậy nó mới không trôi luôn ra biển. Chúng tôi đang đi xuống đó xem mọi chuyện thế nào đây. Và để lấy dấu tay. Chắc sẽ không tìm được dấu vết còn lại của phát súng vì cái xác bị ngâm trong nước. Nhưng có một điều chắc chắn là chúng ta sẽ không dứt điểm được vụ này chừng nào chưa biết tuyệt đối chắc chắn đó là Crimmins.”

“Ừ, ý hay đấy.”

“Tôi chỉ muốn biết chắc bởi vì xem ra chẳng có vẻ gì là hắn đang lao tới chỗ tự sát, anh hiểu ý tôi chứ?”

Chị nhìn ông chăm chú.

“Ừ thì... chẳng bao giờ mình biết được.”

Chị gật đầu và lần đầu tiên chị ngoảnh mắt đi khỏi ông. Chị kiểm tra người cộng sự, anh này đang quan sát họ từ một quãng đủ xa để không nghe được họ nói gì.

“Vụ Vegas thế nào, Terry?”

Ông ngồi lên mép thuyền, đặt cái cờ lê đang dùng dở xuống bên cạnh.

“Ừm, thật ra tôi chẳng định đi đâu hết. Tôi đã quyết rằng nếu không làm cho cái thuyền này chạy được thì chuyện đó chả bao giờ xảy ra sất. Tôi đã cắt điện thoại và làm việc suốt trên thuyền. Tôi nghĩ chắc là rốt cuộc nó cũng sẽ sẵn sàng khởi hành thôi.”

“Tốt. Hy vọng là anh tóm được nhiều cá.”

“Tóm được quá đi chứ. Hôm nào chị đến đi, tôi dẫn chị đi câu cá mác-lin.”

“Gì chứ vụ ấy thì tôi chịu đấy.”

Chị gật đầu rồi lại nhìn quanh bến neo thuyền. “Thôi, chắc tôi nên đi thôi. Xuống tới đó còn xa lắm, thế mà chúng tôi khởi hành muộn mất rồi.”

“Chúc đi săn vui vẻ.”

“Cám ơn.”

Chị dợm đi nhưng lại ngần ngừ, rồi ngoái lại.

“Tôi thấy chiếc Cherokee của anh ở ngoài bãi. Anh phải đem đi rửa đi, Terry. Bụi ơi là bụi, kinh quá.”

Họ nhìn đăm đăm vào mắt nhau hồi lâu, điều họ thầm lặng truyền đạt cho nhau thật rõ ràng.

“Tôi sẽ đem rửa,” cuối cùng McCaleb nói. “Cám ơn.”

47

Chiếc Biển Theo Ta rẽ những đợt sóng dồi, tiến về phía Nam bằng tốc độ giăng câu nhấp, trực chỉ đảo Catalina. Trên đài chỉ huy, McCaleb đứng nắm chặt bánh lái. Ông đã hạ màn chắn gió ở đằng trước xuống và làn không khí mát lạnh từ mặt nước phả lên tấp vào cả người ông, làm cho da ông đanh lại dưới lớp áo quần. Trước mặt, trong làn sương, hòn đảo trồi lên như một thánh đường đồ sộ bằng đá nơi chân trời. Những căn nhà ngoài và một số con thuyền có mạn cao hơn ở Avalon bắt đầu xuất hiện trong tầm mắt. Giờ thì ông thấy rõ cái mái tròn bằng đất nung của sòng bạc, công trình đặc trưng của thị trấn này.

Ông xoay người trông lại đằng sau. Đất liền đã khuất khỏi tầm nhìn, chỉ còn phân biệt được nhờ làn sương mỏng mảnh giăng bên trên giống như tấm biển báo Đừng đến đây! Ông lấy làm vui mình đã thoát khỏi nó.

Ông nghĩ đến Crimmins trong một thoáng. Ông chẳng hối tiếc gì về chuyện đã để lại mọi thứ ở Mexico bằng cách đó. Giờ thì sẽ chẳng ai cật vấn gì về các động cơ và lựa chọn của ông nữa. Nhưng nào phải ông chỉ bảo vệ bản thân mình. Graciela và Raymond đã phải sống ba mươi sáu giờ cùng với Crimmins. Mặc dù hắn không đụng đến họ về mặt thân thể, nhưng hai dì cháu vẫn cần có thời gian riêng tư để hồi phục, để quên đi cái tai họa này. McCaleb không cách nào thấy được nếu lôi thêm cảnh sát với thẩm vấn này nọ vào cuộc đời họ thì sẽ có ích gì cho điều đó. Graciela đồng ý với ông.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Từ trên đài chỉ huy ông nhìn xuống buồng lái, kín đáo quan sát hai dì cháu. Raymond ngồi trên ghế trực chiến, hai bàn tay bé nhỏ nắm chặt bộ đồ nghề câu nhấp. Graciela đứng cạnh chú, giữ chặt ghế để hỗ trợ. Giá như có thể, McCaleb hẳn đã ước gì có một con cá mác-lin to đùng đen trũi mắc vào dây câu cho chú bé. Nhưng ông chẳng lo. Còn khối thì giờ để câu được cá.

Graciela xem chừng cảm nhận được cái nhìn của ông, nàng nhìn lên ông. Họ trao nhau nụ cười thân ái. McCaleb cảm thấy tim mình thắt lại khi nàng cười với ông như thế. Nó làm ông vui đến nỗi tim nhói đau.

Chuyến đi này là một cuộc thử nghiệm. Không chỉ cho con thuyền mà còn cho cả hai người. Nàng đã gọi nó như thế. Một cuộc thử nghiệm để xem liệu họ có vượt qua được chuyện giữa hai người không, cái nhận thức đau đớn về những gì đã xảy ra, về những gì ông đã làm, chuyện vì sao ông có mặt ở đây còn những người khác thì không. Đặc biệt là Gloria. Họ sẽ xem liệu họ có thể bỏ lại ngay cả chuyện đó ở phía sau không, hay ít nhất là bỏ qua một bên, chỉ khi nào cần thiết mới lấy ra xem xét.

McCaleb chỉ dám mong chừng đó. Ông chỉ cần mỗi chừng đó, khi nào có cơ hội. Việc điều đó giờ đây nằm trong tầm tay ông khiến niềm tin của ông đặt vào nàng cảm thấy đã được đền đáp, đã thành trọn vẹn. Suốt một thời gian dài cho mãi đến giờ, lần đầu tiên ông cảm thấy dường như có một mục đích nào đấy.

Ông lại nhìn ra phía trước kiểm tra hướng đi của thuyền. Ông có thể thấy tháp chuông trên đồi, cạnh đó là mái của căn nhà nơi nhà văn và nhà thể thao Zane Grey từng sống. Thị trấn thật đẹp, ông nóng lòng muốn quay lại và chỉ cho hai dì cháu thấy nơi này quá.

Ông lại nhìn trộm xuống đuôi thuyền lần nữa. Tóc Graciela buộc về phía sau ngược chiều gió và ông nhìn kỹ những đường nét đáng yêu của phần gáy nàng. Gần đây ông cảm thấy một cái gì đó hầu như là đức tin và bối rối không biết nó sẽ dẫn ông đến đâu bây giờ. Bối rối nhưng không lo lắng. Ông biết đó không phải là chuyện thật sự quan trọng. Đức tin của ông giờ đây nằm ở Graciela Rivers. Trong khi nhìn xuống ngắm nàng, ông không nghi ngờ gì rằng ông đang nhìn tảng đá nơi sẽ là bến đỗ của ông.

Lời cảm tạ

Việc máu là một tác phẩm hư cấu, song được gợi cảm hứng từ những cuộc trò chuyện với bạn tôi là Terry Hansen, anh ấy được thay tim vào đúng ngày Valentine năm 1993. Tôi hàm ơn anh vì anh đã cởi mở bàn luận về những chuyển biến về cảm xúc và thể chất mà một sự kiện như vậy đã mang tới cho cuộc sống của anh.

Tôi cũng muốn ngỏ lời cám ơn tất cả những ai đã cho tôi những lời khuyên và sự hỗ trợ quý báu về chuyên môn trong quá trình viết cuốn tiểu thuyết này. Mọi sai sót trong những trang sách này đều là sai sót của cá nhân tôi. Đặc biệt, tôi muốn cảm ơn Linda và Callie vì đã chịu đựng tôi, William Gaida, cảnh sát viên Los Angeles đã nghỉ hưu, vì ông đã dạy cho tôi về nghệ thuật thẩm vấn bằng thôi miên, và Jim Carter vì đã cho tôi xem thuyền bè và Vũng Cabrillo. Tôi cũng xin cám ơn Gene Riehl, đặc vụ FBI đã nghỉ hưu, Scott Anderson, chuyên gia vi tính, Larry Sulkis, xạ thủ số một, và Scott Eyman, vị đại sư về nghề viết, người đã khuyên nhủ tôi đừng nhảy lầu tự tử sau khi tôi đã đem 240 trang ra xiên que nhọn - có mục đích hẳn hoi! - và phải bắt đầu lại từ đầu.

Cuốn sách này cùng với tác giả đã nhận được sự góp ý vô cùng quý báu của những người đọc bản thảo trong quá trình viết. Họ gồm có: Mary Connelly Lavelle, Susan Connelly và Jane Connelly Davis, Joel Gotler, Brian Lipson, Philip Spitzer, Ed Thomas, Bill Gerber, Melissa Rooker và Clint Eastwood. (Đặc biệt xin cảm ơn Joel vì những bản ứng tấu harmonica của anh). Biên tập viên của tôi, Michael Pietsch, đã làm tròn công việc xuất sắc thường lệ của mình là nhận một bản thảo khổng lồ rồi từ đó gọt thành một câu chuyện đọc trơn tru.

Cuối cùng, một lần nữa xin cám ơn các nhà sách đã giúp tôi kể chuyện.

Michael Connelly

Los Angeles


Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai –
Catcat – H.y
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3