Trên Chuyến Bay Đêm - Chương 03 - Phần 2

Phụ nữ vào tuổi trung niên nhiều khi còn dễ bị phỉnh phờ hơn cả con gái của họ nữa, anh tự nhủ. Khi ra ngoài hành lang vắng vẻ, anh soi bóng mình vào gương. Anh dừng lại sửa chiếc nơ bướm trên cổ và nhìn bóng mình, mỉm cười chiến thắng, thầm nhủ:

“Harold, mày là thằng quỷ sứ”.

Buổi tiếp tân kết thúc. Khi Harry trở lại phòng khách, Rebecca cau có hỏi anh:

– Anh đi đâu nãy giờ?

– Anh đi nói chuyện với bà chủ nhà chứ đi đâu.

– Bà ấy gặp chuyện đáng buồn. Chúng ta đi chứ?

Anh ra khỏi nhà với cặp nút tay áo quí và 20 bảng của chủ nhà trong túi.

Họ đón tắc xi ở Quãng trường Belglave để đến nhà hàng ăn uống ở Piccadilly. Harry rất thích các nhà hàng sang trọng: anh cảm thấy sung sướng khi được ngồi trong này, được nhìn những chiếc khăn bàn hồ cứng, được thấy ly tách sáng bóng, được xem những tờ thực đơn bằng tiếng Pháp và được những ông quản lý khách sạn tiếp cung kính. Bố anh chưa bao giờ được thấy cảnh bên trong các nhà hàng như thế này. Mẹ anh thì có lẽ có thấy, nếu bà có đến làm việc ở những nơi này. Anh gọi một chai sâm banh, xem xét rất kỹ danh sách các thứ rượu vang, rồi chọn một chai được sản xuất vào thời điểm mà anh biết rất ngon nhưng không hiếm, để giá tiền không cao quá.

Khi anh dẫn các cô vào nhà hàng, anh đã mắc phải một số sai lầm; nhưng anh ý thức được việc này liền. Mưu mẹo hữu dụng nhất là anh không mở xem thực đơn mà hỏi bồi bàn:

“Tôi muốn ăn cá bơn, nhà hàng có không”. Anh bồi bàn sẽ mở tờ thực đơn ra và chỉ cho anh thấy dãy thức ăn viết bằng tiếng Pháp:

Cá bơn tẩm bột chiên, cá nục róc xương nấu với xốt tác-ta và cá bơn nướng vĩ, rồi thấy anh ngần ngừ, anh bồi liền đưa ý kiến:

“Cá đục ngon lắm, thua ông”.

Harry rất sành các thức ăn ghi bằng tiếng Pháp trên thực đơn. Anh thấy nhiều người thường đến ăn trong các nhà hàng như thế này luôn luôn hỏi người phục vụ các món ăn viết bằng chữ Pháp, vì người Anh giàu có không cần phải biết tiếng Pháp. Cho nên, khi họ ăn trong các nhà hàng, họ cần có người dịch ra cho họ biết; và bây giờ anh có thể đọc thực đơn bằng tiếng Pháp giỏi hơn những thanh niên con nhà giàu cùng trang lứa. Rượu thì không có gì khó khăn. Những người phụ trách bán rượu trong nhà hàng thường rất sung sướng khi được khách hỏi ý kiến, họ không ngờ anh là một thanh niên biết hết tất cả các lâu đài sản xuất rượu, biết hết tên các thứ rượu ngon và ngày sản xuất. Trong các nhà hàng cũng như trong cuộc sống, muốn mưu mẹo thành công thì phải có phong thái tự tại, thản nhiên, nhất là khi mình không phải là người giàu có.

Rượu anh chọn thật ngon, nhưng tối hôm ấy anh không được vui, và anh thừa biết điều không làm cho anh vui là Rebecca. Anh thường mong muốn được dẫn cô nào xinh đẹp vào nhà hàng sang trọng như thế này. Nhưng thường anh chỉ dẫn đi những cô không ra gì: cô thì xấu, cô thì cục cằn, cô thì mặt đầy mụn, cô thì ngu ngốc. Làm quen những cô như thế này thật dễ; rồi khi họ đã say mê anh rồi, họ chỉ yêu cầu anh một việc là phải trung thành với họ, họ bất cần tìm hiểu con người anh vì họ sợ mất anh. Đây là chiến thuật lý tưởng để anh xâm nhập vào các gia đình giàu có. Nhưng buồn thay là anh chỉ chài được các cô mà anh không vừa ý. Có lẽ một ngày nào đó...

Tối đó Rebecca có vẻ buồn. Có nhiều lý do khiến cô ta phật ý. Có lẽ cô phân vân không biết tại sao đã đi chơi với nhau suất ba tuần rồi mà Harry không đi xa hơn, không sờ soạng gì cô hết. Sự thực thì anh ta không có vẻ ham muốn cô.

Anh có thể làm cho cô vui, có thể buông lời cợt nhã, làm cho cô cười và khiến cho cô yêu anh; nhưng anh không có vẻ ham muốn cô. Có một lần anh ở trong vựa lúa với một cô gái mảnh khảnh. Và anh đã hết sức kiềm chế mình để khỏi phải phá trinh cô ta, nhưng cơ thể anh đã hết sức rạo rực, mỗi lần nói đến chuyện ấy là anh lại cảm thấy khó chịu.

Thục ra thì chuyện tình dục của anh hầu như chỉ xảy ra với các cô gái cùng giai cấp xã hội với mình và không có cuộc tình nào bền lâu hết. Chỉ có một lần anh gian thú với một phụ nữ lớn tuổi ở Bond Street, bà ta là vợ của một luật sư, ông thì bận rộn công việc, còn bà thì vô công rồi nghề, và họ yêu nhau suốt hai năm trời. Anh học hỏi ở bà này rất nhiều về nghệ thuật làm tình, bà ta đã dạy cho anh cách thích thú với thái độ của một người thuộc xã hội thượng lưu, xã hội mà anh đã lén lút đồng hóa vào; và họ đã nằm trên giường với nhau để đọc thơ, bình thơ. Harry cảm thấy thương mến bà ta rất nhiều. Thế rồi bà ta chấm dứt mối tình với anh một cách đột ngột và không báo trước, khi chồng bà ta phát hiện ra bà có người tình ông ta không biết người đó là ai. Từ đó, Harry gặp hai người nhiều lần: bà vợ nhìn anh ta như nhìn một kẻ xa lạ. Harry thấy việc này quá độc ác. Bà ta đã quá tin vào anh và có vẻ mong anh thông cảm. Bà ta là một người có ý chí mạnh hay thiếu con tim. Có lẽ không bao giờ anh biết được.

Rượu ngon đắt tiền không làm cho Harry lẫn Rebecca hết buồn. Anh bắt đầu cảm thấy bực bội. Anh đã có ý định sau đêm nay sẽ bỏ rơi cô một cách êm thấm, nhưng bây giờ anh thấy không thể nào chịu đựng được cảnh ngồi với cô cho hết buổi như thế này. Anh ân hận việc anh phung phí tiền bạc để mời cô đi ăn tối. Anh nhìn bộ mặt quàu quạu của Rebecca, mặt cô không trang điểm trông phèn phẹt đội chiếc mũ lông nhỏ kỳ cục, anh bỗng thấy ghét cô.

Khi họ ăn xong tráng miệng, anh gọi cà phê rồi đi đến phòng vệ sinh. Phòng để áo mũ nằm gần bên phòng vệ sinh nam, gần cửa đi ra, ngồi ở bàn ăn của họ không thấy cửa này. Harry muốn bỏ về ngay tức khắc anh bèn lấy mũ, cho bà giữ phòng để áo mũ tiền bo, rồi lặng lẽ ra khỏi nhà hàng.

Trời đêm êm dịu. Vì có lệnh che hết ánh sáng nên trời tối thui, nhưng Harry rất rành khu West End và nhờ có những bảng hiệu sáng ở các ngã tư nên anh biết đường để đi, đó là chưa kể có ánh sáng yếu ớt của các xe hơi chạy qua. Anh cớ cảm giác như một người học trò bị đuổi học. Anh đã thoát khỏi được Rebecca, đã tiết kiệm được 7 hay 8 bảng và được một buổi tối thảnh thơi, tất cả chỉ nhờ một ý nghĩ bất chợt nảy ra trong óc anh hồi nãy.

Các rạp hát, rạp xi nê và vũ trường đều phải đóng cửa theo lệnh của chính quyền “cho đến khi chấm dứt sự đe dọa tấn công của quân Đức lên Anh Quốc”, người ta nói thế. Nhưng những hộp đêm vẫn thường xuyên hoạt động bất hợp pháp, cho nên nếu biết tìm kiếm thì người ta sẽ có được nhiều nơi để đến.

Chẳng bao lâu sau, Harry ngồi chễm chệ tại một chiếc bàn trong một hộp đêm ở Soho, nhấm nháp whisky, nghe một ban nhạc Jazz danh tiếng của Mỹ, vừa nghĩ cách để ve vãn cô bán thuốc lá.

Harry đang suy nghĩ thì anh trai của Rebecca bước vào.

Sáng hôm sau, khi ngồi trong phòng giam dưới tầng hầm của tòa án, lòng đau đớn và ăn năn hối hận, anh đợi giờ xuất hiện trước các quan tòa. Ruột gan anh rối bời...

Bỏ nhà hàng ăn ra về như thế quả là một hành động ngu ngốc. Rebecca không phải là hạng người chịu bỏ lòng kiêu hãnh để lặng lẽ trả tiền bữa ăn. Cô ta đã làm to chuyện, người quản lý khách sạn báo cảnh sát, gia đình Rebecca đến... Những chuyện như thế này cần phải tránh mới phải. Thế nhưng, nếu Harry không gặp rủi ro bất thần, là sau đó hai giờ đụng đầu phải anh trai của Rebecca, thì chắc anh đã thoát được rồi.

Anh ở trong phòng giam lớn với khoảng mười lăm đến hai mươi tù nhân khác, họ sẽ ra tòa sáng nay với những tội phạm có quả tang. Phòng không có cửa sổ và đầy khói thuốc lá. Hôm nay chắc người ta không xử Harry mà chỉ là phiên tòa hỏi cung mở đầu thôi.

Rõ ràng thế nào người ta cũng buộc tội anh. Những bằng cớ để buộc tội anh không thể nào chối cãi được. Người trưởng nhóm bồi bàn sẽ xác nhận những lời kêu ca của Rebecca, và ngài Simon Monkford sẽ nhận ra cặp nút tay áo.

Nhưng chuyện tồi tệ nhất cho anh đã diễn ra rồi. Harry đã bị một thanh tra cảnh sát hình sự thẩm vấn. Ông ta mặc bộ đồng phục của giới thanh tra cảnh sát thường mặc, bộ com lê vải xẹc dày dặn, sơ mi trắng và cà vạt đen, áo di-lê không có dây đeo đồng hồ và giày đánh láng bóng; ông ta là loại cảnh sát giàu kinh nghiệm, nhanh trí và đa nghi. Ông ta nói:

– Từ hai ba năm nay, thỉnh thoảng chúng tôi nhận được những lời báo cáo xuất phát từ những gia đình giàu có cho biết họ đã “mất” một số nữ trang. Dĩ nhiên là không phải bị ăn cắp. Chỉ biến mất thôi. Những chiếc vòng đeo tay, những đôi hoa tai, những chiếc mề đay đeo ngục, nút áo... Những người mất các thứ này cam đoan rằng đồ nữ trang của họ không phải bị ăn trộm, vì chỉ có khách mời của họ mới có cơ hội để lấy các thứ này. Lý do khiến họ đi báo những thứ bị mất này, là họ chỉ muốn lấy lại chúng, nếu có người nào thấy chúng ở đâu đó.

Harry không nói một tiếng, nhưng anh cảm thấy rất đau khổ. Mãi cho đến bây giờ, anh cứ đinh ninh rằng nghề của anh hành thông, không một ai trông thấy. Bây giờ anh rất kinh hoàng khi biết sự thể trái ngược hẳn: thỉnh thoảng có lúc người ta đã theo dõi anh.

Ông thanh tra mở tập hồ sơ ra.

– Bá tước Dorset mất một cái hộp đựng kẹo bằng bạc có từ thế kỷ XVIII và một cái hộp đụng thuốc lá bằng sơn mài cũng từ thể kỷ 18. Bà Harry Jaspers, một chiếc vòng bằng ngọc trai có khuy bằng hồng ngọc mua tại cửa tiệm Tlffany. Bà Bá tước Malvoll, mất một mặt mề đay bằng kim cương của tiệm Art Deco gắn trên sợi dây chuyền bằng bạc. Tên nào lấy các thứ ấy có khiếu thẩm mỹ đầy chứ. Nhà thám tử dán mắt vào những hạt nút kim cương đính trên ngực áo của Harry.

Harry biết hồ sơ này ghi những thứ bí mật do anh lấy. Anh nghĩ thế nào rồi anh cũng bị buộc tội đã lấy ít ra là một số đồ trong số này. Cái lão thanh tra khôn ranh này đã thu thập những yếu tố căn bản đủ để buộc tội anh. Ông ta không khó khăn gì trong việc tìm ra những nhân chứng để người ta cũng sẽ đến lục tìm chỗ anh ở tại nhà mẹ anh. Phần nhiều đồ nữ trang này anh đã bán cho người mua đồ ăn cắp, nhưng anh vẫn còn giữ lại một vài món: những hạt nút kim cương mà ông cảnh sát đã thấy trên người anh, thứ này anh lấy của một người say ngủ gà ngủ gật trong buổi dạ vũ ở Quãng trường Grosvener, và mẹ anh có một chiếc kim cài áo mà anh đã khéo léo xoáy trên áo của một bà công tước tại một tiệc cưới trong vườn nhà Surrey. Ngoài ra, khi họ hỏi anh sống bằng cách gì thì anh biết trả lời sao?

Chắc là anh sẽ phải ở tù một thời gian. Và khi ra khỏi tù, thế nào anh cũng bị gọi nhập ngũ, và ở trong quân ngủ thì chẳng khác gì ở tù. Nghĩ đến chuyện ấy, anh thấy lạnh cả người.

Anh ngoan cố không chịu nói một tiếng, thậm chí khi ông thanh tra thộp lấy ve áo vét tông của anh đẩy anh sát vào chân tường anh cũng không nói; nhưng sự im lặng chắc không cứu được anh. Công lý thế nào cũng buộc tội anh.

Harry chỉ còn một cách để có thể được tự do, đó là thuyết phục các quan tha cho anh đóng tiền bảo chứng để được tại ngoại, rồi biến mất. Bỗng anh tha thiết mong muốn được tự do, như thể anh đã bị tù nhiều năm chưa được ra ngoài bao giờ.

Biến đi không phải dễ dàng gì, nhưng nghĩ đến chuyện này khiến anh nôn nao trong dạ.

Khi sống bằng nghề xoáy của kẻ giàu, anh đã quen nếp sống của họ: anh ngủ dậy trước, uống cà phê bằng tách sứ, mặc áo quần đẹp, ăn tại những nhà hàng lớn. Anh lại còn thích học đòi cuộc sống trưởng giả của họ, đi uống rượu với bạn cố tri hay là dẫn mẹ đi xem hát ở nhà hát Odéon. Cho nên khi nghĩ đến nhà tù là anh không làm sao chịu nổi; sống trong tù là sẽ mặc áo quần dơ bẩn, thức ăn khổ cực, sống chung lộn, và tệ hơn hết là cứ lo sợ về một cuộc sống vô vọng.

Anh rùng mình ghê sợ, bèn tập trung tư tưởng vào việc tiến thế chân. Dĩ nhiên là cảnh sát sẽ chống đối việc này, nhưng người quyết định là các quan tòa. Harry chưa bao giờ ra tòa, nhưng anh biết rết rõ đường đi nước bước những chuyện xảy ra trong các phiên tòa như người ta biết chuyện ai có thể được vào ở trong nhà tế bần hay biết cách thông ống khói như thế nào. Tòa án chỉ không chịu cho nộp tiền bảo chứng đối với các tội sát nhân mà thời. Còn ngoài ra, việc đóng tiền tại ngoại hậu tòa này đều tùy thuộc vào các quan tòa.

Thường thường, họ làm theo lời yêu cầu của cảnh sát, nhưng không phải là luôn luôn. Thỉnh thoảng họ nghe theo lời của một luật sư khéo léo, hay nghe theo lời bị cáo khi người này viện có gì đấy nghe rất thảm thiết, như có con đau nặng chẳng hạn. Thỉnh thoảng gặp một quan tòa kiêu ngạo, cũng chấp nhận cho bị cáo được tại ngoại hậu tra, bởi lẽ họ muốn chứng tỏ họ độc lập, không lệ thuộc vào công tố viên. Anh phải tìm một ít tiền mới được, có lẽ 25 hay 50 bảng. Việc này không khó khăn với anh. Anh có nhiều tiền. Họ đã cho phép anh gọi điện thoại, anh đã gọi người bán báo ở góc đường nơi mẹ anh ở, và anh đã nhờ Berlùe, người chủ sạp báo, cho một nhân viên đi tìm mẹ anh. Khi mẹ anh đến, anh sẽ chỉ cho bà biết chỗ để lấy tiền.

Anh đã nói chắc nịch với mẹ:

– Họ bằng lòng cho con đóng tiền thế chân để được tại ngoại hầu tra.

– Mẹ biết, con à. - Mẹ anh đáp. - Con luôn luôn gặp may mắn.

– Và nếu không thì...

Mình thường vượt qua được nhiều hoàn cảnh rất khó khăn, - anh tự nhủ với lòng tràn đầy tin tưởng. Chuyện này xét ra cũng chẳng khó khăn gì. Người cai ngục gọi lớn:

– Marks!

Harry đứng dậy. Anh chưa chuẩn bị được những điều anh định nói: anh thích ứng khẩu. Nhưng anh vẫn ân hận đã không nghĩ đến cách biện hộ. Phải thực hiện cho được việc này, anh lo lắng tự nhủ. Anh gài nút áo vét sửa lại cái nơ và kéo vuông vải phin trong túi áo trên ngực cho ngay ngắn. Anh thoa cằm và ân hận là họ không cho phép anh cạo râu. Đến giờ phút chót, kế hoạch hành động mới nảy sinh trong óc anh, anh tháo cặp nút tay áo sơ mi ra, cất vào túi.

Người ta mở cửa song sắt và anh bước ra.

Họ dẫn anh lên chiếc cầu thang đúc bê tông, chỉ cho anh ngồi vào ghế bị cáo ở giữa phòng xử án. Trước mặt anh, chiếc ghế dành cho luật sư không có người ngồi, ông thư ký tòa án ngồi ở bàn và tòa gồm có ba ông quan tòa không chuyên nghiệp.

Hany tự nhủ:

- Lạy Chúa, mình hy vọng những thằng khốn nạn này sẽ để cho mình được ra về.

Ở bàn báo chí kế bên phòng xử, anh thấy một phóng viên còn trẻ cầm sẵn sổ ghi chép trên tay. Harry quay lui nhìn xuống cuối phòng, nơi dành cho công chúng. Anh thấy mẹ anh, bà mặc chiếc măng tô đẹp nhất và đội một cái mũ mới.

Bà vỗ vào túi áo với vẻ như muốn báo cho anh biết đã có mang theo tiền:

Harry biết bà đã mang theo tiền cho anh nộp tiền thế chân. Anh hoảng sợ khi thấy bà mang chiếc kim cài áo mà anh đã ăn cắp ở nhà bà công tước Eyer.

Anh quay lại phía các quan tòa, hai tay vịn vào lan can để khỏi run. Công tố viên là một cảnh sát có đầu hói với cái mũ bự, ông ta nói:

– Thưa quí ngài, tội nhân số ba: Ăn cắp hai mươi bảng tiền mặt và một cặp nút tay áo bằng vàng giá trị đến 15 ghi nê, chủ nhân là ngài Simon MonkFord; và bị bắt quả tang về tội ăn quịt tại nhà hàng Saint Raphael ở khu Piccadilly.

Bên cảnh sát yêu cầu tòa tạm giam tội nhân, vì chúng tôi đang điếu tra những tang chứng có trị giá rất lớn.

Harry quan sát thật kỹ các ông quan tòa: một bên là một ông già có hai chòm râu bạc hai bên má, chiếc cổ áo hồ cứng, người bên kia có vẻ là một cựu quân nhân vì ông ta đeo chiếc cà vạt có màu cờ của trung đoàn mình: cả hai nhìn xuống anh với ánh mắt như muốn nói rằng tất cả những ai bị đưa ra trước mặt họ, đều đã có phạm tội gì đó. Anh cảm thấy hoàn toàn thất vọng. Rồi anh tự nhủ rằng người có thành kiến ngu ngốc là người có thể thay đổi một cách dễ dàng từ chỗ có thành kiến đến chỗ dễ tin. Nếu anh muốn lừa được họ, tốt hơn hết là mong sao họ đừng tinh quái quá. Ông chánh án, ngồi ở giữa, là người đáng kể nhất. Ông ta ở vào tuổi trung niên, chòm râu mép lốm đốm bạc, ông mặc bộ đồ màu xám, thái độ uể oải, khiến cho người ta nghĩ rằng từ nãy đến giờ ông đã nghe nhiều chuyện láo khoét và nhiều nguyên do biện bạch quá, đến nỗi ông không muốn nhớ nữa. Harry lo lắng nghĩ thầm:

- Chính ông này mới là người ta phải để ý dè chừng.

Ông ta hỏi Harry:

– Có phải anh yêu cầu được đóng tiền thế chân để được tại ngoại hậu tra không?

Harry làm ra vẻ bối rối.

– Ôi! Lạy Chúa lòng lành: Tôi muốn thế. Phải... Tôi yêu cầu như thế.

Ba vị quan tòa ngồi thẳng người lên, ra vẻ hết sức lưu tâm khi nghe anh nói với một giọng mạch lạc như thế Harry mừng vì thấy kết quả khả quan. Anh có tài làm cho người ta bối rối, anh hãnh diện về cái tài này. Phản ứng của tòa làm anh yên tầm, mừng thầm. Mình đã thuyết phục được họ, anh nghĩ chắc mình sẽ thuyết phục được họ.

Ông chánh án nói tiếp:

– Thôi được rồi, anh có gì nói để tự biện hộ không?

Harry chăm chú nghe giọng nói của ông chánh án, cố sức để xác định vị trí của ông ta trong nấc thang xã hội. Anh tin chắc ông ta thuộc giai cấp tiểu tư sản.

Có lẽ là một dược sĩ, hay là giám đốc ngân hàng. Hẳn là ông ta có tài đấy, nhưng chắc đã có thói quen kính trọng những kẻ thuộc giai cấp thượng lưu.

Harry làm ra vẻ luống cuống rồi bắt chước giọng nói của cậu học trò nói với thầy hiệu trưởng, anh trả lời:

– Thưa ông chánh án, tôi e chuyện này quá mơ hồ.

Các vị quan tòa có vẻ quan tâm thêm lên, họ cựa mình trong ghế bành và chồm người tới trước với vẻ bị kích thích. Họ cảm thấy anh sắp nói điều gì đặc sắc, và họ vui sướng khi được thoát ra khỏi thủ tục thường lệ của họ. Harry nói tiếp:

– Xin thú thực với quý vị là có vài người bạn của tôi đã uống rum vang đỏ quá nhiều ở câu lạc bộ Carlton vào tối hôm qua, chính vì thế mới sinh ra chuyện như thế này. - Anh dừng lại một lát, như thể đấy là chính điều anh phải nói, anh đưa mắt nhìn tòa với vẻ hy vọng.

Ông quan tòa có vẻ là một cựu quân nhân lặp lại:

– Câu lạc bộ Carlton à? - Thái độ của ông ta rõ ràng cho thấy là ông chưa bao giờ gặp trường hợp các thành viên trong tổ chức đáng kính này phải ra trước tòa án hết.

Harry phân vân không biết anh nói như thế đã đủ chưa. Có lẽ người ta chưa chịu tin anh là thành viên của câu lạc bộ này. Anh bèn nói tiếp:

– Thật quá sức phiền phức, nhưng sau đó tôi liền xin lỗi quí vị trong câu lạc bộ ngay tức khắc và làm sáng tỏ vấn đề cho họ thấy... - Anh làm ra vẻ như bỗng nhiên anh nhớ ra là mình đang mặc dạ phục, - tôi làm sáng tỏ vấn đề ngay sau khi tôi vừa thay áo quần xong.

Ông già hỏi:

– Anh muốn nói anh không có ý định lấy 20 bảng và cặp nút tay áo à?

Giọng ông ta có vẻ không tin, nhưng dù sao, được người ta đặt câu hỏi cũng là một dấu hiệu tốt. Có hỏi, tức là họ không loại bỏ những chuyện anh vừa kể ngay lập tức Nếu họ không tin lời anh vừa kể, chắc họ không thèm nhọc công hỏi thêm các chi tiết về việc này làm gì. Anh cảm thấy lòng nôn nao hy vọng có lẽ người ta sẽ thả anh ra.

Anh nói tiếp:

– Tôi đã mượn cặp nút áo vì tôi không mang theo nút tay áo. - Anh đưa hai cánh tay lên cho họ thấy hai ống tay áo sơ mi thòi ra ngoài tay áo vét không có cài nút.

Người già lại hỏi:

– Thế còn hai chục bảng?

Đây mới là chuyện khó nói, Harry lo lắng nghĩ thầm. Anh không nghĩ ra được sự giải thích nào nghe cho lọt tai. Người ta có thể quên nút măng sét và mượn đại cặp nút của ai đấy, nhưng mượn tiền mà không nói, tức là xem như ăn cắp rồi. Anh đang hoang mang bối rối thì tự nhiên trong óc anh lại nảy ra ý kiến mới.

– Tôi nghĩ là ngài Simon có thể đã nhầm lẫn số tiền ông ta đã có từ đầu ở trong ví. - Harry hạ thấp giọng, như tâm sự với các quan tòa để những người khác ngồi trong phòng không nghe được. - Thưa ông chánh án ông ta rất giàu mà.

Ông chánh án trả lời:

– Ông ta chắc không giàu được nếu quên mình có bao nhiêu tiền trong ví - Nhiều tiếng cười vang lên trong phòng. Không khí vui vẻ là một dấu hiệu đáng mừng cho anh, nhưng ông chánh án vẫn không cười: ông không có ý định nói chuyện khôi hài. Đúng ông ta là chủ ngân hàng rồi, Harry nghĩ: người như ông ta không đùa bỡn với tiền bạc. Ông chánh án lại hỏi:

– Và tại sao anh không trả tiền ăn cho nhà hàng?

– Xin thú thực tôi hết sức đau đớn về chuyện này. Tôi đã cãi nhau rất kịch liệt với người... với cô gái cùng đi ăn với tôi.

Harry làm ra vẻ cố kiềm hãm không nói tên người cùng đi ăn với mình: vì người cựu học sinh một trường trung học lớn không làm hại thanh danh một phụ nữ, và chắc các quan tòa đều biết ý đồ của anh. - Tôi đau đớn nhớ lại tôi đã bỏ ra ngoài mà quên thanh toán tiền ăn.

Ông chánh án nhìn anh qua cặp kính, ánh mắt đăm đăm, nghiêm khắc. Harry cảm thấy như có cái gì sai sót trong những điều anh vừa nói. Lòng anh thắt lại.

Anh đã nói gì thế nhỉ? Anh nhớ lại cách anh không trả tiền nhà hàng như thế là khiếm nhã. Trong giới thượng lưu, việc mắc nợ nhà hàng như thế này là bình thường, nhưng dưới mắt một giám đốc ngân hàng thì là một trọng tội. Anh hoảng hốt, anh có cảm giác như anh sắp thua cuộc vì một sai lầm nhỏ trong phán đoán. Anh vội vàng lắp bắp nói:

– Thưa ông chánh án, thật tôi hết sức vô trách nhiệm, và dĩ nhiên tôi phải đến đấy vào giờ ăn sáng để thanh toán cho nhà hàng. Nghĩa là nếu ông bằng lòng để cho tôi đi.

Không thể nói được ông chánh án có bằng lòng hay không.

– Theo chỗ tôi hiểu thì chắc anh nghĩ rằng khi anh đã giải thích xong những lời buộc tội, anh coi như đã dẹp bỏ phải không?

Harry thấy anh phải coi chừng, đừng có hấp tấp trả lời mỗi khi ông ta hỏi.

Anh cúi đầu làm ra vẻ bối rối.

– Tôi nghĩ lại, nếu quí tòa từ chối không dẹp bỏ lời tố cáo thì hẳn đây là một bài học cho tôi.

– Có lẽ thế đấy - ông chánh án nghiêm khắc nói.

Lão già khùng, Harry nhủ thầm; nhưng anh nghĩ tình hình như thế này, thậm chí họ có làm nhục anh đi nữa thì vẫn có thể có lợi cho anh hơn. Họ la mắng anh càng nhiều, khả năng bỏ tù anh càng ít.

– Anh muốn nói. thêm điều gì nữa không? – Ông chánh án hỏi.

Harry đáp, giọng nghẹn ngào:

– Thưa ông chánh án, tôi chỉ còn biết nói là tôi rất xấu hổ.

– Hừ. - Ông chánh án càu nhàu, vẻ hoài nghi, nhưng người có tác phong quân nhân thì gật đầu ra vẻ hài lòng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3