Trên Chuyến Bay Đêm - Chương 10 - Phần 1
Chương 10
Eddie Deakin, sĩ quan cơ khí, xem chiếc Clipper này như cái bọt xà bông khổng lồ, đẹp nhưng dễ vỡ, cho nên anh phải hết sức cẩn thận trong công việc, để nó bay qua đại tây dương được an toàn, vì trong khi nó đang bay thì ở bên trong người ta đang vui chơi, và họ không biết cái vỏ máy bay ngăn giữa họ với tiếng gào rú của màn đêm bên ngoài mỏng manh biết bao.
Chuyến bay có phần nguy hiểm chứ không phải như người ta tưởng, vì kỹ thuật công nghệ máy bay còn mới mẻ và bầu trời đêm trên đại tây dương là một vùng chưa được khám phá, đầy nguy hiểm bất ngờ. Tuy nhiên, Eddie thường hãnh diện nghĩ rằng với tài khéo léo của Cơ trưởng, và sự tận tình của phi hành đoàn, và với khả năng tiến bộ của ngành cơ khí Mỹ, máy bay sẽ đến nơi đến chốn bình an.
Thế nhưng lần này anh hết sức lo sợ.
Chắc chắn trên danh sách hành khách có tên Tom Luther nào đấy rồi. Trong khi hành khách lên tàu, anh nhìn qua các cửa sổ của buồng máy, lòng phân vân không biết tên nào trong đám hành khách đó đã có chân trong đám bắt cóc Carol-Ann; nhưng đương nhiên là anh không thể tìm ra được, vì họ toàn là những thương gia giàu có, tài tử chiếu bóng và các nhà quí tộc no đủ, áo quần bảnh bao.
Trong thời gian chuẩn bị cho máy bay cất cánh, anh cố không nghĩ đến Carol-Ann để tập trung vào công việc kiểm tra các dụng cụ, khởi động bốn cái động cơ khổng lồ cho ấm máy, điều chỉnh lại hỗn hợp nhiên liệu kiểm tra bộ phận điều khiển các van và đo tốc độ của máy để mọi việc được hoàn chỉnh trước khi cất cánh. Nhưng khi máy bay lên đến độ cao đường truờng rồi, anh trước còn mấy công việc để làm. Anh chỉ điều chỉnh cho động cơ hoạt động đồng bộ, kiểm soát nhiệt độ của máy và kiểm tra hỗn hợp của nhiên liệu. Bây giờ anh thấy máy móc hoạt động bảo đảm an toàn rồi, anh lại suy nghĩ vẩn vơ.
Anh hết sức muốn biết Carol-Ann mặc áo gì, nỗi mong muốn thật phi lý, nhưng nó nói lên sự đau đớn trong lòng anh. Nếu anh biết được vợ anh mặc áo măng tô da cừu có nút cài lên tận cổ và mang ủng không thấm nước, thì chắc anh cảm thấy bớt đau đớn hơn một chút; không phải vì anh sợ nàng lạnh - thời tiết tháng 9 chưa lạnh - nhưng vì mặc áo ấy trông nàng kín đáo hơn. Anh nghĩ chắc có thể Carol mặc cái áo cụt tay có màu xanh nhạt, cái áo anh thích nhất, nếu thế thì cơ thể đẫy đà của nàng sẽ lồ lộ ra rất khêu gợi. Chắc nàng bị bọn vô lại kia bắt giữ trong suốt hai mươi bốn giờ sắp đến, và nghĩ đến chuyện chúng nhìn nàng là anh thấy đau khổ vô cùng.
Chúng muốn anh làm cái quái gì đây Anh hy vọng tất cả nhân viên trong phi hành đoàn không chú ý đến tình trạng lo âu của anh. May thay là người nào cũng lo làm công việc của mình và họ không chen chúc nhau như trong các máy bay khác. Buồng máy của máy bay Boeing 314 rất rộng. Buồng lái rộng rãi nhưng chỉ chiếm một phần trong buồng máy thôi. Cơ trưởng Baker và phi công phụ Johnny Dott ngồi trên hai ghế ngồi cao kế bên nhau, trước mặt họ là máy móc điều khiển, một cánh cửa sập ngăn họ với căn buồng phía trước nằm ở mũi máy bay. Ban đêm, người ta có thể kéo những bức màn lớn ở phía sau các phi công để ngăn ánh sáng trong buồng chiếu vào phòng lái khỏi làm trở ngại tầm nhìn của họ lúc trời tối.
Chỉ một cái phòng lái thôi cũng rộng lớn hơn tất cả các phòng máy của hầu hết các loại máy bay khác, còn kể thêm các nơi khác nữa thì toàn thể phòng máy của máy bay này rất rộng. ở mạn bên trái của buồng máy, tức là hông bên trái khi nhìn tới trước, có kê cái bàn để bản đồ, dài hơn hai mét, anh hoa tiêu Jack Ashford đang cúi người trên đó, và phía sau anh ta là một cái bàn họp nhỏ, nơi Cơ trưởng thường ngồi khi ông không lái. Bên cạnh đó có một cửa gờ hình bầu dục, cửa này thông với lối đi dẫn vào trong cánh máy bay: đây là lối đi đặc biệt của chiếc Clipper, vì người ta có thể đi vào tiếp xúc với động cơ trong lúc đang bay, như bít một chỗ dầu chảy, mà không cần phải cho máy bay hạ xuống.
Bên mạn phải, nằm phía phải của buồng máy, có chiếc cầu thang nằm ngay phía sau chỗ ngồi của phi công phụ, cầu thang này dẫn xuống boong của hành khách Cho nên người ta phải đi qua buồng truyền tin, người điều hành buồng này là Ben Thompson, anh ta ngồi mặt nhìn về phía trước, Eddie ngồi phía sau Ben, mặt quay vào vách ngăn. Anh nhìn vào cái bảng có nhiều kim đồng hồ và một dãy máy móc điều khiển. Cách một tí về bên phải anh, có một cánh cửa ván hình bầu dục mở ra lối dẫn vào cánh máy bay bên phải. Cuối buồng máy, có một cánh cửa dẫn qua buồng để hành lý.
Toàn thể phòng máy dài hơn 6 mét một chút, rộng chừng ba mét, và chiều cao thì người ta có thể đứng thẳng ở đâu cũng được, chẳng gặp trở ngại gì.
Trong buồng có thảm lót sàn, có bộ phận cách âm, vải màu lục nhạt phủ vách máy bay, chỗ ngồi bọc da màu hạt dẻ, đây là buồng máy sang trọng nhất chưa máy bay nào có từ trước đến nay. Khi Eddie thấy chiếc thủy phi cơ này lần đầu, anh cứ tưởng chuyện người ta đùa chơi.
Nhưng bây giờ anh chỉ thấy những cái lưng cúi xuống và vẻ mặt chăm chú vào công việc của các bạn trong phi hành đoàn, anh mừng khi thấy họ không biết rằng anh đang sợ đến chết được.
Anh rất muốn biết lý do tại sao anh lâm vào cơn ác mộng này, cho nên anh muốn tạo cơ hội cho ông Luther bí mật kia xuất đầu lộ diện. Sau khi máy bay cất cánh rồi, anh kiếm cớ để đi qua các buồng của hành khách. Không tìm được lý do chính đáng, anh bèn lấy cớ tầm phào. Anh đứng dậy, đến nói nhỏ với người hoa tiêu:
– Tôi đi kiểm tra hệ thống dây chằng ở bánh lái, - nói xong, anh đi nhanh xuống cầu thang. Nếu có ai hỏi anh tại sao bây giờ anh lại đi kiểm tra bánh lái, anh sẽ trả lời vì linh cảm.
Anh từ từ đi qua các buồng hành khách.
Nicky và Davy đang phục vụ rượu và bánh nướng nhỏ cho khách hành khách thư giãn, họ nói chuyện bằng nhiều thứ tiếng. Trong phòng khách đang diễn ra một sòng bài. Eddie thấy nhiều khuôn mặt quen thuộc, nhưng anh đang bối rối trong lòng, nên không nhớ được tên của các nhân vật danh tiếng hiện đang có mặt trên máy bay. Nhiều người ngước mắt nhìn anh khi anh đi qua, anh hy vọng có người nào đấy trong số họ đứng ra nói cho anh biết hắn là Tom Luther, nhưng không có ai nói với anh lời nào.
Anh đi đến tận cuối máy bay, leo lên cái thang kê sát vách nằm gần cánh cửa vệ sinh nữ. Thang dẫn lên ô cửa nằm trên trần, từ ô cửa có lối đi dẫn đến khoảng trống ở sau đuôi. Đáng ra anh nên đến dây bằng cách theo boong trên và đi qua buồng chứa hành lý mới đúng.
Anh kiểm tra dây chằng rất nhanh rồi đóng ô cửa lại và xuống thang. Một cậu bé khoảng mười bốn hay mười lăm tuổi đang đứng đấy giương mắt nhìn anh, vẻ hiếu kỳ.
Eddie buộc lòng phải cười chào cậu ta. Cậu bé thầy vững dạ, bèn hỏi:
– Tôi xin phép vào thăm buồng máy được không?
– Được chứ, - Eddie rất tự nhiên. Anh không muốn có ai đến quấy rầy, nhưng máy bay này phải hơn các máy bay khác, phi hành đoàn phải đối đãi tử tế với hành khách, ngoài ra, công việc bận bịu này có thể giúp anh quên Carol-Ann một lát.
– Quá tuyệt, cám ơn.
– Cậu hãy về chỗ ngồi một lát, tôi sẽ đến tìm cậu.
Cậu bé gật đầu, đi về buồng của mình. Eddie thủng thỉnh đi trên lối đi giữa hai hàng ghế, cố đợi có người bước ra gặp anh; nhưng không ai nhúc nhích hết, anh đoán chắc anh chàng Tom kia đợi vào lúc vắng người mới bí mật tiếp xúc với anh. Anh có thể hỏi các tiếp viên ông Luther ngồi ở đâu là tiện nhất, nhưng thế nào họ cũng lấy làm lạ khi nghe anh hỏi, nên anh không muốn gây thắc mắc cho họ làm gì.
Cậu bé ngồi ở buồng số hai với gia đình, phía trước.
– Nào, ta đi, cậu. - Eddie nói, vừa cười chào cha mẹ cậu. Hai người gật đầu trả lời với vẻ không mấy nồng nhiệt. Một cô gái tóc dài - có lẽ chị của cậu bé - nhìn anh mỉm cười với vẻ hàm ơn, anh cảm thấy tim đập mạnh; khi cô ta cười, trông cô đẹp quá.
Khi hai người leo lên chiếc, cầu thang xoắn ốc, anh hỏi cậu bé:
– Cậu tên gì?
– Percy Oxenford.
– Còn tôi là Eddie Deakin, cơ khí trưởng.
Khi họ đã lên đến đầu cầu thang rồi, Eddie cố lấy giọng vui vẻ để nói với cậu bé:
– Hầu hết các buồng máy khác không đẹp như buồng máy này đâu.
– Nhìn chung thì chúng như thế nào?
– Trần trụi, lạnh lẽo và ồn ào. Và có nhiều dụng cụ kềnh càng, cứ mỗi lần mình nhúc nhích là vấp phải.
– Công việc của ông là gì?
– Tôi phụ trách về động cơ... Tôi chăm sóc cho chúng hoạt động tốt trong suốt chuyến bay đến Mỹ.
– Những cái cần và những mặt đồng hồ ấy dùng để làm gì thế?
– À những bộ phận điều khiển ấy để kiểm tra tốc độ quay của chong chóng, kiểm tra nhiệt độ của động cơ và hỗn hợp nhiên liệu. Cả bốn động cơ đều phải có những điều kiện như nhau. - Anh nghĩ nên nói đại khái như thế là đủ, nhưng cậu bé có vẻ thông minh. Nên anh cố giải thích thêm cho cậu ta hiểu rõ. – Nào cậu hãy ngồi vào chỗ của tôi đi, - anh nói. Percy vội vã làm theo. - Cậu nhìn mặt đồng hồ này nhé. Kim trên đồng hồ cho thấy nhiệt độ của động cơ số hai, động cơ trước là 205 độ bách phân. Như thế nhiệt độ quá gần với nhiệt độ tối đa cho phép, mà nhiệt độ cho phép tối đa là 232 độ khi bay đường trường. Cho nên ta phải làm cho động cơ nguội bớt đi.
– Ông làm sao cho nguội được?
– Cậu hãy nắm cái cần điều khiển này kéo lui một tí... đấy, thế đủ rồi. Bây giờ cậu mở bộ phận điều khiển nắp van mở ra khoảng hai phân để cho khí lạnh thông vào, chỉ trong một lát thôi là cậu thấy nhiệt độ hạ xuống ngay. Cậu có học vật lý rồi chứ?
– Tôi đi học ở một trường cổ lỗ, - Percy đáp. - Người ta dạy nhiều về tiếng La tinh và tiếng Hy Lạp, nhưng dạy về khoa học thì ít.
Eddie nghĩ rằng tiếng La tinh và tiếng Hy Lạp không giúp nước Anh thắng trận, nhưng anh không nói ý ấy ra.
– Những người khác làm gì? - Percy hỏi.
– À, nhân vật quan trọng nhất là người hoa tiêu: anh Jack Ashford đây, người đang đứng nơi bản đồ đấy. Jack có mái tóc màu nâu, cằm lún phún râu, nét mặt đầy đặn, anh ngẩng đầu nhìn cậu bé, cười thân ái. Eddie nói tiếp:
– Anh ấy tính toán để biết chúng ta đang ở đâu, việc này rất khó khi bay ở giữa đại tây dương.
Anh ấy có đài quan sát ở cuối đằng kia kìa, nằm giữa các phòng chứa hành lý, anh ấy có máy phân độ để định vị các vì sao và đo khoảng cách của chúng.
Jack nói tiếp:
– Đúng thế, đây là máy đo với cung 45 độ.
– Máy dùng để làm gì?
Jack chỉ vào cái máy rồi đáp:
– Khi máy nằm ở vị trí 45 độ so với mặt đất, thì cậu sẽ thấy rõ sao trên trời.
Người ta định vị trí các vì sao, so với chân trời. Nhìn vào góc phân độ trên máy bay qua kính này, rồi nhìn vào bản đồ, ta thấy được vị trí của mình đang ở đâu trên mặt đất.
– Nhìn có vẻ đơn giản nhỉ, - Percy nói.
– Trên lý thuyết thì thế đấy, - Jack cười đáp. - Nhưng vấn đề khó khăn khi bay là có thể chúng ta bay trong mây suốt cả đoạn hình tròn, khi ấy thì không làm sao thấy sao được.
– Nhưng nếu ông đã biết đi đâu rồi, ông có thể cứ theo hướng ấy mà đi, chắc ông không thể lạc đường được.
– Đi như thế người ta gọi là bay phỏng chừng.
Người ta có thể lạc đường vì bị gió thổi đẩy sang hướng khác – Người ta không đoán được bị lệch hướng bao nhiêu sao?
– Có các phương pháp để biết bị lệch hướng hay không chứ khỏi cần phải đoán chừng. Trong cánh máy bay có cánh cửa trập nhỏ, ở đấy tôi thả xuống một trái sáng và tôi nhìn trái sáng. ấy khi máy bay vẫn bay. Nếu trái sáng nằm theo đường thẳng với đuôi máy bay, thế là máy bay không bị lệch hướng; nhưng nếu nó di chuyển qua phía này hay phía kia, thế là máy bay đã bị lệch.
– Tôi thấy như thế cũng chỉ phỏng chừng thôi.
Jack lại cười:
– Đúng thế. Nếu tôi không gặp may và nếu tôi vẫn không xác định được vị trí của sao suốt cả đoạn hành trình trên biển, và nếu tôi phỏng đoán độ lệch sai, thì chúng tôi có thể bay đến một nơi khác cách xa từ 150 cho đến 200 cây số.
– Như thế thì chuyện sẽ xảy ra như thế nào?
Chúng tôi sẽ nhận ra máy bay đi lệch hướng chừng nào chúng tôi bay vào tầm sóng của một đài phát tín hay một đài phát thanh nào đấy, và nhờ thế, chúng tôi chỉnh lại hướng bay.
Eddie nhìn khuôn mặt của cậu bé sáng lên vì hiếu kỳ và ham học hỏi. Anh tự nhủ: ngày nào đó mình cũng giảng giải cho con mình nghe như thế này. Nghĩ thế bỗng anh nhớ đến Carol-Ann, anh cảm thấy đau nhói trong lòng như bị ai đánh. Ước gì cái ông Luther ấy xuất đầu lộ diện, chắc khi ấy Eddie cảm thấy đỡ hơn. Khi anh biết chúng muốn anh làm gì rồi, ít ra anh cũng hiểu được nguyên nhân tại sao chuyện khủng khiếp này đã xảy đến cho anh.
– Tôi xin phép nhìn vào bên trong cánh được không? - Percy hỏi.
– Được chứ, - Eddie đáp. Anh mở ô cửa thông và cánh bên phải. Lập tức tiếng máy gào rú và mùi dầu máy nóng hổi ùa ra. Phía trong cánh có một lối đi nhỏ nghiêng nghiêng. Phía sau hai động cơ đều có chỗ đứng vừa tầm cho một người đàn ông. Trong này người ta không trang hoàng, vì đây là nơi ngổn ngang những thứ cần thiết, thông dụng, như là hệ thống giữ động cơ cho chặt, đinh ốc, dây cáp và ống dẫn điện dẫn nước.
– Nơi này cũng giống như ở các buồng máy khác thôi, - Eddie hét lớn.
– Tôi vào xem được không? - Percy hỏi.
Eddie lắc đầu và đóng cửa lại.
– Rất tiếc, hành khách không được phép vào chỗ này.
– Để tôi chỉ cho cậu xem vòm quan sát của tôi, - Jack nói. Anh dẫn Percy đi qua cánh cửa phía sau buồng máy, và Eddie nhân cơ hội này xem lại các mặt đồng hồ, đã mấy phút rồi anh không xem. Tất cả đều tốt.
Người phụ trách buồng truyền thanh, Ben Thompson, cho biết tình hình ở Foynes:
– Gió Tây, 25 gút, biển động. - Một lát sau, trên mặt các đồng hồ của Eddie, ánh sáng trên tấm biển có chữ “đường trường” vụt tắt, và ánh sáng trên tấm biển có chữ “hạ cánh” bặt sáng. Anh xem các kim đồng hồ chỉ nhiệt độ, rồi bấm nút trả lời trên tấm biển có chữ “Động cơ tốt hạ cánh được”. Việc kiểm chứng này rất cần thiết, vì các động cơ, với tỷ lệ sức ép cao, dễ bị hư hỏng do giảm trọng nhiên liệu đột ngột gây ra.
Eddie mở cánh cửa thông ra phía sau máy bay. Một lối đi hẹp chạy từ mũi tàu đến tận đuôi tôm, hai bên lối đi có buồng chứa hành lý. Trên lối đi, có một cái vòm, muốn lên vòm, phải leo lên cái thang. Percy đang đứng trên thang, nhìn vào máy định vị các vì sao. Tiếp theo các buồng chứa hành lý, là buồng có kê giường ngủ cho phi hành đoàn, nhưng anh không vào đấy: các nhân viên chưa đến phiên làm việc đã dùng buồng số một. Cuối lối đi là cánh cửa ô thông với đuôi tàu, nơi dây chằng điều khiển bánh lái lồng vào. Eddie gọi lớn:
– Jack, tàu sắp hạ cánh.
– Đã đến lúc về chỗ ngồi rồi đấy, cậu ơi, - Jack nói.
Cậu bé ngoan ngoãn vâng lời, bước xuống thang về lại buồng của mình.
Tiếng động cơ thay đổi, máy bay hạ thấp dần. Phi hành đoàn bắt tay vào công việc quen thuộc để máy bay hạ cánh. Có lẽ Eddie nên nói cho mọi người biết chuyện đã xảy đến cho mình. Anh cảm thấy hết sức cô độc. Họ đều là bạn bè đồng nghiệp của anh; họ tin tưởng nhau; họ đã cùng nhau vượt qua đại tây dương; chắc anh phải nên nói cho họ biết nỗi khổ tâm của anh và hỏi ý kiến của họ mới được. Nhưng làm thế thì quá nguy hiểm.
Anh đứng nhìn qua cửa sổ máy, bay một lát. Anh thấy một thành phố nhỏ.
Anh nghĩ đấy là thành phố Limerick. Nằm bên ngoài thành phố, trên bờ phía Bắc của của sông Shannon, người ta đang xây một phi cảng cho máy bay và thủy phi cơ. Trong lúc chờ đợi công việc hoàn tất, thủy phi cơ hạ cánh trên mép Nam của cửa sông nằm khuất bên một hoàn đảo nhỏ, cạnh một ngôi làng có tên là Foynes.
Máy bay đang bay theo hướng Tây Bắc, cho nên Cơ trưởng Baker phải cho nó chuyến hướng 45 độ để hạ xuống ngược với gió tây. Một chiếc ca nô của làng phải đi tuần quanh khu vực máy bay đáp, để xem có vật gì nổi trên mặt nước có thể gây hư hại cho máy bay không. Chiếc tàu tiếp tế nhiên liệu hẳn đang đậu gần đâu đấy, chở những thùng có dung lượng hai trăm lít, và có lẽ có nhiều người hiếu kỳ tụ tập trên bờ, họ đến để chiêm ngưỡng chiếc tàu thủy bay được.
Ben Thompson nói trên máy micro ở phòng phát thanh. Khi còn ở xa vài cây số, anh phải liên lạc bằng cách đánh moóc, nhưng bây giờ ở gần, nên anh có thể nói bằng miệng trên máy. Eddie không nghe rõ anh ta nói cái gì, nhưng nghe giọng bình tĩnh thư thái của Ben, anh chắc mọi việc đều tốt đẹp.
Máy bay xuống thấp dần. Eddie chăm chú kiểm soát các mặt đồng hồ, chốc chốc lại chỉnh các thứ trên hệ thống điều khiển. Công việc quan trọng nhất là điều chỉnh sao cho tốc độ quay của động cơ hoạt động đồng bộ nhau, công việc này phải rất khéo léo khi phi công tăng hay giảm nhiên liệu.
Tàu đáp trên mặt biển yên tĩnh là một chuyện không có gì đáng lo ngại.
Trong trường hợp lý tưởng này, thân chiếc Clipper sẽ hạ xuống nước như cái muỗng múc vào ly kem. Eddie ngồi trước bảng điều khiển, chăm chú vào công việc, thường thì mấy giây sau khi máy bay đã chạm vào mặt nước, anh mới nhận ra máy bay đã hạ cánh. Nhưng hôm nay biển động, công việc rất phức tạp.
Phần dưới đáy vỏ thu, được gọi là “lườn” chạm vào nước trước tiên, phát ra tiếng kêu tốc tốc tốc nhè nhẹ khi nó chạm phớt lên đầu các ngọn sóng. Hiện tượng này chỉ kéo dài một hay hai giây thôi, rồi cả chiếc máy bay khổng lồ chìm xuống nước khoảng vài phân trong một lát mới chìm sâu dưới mặt nước. Eddie thấy máy bay đáp xuống nước êm hơn đáp trên mặt đất đáp trên mặt đất thường bị va chạm, mạnh và thỉnh thoảng chạm nhiều lần mới hết. Rất ít bụi nước bay lên cửa sổ ở buồng máy, vì buồng máy nằm ở trên cao của thân tàu. Phi công ngắt ga và máy bay chậm lại ngay. Chiếc thủy phi cơ đã trở thành chiếc tàu thủy.
Trong khi máy bay lướt từ từ đến chỗ thả neo, Eddie lại nhìn qua các cửa sổ bên hông tàu. Một bên là đảo, hòn đảo thấp, trơ trụi, anh thấy một ngôi nhà nhỏ trắng và mấy con cừu. Phía bên kia là đất liền. Anh thấy có cái đê chắn sóng, mặt đê rất tốt, bên bờ đê có một chiếc tàu đánh cá lớn đang đậu; anh còn thấy mấy cái bồn chứa nhiên liệu lớn, và rải rác có mấy cái nhà màu xám. Đấy là Foynes.
Không như ở Southampton, ở Foynes không có đê xây dành cho thủy phi cơ, cho nên chiếc Clipper phải thả neo trong cửa sông, và có ca nô đến chở khách lên bờ. Việc thả neo để neo máy bay là trách nhiệm của cơ khí trưởng.
Eddie đi tới, quỳ xuống giữa hai chỗ ngồi của phi công, anh mở nắp sập để đi vào buồng ở trước mũi máy bay. Anh bước xuống cầu thang. Anh đi tới, mở cánh cửa trước mũi máy bay, rồi thò đầu ra ngoài. Không khí mát lạnh thoảng mùi muối, anh hít vào một hơi thật dài.
Một chiếc ca nô chạy đến, cặp sát vào thân máy bay. Một người trên đó ra dấu cho Eddie. Anh ta cầm cái neo được buộc vào phao rồi ném xuống nước.
Trong mũi máy bay có chiếc cần cẩu có thể xếp gọn lại được. Eddie lấy cần cẩu ra, cài chúng vào vách máy bay, rồi lấy cái sào dài có móc ở một đầu móc vào cái neo đang nổi trên mặt nước, và cài chặt đầu kia sào vào cần cẩu: thế là chiếc thủy phi cơ đã được neo lại. Anh đưa ngón tay cái làm dấu cho cơ trưởng Baker biết, ông đang ngồi trên cao, sau kính chắn gió.