Đảo châu báu - Chương 11 - 12 - 13
Chương 11
Mọi người rầm rập chạy lên boong. Tôi vội chui ra khỏi thùng lê, lẩn sau cột buồm rồi đi vòng lại. Một dải sương mù đã lên cao. Vừa lúc ấy vầng trăng cũng nhô lên. Xa xa về phía tây nam, hai cái gò thấp cách nhau chừng hai dặm; đằng sau một cái nữa cao hơn, đỉnh gò còn khuất trong sương mù. Cả ba đều nhọn như hình chóp nón. Tôi nhìn cảnh ấy như trong một giấc chiêm bao. Tiếng ông thuyền trưởng hỏi:
- Có anh nào biết đảo này không?
Gã Xin-ve lên tiếng ngay:
- Có, tôi đã đến đó khi tôi còn làm bếp cho một chiếc tàu buôn.
- Chỗ bỏ neo ở phía nam, sau cái đảo con phải không?
- Thưa ông phải. Người ta vẫn gọi đảo ấy là đảo Hình Người. Cái gò phía bắc gọi là gò Cột Cái. Còn cái gò lớn có mây phủ kia là gò Vọng Viễn. Người ta gọi thế, vì ở trên ấy có thể trông xa trong khi thả neo để rửa tàu.
- Có bản đồ đây, anh xem thử có đúng không?
Khi cầm bản đồ, mắt Xin-ve long lanh, nhưng kịp trông màu giấy còn mới, gã phải thất vọng vì đó chỉ là bản sao lại. Tuy thất vọng, nhưng gã tinh khôn, không để lộ ra mặt. Gã bảo:
- Thưa ông! Chính phải! Vẽ khéo lắm!
Tôi rất lấy làm lạ về cử chỉ bình tĩnh của gã khi gã nhận có biết khu đảo. Thú thật lúc thấy gã lại gần tôi, tôi hơi rợn. Dĩ nhiên là gã không biết tôi ngồi nấp trong thùng lê, nhưng tôi ghê sợ cái tính ác độc và cái sức mạnh đen tối của gã. Vì thế khi gã chạm đến tay tôi, tôi rùng mình như chạm phải miệng rắn độc. Gã nói với tôi:
- Chà! Cái đảo này tuyệt đẹp! Trẻ tuổi như cậu mà lên chơi đó thì thật sướng. Tha hồ mà trèo nhảy, thung thăng như con thỏ rừng. Tôi được đến những chỗ này cũng thấy mình như trẻ ra. Khi nào có lên chơi thì bảo tôi, tôi có ít đồ ăn lót dạ cho cậu dùng.
Nói xong, hắn vỗ vai tôi rồi chống nạng đi xuống. Tôi thấy ông thuyền trưởng đứng nói chuyện với bác sĩ và ông Chi ở đằng lái. Tôi không dám cắt đứt câu chuyện của ba ông. May sao bác sĩ vừa thấy tôi đã vẫy lại, bảo tôi đi lấy cái tẩu thuốc. Đến gần, tôi nói ngay:
- Tôi có nhiều chuyện cấp bách muốn báo với ba ông.
Nét mặt bác sĩ hơi khác, sau trở lại như thường. Ông nói to lên một cách tự nhiên:
- Cám ơn cậu Dim!
Chỉ có thế! Xong ông quay lại, chuyện trò với hai ông kia. Một chốc sau thuyền trưởng cho thổi còi tập hợp. Ông nói:
- Hỡi các bạn, chúng ta đã tới đích. Tất cả anh em đều làm tròn việc. Ông Chi có lòng tốt đem rượu cho anh em uống để mừng. Chúng tôi cũng sắp xuống phòng dưới uống với nhau vài cốc. Nếu các anh đồng ý, chúng ta nên hoan hô cảm ơn ông Chi.
Mọi người đều hò reo vui vẻ. Ba ông xuống phòng. Lúc tôi bước vào thì ba người đương ngồi quanh bàn, trên có chai rượu và vài chùm nho. Trông thấy tôi, ông Chi bảo ngay:
- Cậu Dim muốn nói gì, nói đi!
Tôi vội vàng thụât lại những lời của Xin-ve. Trong khi tôi nói, mọi người ngồi im phăng phắc, mắt dán vào tôi. Tôi nói xong, bác sĩ rót cho tôi một cốc rượu và giúi vào tay tôi rất nhiều nho. Cả ba cùng nâng cốc uống mừng về sự quả cảm và nhanh trí của tôi. Uống xong, ông Chi nói trước:
- Ông thuyền trưởng, trước nay tôi đối với ông rất không phải. Bây giờ tôi mới biết tôi lầm. Tôi quả là đồ ngốc.
- Tôi đây mới ngốc chứ! Cả một vụ âm mưu cướp tàu ở ngay dưới mắt tôi mà tôi không hề biết! Bây giờ thì tôi có mấy ý kiến xin phép tỏ bày...
- Vâng, ông cứ nói.
- Điều thứ nhất là chúng ta phải tiếp tục đi, vì nếu quay về là lập tức chúng sẽ khởi loạn! Điều thứ hai là từ nay cho đến khi tìm thấy của, ta còn có thời giờ chuẩn bị. Điều thứ ba là ta còn có những người trung thành. Bây giờ ta sẽ đợi cơ hội bất ngờ là hành động. Nếu ông thuận, tôi cứ việc cho tàu chạy nhưng sẽ bố trí đề phòng!
Bác sĩ Ly nói:
- Cậu Dim có thể giúp ta được nhiều việc. Chúng không nghi cậu mà cậu lại có óc nhận xét. Từ nay trở đi cậu nhớ luôn luôn theo sát lão Xin-ve.
Ông Chi nói thêm:
- Cậu Dim, cậu là một cậu bé rất gan dạ, chúng tôi hy vọng ở cậu nhiều.
Tôi nghe nói thế cũng thấy tự hào. Tôi mong có cơ hội là cố gắng làm theo lời dặn của bác sĩ Ly. Nhưng tự xét tôi cũng chẳng tài cán gì, mà hiện nay, trong số bảy người của chúng tôi thì tôi lại là một đứa trẻ! Như thế là chỉ có sáu người mà phải chống chọi với mười chín tên lực lưỡng trong bọn chúng.
Chương 12
Sáng hôm sau, đứng trên boong nhìn ra, tôi thấy cảnh tượng khu đảo khác hẳn. Những dãy núi phơn phớt màu xám chiếm gần hết khu đảo. Lác đác có những dải cát vàng và những khóm thông cao. Tất cả một màu ảm đạm. Núi gò nhô hẳn lên phơi những tảng đá trơ trụi. Cái nào cũng hình thù cổ quái. Gò Vọng Viễn là gò cao nhất trong đảo. Hình dáng nó cũng kỳ khôi, bốn bề dốc ngược, trên đỉnh như bị tiện ngang, trông giống cái đế một pho tượng. Tàu phải đi ngoắt ngoéo men theo đảo để đến cái lạch sau đảo Hình Người. Neo vừa bỏ, một đàn chim đã bay vù lên, rồi cảnh vật trở lại yên tĩnh. Chung quanh, rừng cây mọc um tùm. Bờ biển thấp, những gò cao đằng xa trông từng bậc như bậc thang. Hai con sông vẩn bùn chảy vào vũng ấy. Không một rẻo gió. Ngoài tiếng sóng vỗ bờ cách xa nửa dặm, chẳng nghe tiếng gì khác nữa. Mùi thân cây ruỗng thối và lá cây mục xông lên nồng nặc. Tôi thấy bác sĩ Ly cứ khìn khịt mũi như người ngửi phải trứng thối...
Lúc ấy mặt trời nóng bức. Không khí trên tàu cũng bừng bừng. Trong đám thủy thủ đã có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại. Họ túm tụm với nhau từng đám, thầm thì to nhỏ. Mắt họ gườm gườm, mặt họ đầy sát khí. Việc nổi loạn đã rõ rệt. Nó bao phủ chúng tôi như cơn dông sắp đến. Tên Xin-ve có lẽ cũng nhận thấy thế nên hắn chạy lăng xăng cố lấy lời phải chăng khuyên nhủ mọi người. Lệnh vừa truyền, hắn đã xung phong làm trước. Có lúc hắn cố hát to và bông đùa để làm khuây lãng nỗi uất ức của đồng bọn. Ông thuyền trưởng gặp riêng chúng tôi và bảo:
- Chúng ta bây giờ như ở vào cái thế của người cưỡi hổ. Nếu tôi bắt họ tuân lệnh thì họ nổi xung ngay. Nếu im lặng, thì Xin-ve tất sinh nghi. Bây giờ tôi định cho họ lên bờ nghỉ. Nếu họ đi, ta giữ lấy tàu. Nhược bằng không đi, ta giữ lấy mấy gian phòng mà chống cự. Nhưng muốn cho công việc được ổn thỏa, ta có thể trông cậy vào một người.
Ông Chi hỏi ngay:
- Ai? Thuyền trưởng đáp:
- Thưa ông, Xin-ve! Chính hắn cũng muốn êm chuyện. Như lời cậu Dim, hắn muốn đợi khi ta tìm xong của mới ra tay, nên hắn có thể dàn xếp yên được.
Thế là kế hoạch bắt đầu được thực hiện. Những súng lục nạp đạn đều phân phối trong bọn chúng tôi. Những người thân tín như Hun-tơ, Do-sơ, lão Ri đều được biết chuyện. Họ chẳng hề ngạc nhiên hay sợ sệt. Trái lại, họ tỏ ra rất bình tĩnh và gan dạ. Thật là một sự khích lệ. Ông thuyền trưởng lên boong tuyên bố cho phép thủy thủ lên bộ chơi. Trước khi mặt trời lặn sẽ bắn đại bác báo hiệu về. Nói xong, ông bỏ đi xuống để cho Xin-ve tự nhiên trở thành người đứng ra chỉ huy công việc. Kết quả là có người ở lại và mười sáu người xuống thuyền đi chơi, trong đó có Xin-ve. Nhớ lời bác sĩ Ly căn dặn là luôn luôn phải theo sát Xin-ve, tôi bỗng nảy ra ý định xuống thuyền đi theo dõi Xin-ve. Tôi nghĩ rằng Xin-ve chỉ để lại sáu người thì không thể chiếm tàu mà đi được. Tôi ở lại tàu cũng bằng thừa. Cứ đi theo chúng xem sao. Thế là trong nháy mắt tôi lần xuống thuyền, ngồi thụp xuống. Kịp khi Xin-ve biết thì thuyền tôi đi trước đã cập bờ. Tôi nhảy tót lên lẩn vào bụi rậm, còn nghe tiếng Xin-ve gọi với đằng sau:
- “Dim, Dim!"
Lánh được Xin-ve, tôi khoan khoái lạ lùng. Cảnh lạ làm tôi vui mắt. Rừng ở đây liễu mọc chen chúc, lau sậy um tùm. Có những cây sên lùn tịt thấp lè tè như bụi rậm, cành xoắn lại, lá rậm sin sít như mạ xanh. Rắn bò lúc nhúc. Lần đầu trong đời, tôi được nếm cái thú vị của người thám hiểm khi đặt bước lên miếng đất hoang vu chưa có dấu chân người. Thốt nhiên, có tiếng động trong khóm lau. Một con le, rồi cả đàn le bỗng bay vù lên, tiếng kêu inh ỏi. Tiếp đó, tôi nghe rõ tiếng người. Tiếng ấy làm tôi hoảng sợ vì tôi biết ngay là tiếng nói của gã Xin-ve. Tôi đã định bỏ chạy, nhưng sau tôi nghĩ lại. Mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Đã có gan đi theo chúng, sao lại không có gan lại gần chúng để xem chúng làm gì? Thế là tôi bò lại chỗ có tiếng người, bò thật cẩn thận. Tôi thấy rõ Xin-ve và một người nữa trong bọn đang ngồi đối diện trên bãi cỏ xanh. ánh nắng chiếu thẳng vào mặt hai người. Tiếng Xin-ve đương nói:
- Có tin cậy anh lắm thì tôi mới cất công đến đây bảo với anh. Giá phải người khác... anh thử nghĩ đối với họ tôi sẽ xử trí như thế nào?
Người kia đáp lại, mặt đỏ gay, giọng khàn khàn, run run:
- Anh Xin-ve! Tôi không ngờ anh lại đi theo bọn khốn nạn kia! Chẳng thà tôi chịu chặt tay còn hơn phải làm chuyện ấy.
Xin-ve bỗng chống nạng vụt đứng lên, đôi mắt ti hí sáng chói như mắt rắn độc rình mồi, hỏi gặng:
- Thế là anh nhất quyết không nhập bọn với tôi phải không?
Người kia bỗng tức giận quát to:
- Xin-ve! Khi xưa anh là bạn của tôi. Từ nay tôi xin từ mặt anh ra. Nếu có giỏi, anh cứ giết tôi. Tôi thách anh đấy!
Nói xong, người kia bỏ đi. Xin-ve hét to một tiếng, nhấc cái nạng ở nách, nhặt một cành cây lao theo. Đầu cành cây trúng ngay giữa lưng người kia. Ông ta giơ hai tay lên, lảo đảo rồi ngã gục. Người đó chưa kịp nhỏm lên thì Xin-ve đã chạy lại, cưỡi lên, rút dao hạ thủ. Xong, con quỷ dữ ấy lại bình tĩnh đội mũ lên, chống nạng đi lững thững. Cảnh tượng xung quanh vẫn không thay đổi. Mặt trời vẫn thản nhiên chiếu xuống mặt hồ đương bốc hơi. Nhìn phong cảnh ấy, khó lòng mà tin rằng có một việc giết người rất tàn ác vừa xảy ra. Tôi đưa tay xoa mắt, bàng hoàng cả người. Tôi bỗng muốn rời ngay, rời tức khắc cái nơi giết người gớm ghiếc này. Tôi bò nhanh ra rừng rồi cắm đầu cắm cổ chạy.
Chương 13
Đến gần một cái đầm, tôi đứng dừng lại. Tôi bỗng thoáng thấy sau một gốc thông, có một vật gì nhảy nhanh lạ thường. Tôi chỉ biết hình thù nó đen và lông lá. Sợ quá, tôi quay gót lui về phía tàu đỗ. Thoáng cái, cái bóng lúc nãy lại hiện ra, nó đi một vòng dài rồi đến chặn ngang trước mặt tôi. Con quái vật ấy nhảy từ gốc cây nọ qua gốc kia như một con nai. Hắn chạy hai chân như người. Mà quả là người thật. Tôi chợt nhớ có lần tôi đã nghe nói đến giống người ăn thịt người. Tôi định kêu cứu. Nhưng đã là người, thì chắc cũng không đến nỗi như tên Xin-ve gớm ghiếc kia. Nghĩ thế tôi trở lại bình tĩnh. Vụt nhớ đến khẩu súng lục trong mình, tôi đâm vững dạ. Tôi quay về hắn, mạnh bạo tiến lại. Hắn cũng nhô ra, bước lại phía tôi. Nhưng hắn hơi ngần ngại, lùi lại một lúc mới tiến lên. Rồi hắn bỗng quỳ xuống, giơ hai tay ra như van xin, làm tôi vừa lạ lùng vừa bối rối. Tôi hỏi:
- Anh là ai?
- Tôi là Ben-gun. Tôi là kẻ khốn nạn đã ba năm nay chưa được gặp một người.
Tiếng hắn rè đặc như tiếng khóa gỉ. Mặt hắn trông cũng dễ coi. Da hắn phơi nắng nên chỗ nào cũng cháy sém. Đôi mắt xanh trên khuôn mặt đen mò. Hắn ăn mặc rách rưới lổ đổ như tổ ong. Hắn đính vào người đủ các thứ mảnh buồm cũ, vải sơn, khuy đồng, dây rợ. Hắn đeo quanh mình một chiếc thắt lưng bằng da đã cũ. Xem ra, trong bộ quần áo của hắn, thứ này còn lành lặn hơn cả. Tôi hỏi hắn:
- Anh ở đây đã ba năm rồi ư? Anh bị đắm tàu giạt vào đây phỏng?
- Không! Tôi bị đày. Người ta đày đọa tôi ở đây, tôi phải săn dê, tìm quả, mò ốc hến để ăn. Này ông bạn ơi! ông có miếng phó-mát nào đấy không? Chắc không rồi! Lâu nay tôi chỉ mơ tưởng được ăn miếng phó-mát. à quên! Tên anh là gì nhỉ?
- Dim!
- Dim, Dim! - Hắn nhắc lại, ra vẻ bằng lòng lắm.
- Anh Dim ạ! Nói ra thật xấu hổ. Anh trông tôi thế này, tất không đoán được tôi còn có mẹ già. Mẹ tôi là người ngoan đạo. Mà trước kia tôi cũng là đứa trẻ rất ngoan đạo. Tôi đọc kinh làu làu. Vậy mà bây giờ ra thế này. Thôi! Chính Chúa Trời đã phạt tôi ở đây. ở trên hoang đảo này, tôi có thì giờ nghĩ kỹ rồi. Tôi sẽ tu tỉnh làm ăn...
Bỗng mặt hắn sa sầm, rồi hắn chỉ vào tôi và hỏi:
- Anh phải nói thật cho tôi biết, anh có phải là người của Phơ-linh không?
Tôi bỗng nảy ra một ý hay. Tôi chắc hắn có thể là một tay cộng tác tốt với chúng tôi. Tôi đáp:
- Tôi nói thật cho anh rõ: Phơ-linh chết rồi. Hiện chỉ còn mấy tên thủ hạ khốn nạn của lão ấy trên tàu chúng tôi thôi.
Hắn ấp úng hỏi:
- Thế có đứa nào cụt chân không?
Tôi bảo:
- Xin-ve phải không?
Hắn nói như đuối hơi:
- Nếu Xin-ve sai anh lại đây thì tôi nguy mất.
Tôi thuật lại tất cả chuyện của chúng tôi cho hắn nghe. Mặt hắn tươi dần, rồi sau cùng hắn niềm nở vỗ vào vai tôi:
- Các anh đừng sợ. Xin các anh cứ tin cậy ở Ben này. Ben này có thể giúp các anh gỡ chỗ bí. Nhưng không biết cái ông quý tộc nhà anh có rộng lượng với kẻ này không?
Tôi bảo ông Chi là người rất hào hiệp và tôi cam đoan đảm bảo cho hắn. Hắn lại hỏi một cách láu lỉnh:
- Thế còn chuyến về?
Tôi đáp:
- Anh nên nhớ ông ta là người lớn. Vả lại nếu trừ xong bọn kia, chúng tôi cũng phải cần đến anh để cho tàu vào bến.
- À ra thế!
Nói xong, hắn có vẻ yên tâm hơn trước. Câu chuyện giữa Ben và tôi dần dà làm tôi vỡ lẽ vì sao Ben lại sống ngoài đảo hoang vu này. Chuyện đó như sau: Xưa kia Ben làm việc dưới tàu của lão Phơ-linh. Một hôm Phơ-linh cho tàu chạy đến đảo này. Khi cập bến, lão bắt sáu tên thủ hạ đi chôn kho vàng của lão. Khi chôn xong lão sợ bị tiết lộ, bèn giết hết sáu tên thủ hạ đó. Lúc đó Ben ở dưới tàu với Piu và Xin-ve. Piu lúc đó làm phó thuyền và Xin-ve làm đội trưởng. Ba năm sau, nhớ đến kho vàng, Ben cùng một số thủ hạ thuê tàu vượt đến đảo này. Họ mưu cùng nhau tìm kho vàng của lão Phơ-linh để về làm giàu, nhưng tìm không ra. Bọn thủ hạ tức giận bỏ Ben lại đảo với một khẩu súng tay và một cái thuổng. Ben nói:
- Anh cứ nói với nhà quý tộc rằng ba năm tôi ở đảo... cũng làm... ra trò đấy.
Nói đến đây, hắn béo tôi một cái ra ý thân mật. Tôi sốt ruột bảo:
- Bây giờ làm thế nào anh giúp tôi xuống được tàu đây!
Hắn nói:
- Kể cũng khó! À, tôi có một chiếc xuồng do tay tôi đóng lấy. Tôi giấu nó dưới hốc đá trắng đầu kia... Kìa! Cái gì thế?
Thốt nhiên hắn kêu to lên, vì lúc ấy mặt trời còn cao mà tiếng đại bác dưới tàu đã nổ vang làm rung động cả khu đảo.
- Đánh nhau rồi!
Tôi cũng kêu to lên, rồi hấp tấp chạy về phía tàu đỗ. Bên cạnh tôi, Ben-gun khoác áo da dê bước nhanh thoăn thoắt. Một tiếng đại bác nữa. Một lúc lâu, có tiếng súng tay nổ liên hồi. Trước mặt tôi, lá quốc kỳ phất phới trên một khu rừng. Ben-gun bỗng ngồi thụp xuống:
- Kìa! Bọn anh đã thắng rồi. Họ đã lên bờ chiếm cái khu đồn cũ của lão Phơ-linh kìa!
Tôi bảo:
- Thế thì phải đến ngay đấy mới được!
Hắn nói:
- Không! Anh Dim ạ, anh tốt bụng nhưng anh còn ít tuổi. Trước khi chưa gặp nhà quý tộc, tôi chưa đi với anh đến đó đâu. Anh về nhớ nói cho người đến, mà phải mang theo cái gì làm tin. Tôi hỏi:
- Nhưng gặp anh ở chỗ nào và vào lúc nào mới được chứ?
Hắn đáp:
- Cứ đến chỗ cũ anh vừa gặp tôi, từ lúc mặt trời đứng bóng cho đến khi lặn, mà nhớ phải có cái gì làm tin đấy.
Hắn lại tiếp:
- Nếu bọn chúng mà lên đóng trên đảo thì thế nào tôi cũng tìm cách giết một vài tên để giúp bọn các anh và để các anh biết lòng dạ ngay thật của tôi.
Hắn vừa nói đến đấy thì có một tiếng nổ dữ dội, rồi một viên đạn đại bác nổ oàng gần chỗ chúng tôi đứng. Hai chúng tôi mỗi người chạy một ngả.