Quỷ Dữ và Nàng Prym - Chương 10 + 11 + 12
Chương 10
Ông linh mục cũng biết do vô số các truyền thuyết và những câu chuyện hoang đường từng được lưu truyền ở xứ sở này, do chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng của những người Celte và các tà thuyết Tin lành, sau đó là những tấm gương xấu xa của đám dân Ả rập đã từng có thời trấn giữ thành phố, do sự tụ họp thường xuyên của đủ các dạng trộm cướp lẫn thánh nhân cho nên Viscos không phải là một xứ quá sùng đạo, mặc dù những người dân nơi đây vẫn cố giữ nếp làm phép cưới và lễ đặt tên thánh tại nhà thờ (mà đến nay chúng chỉ còn là những hoài niệm), đọc kinh cầu hồn cho người đã qua đời (việc này mỗi năm lại thường xuyên hơn) và đến dự thánh lễ Giáng Sinh. Dù có rất ít người trong thị trấn khó nhọc lắm mới tự bắt mình đến dự lễ misa vào lúc 11 giờ trưa thứ bảy và chủ nhật hàng tuần, nhưng ông linh mục vẫn hành lễ đều đặn, cốt để biện hộ cho sự hiện diện của mình ở Viscos. Ông ta muốn được nhìn nhận là một người ngoan đạo và cốt chứng tỏ mình không phải là kẻ ăn không ngồi rồi.
Ông quá đỗi ngạc nhiên khi thấy nhà thờ đông nghẹt chật cứng đến nỗi ông phải cho một số con chiên ngồi lên sát tận bàn thờ, nếu không nhiều người sẽ chỉ còn cách đứng bên ngoài. Dân chúng chen chúc nhễ nhại mồ hôi khiến ông linh mục không cho chạy lò sưởi điện gắn trên trần mà còn ra lệnh cho mở hai ô cửa sổ ở hai bên rồi tự hỏi chính mình nguyên do gì dẫn đến cái cảnh chen chúc như nêm thế này – do oi bức quá chăng hay do nỗi lo lắng bóp nghẹt tất cả mọi người.
Cả thị trấn đều tập trung đến nhà thờ chỉ trừ Prym (có lẽ do xấu hổ với mọi người vì những điều trót nói trước đó) và bà lão Berta khiến mọi người kính sợ như một mụ phù thuỷ mà đối với bà lão lễ trọng của Cơ đốc giáo là thứ không thể chịu nổi.
- Nhân danh Cha, Con và Thánh thần!
Tiếng "Amen" râm ran lan tỏa dưới những nếp mái vòm nhà thờ. Ông linh mục bắt đầu buổi lễ bằng bài Tín Kinh và như thường lệ, giao cho một trong số các con chiên nữ ngoan đạo nhất của mình cao giọng xướng bài kinh nguyện. Với vẻ trang trọng, ông ngâm tụng thánh ca, rồi cất giọng đều đều và rành rọt đọc kinh Phúc Âm. Sau đó ông đề nghị mọi người nhanh chân kiếm chỗ ngồi trên các hàng ghế băng ngồi xuống, còn những người khác tạm đứng vậy.
Đến phần thuyết giáo.
Trong Sách Phúc Âm Luca kể rằng, có một viên quan đến bên Chúa Jesus và hỏi: "Thưa thầy nhân từ, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?" Và tất cả cùng kinh ngạc khi Chúa Jesus phán rằng, "sao ngươi gọi ta là nhân từ? Chỉ có một Đấng nhân từ là Đức Chúa Trời".
Suốt bao năm qua, tôi đã trăn trở nghĩ suy về đoạn ngắn này trong Kinh Thánh để cố hiểu xem Chúa của chúng ta có ý gì khi nói rằng Người không nhân từ. Toàn bộ Cơ đốc giáo được xây dựng trên tư tưởng nhân từ, dựa trên những giới luật của một người tự coi mình là đại diện của cái Ác là nghĩa làm sao? Và rồi cuối cùng tôi đã hiểu, bấy giờ Chúa Kitô muốn nói đến bản chất con người của mình, ở tư cách này trong Người tràn ngập cái Ác, còn với phẩm cách thánh thần, Người là hiện thân của cái Thiện.
Ông linh mục ngừng lời để các con chiên hiểu ra cái thâm ý trong những lời ông vừa nói. Tuy nhiên, ông đã lừa dối chính mình, vì vẫn như trước đây ông không thể hiểu nổi những lời nói của Chúa Kitô bởi nếu Người – với tư cách là một con người – luôn chất chứa cái Ác, thì từ lời nói đến hành động của Người cũng phải như vậy chứ. Mà thôi, cứ để cho các học giả thần học nghiền ngẫm về điều này, còn hiện giờ không phải là lúc để làm việc đó, lúc này cần phải làm sao cho những lời biện giải nghe thật có sức thuyết phục.
- Hôm nay tôi sẽ nói thật ngắn gọn. Chỉ mong sao tất cả các vị nhận thức được mỗi người phải luôn hiểu rằng, tất cả chúng ta vê bản chất là những kẻ thấp hèn và lầm lạc. Vì thế, phải chịu sự đầy đọa đời đời nơi địa phủ, nếu như Chúa Jesus không quên mình tuẫn tử để cứu vớt nhân loại. Tôi nhắc lại sự hy sinh của người con của Đức Chúa Trời đã cứu vớt chúng ta, sự hy sinh của một người đi cứu vớt toàn nhân loại.
Để kết thúc bài thuyết giảng, tôi xin nhắc các vị nhớ lại phần đầu trong một cuốn sách thánh của Cựu Ước – Sách Job. Một ngày kia, Satan đến ra mắt Đức Chúa Trời đang ngự trên ngôi cao. Đức Chúa Trời bèn phán hỏi Satan rằng:
"Ngươi ở đâu đến?"
Satan thưa:
"Tôi ngao du khắp thế gian."
"Ngươi có thấy Job, tôi tớ của ta chăng? Ngươi có thấy nó kính sợ ta, dâng cho ta đủ mọi thứ lễ vật không?"
"Nói cho cùng, Job có đủ mọi thứ, vậy nên làm sao Job không kính sợ Đức Chúa Trời và dâng hiến lễ vật cho được?" – Satan cười sằng sặc và trả lời. – "Người cứ thử tước đi tất thảy những gì đã ban cho nó xem, liệu khi đó, nó còn kính sợ Người như trước chăng?"
Đức Chúa Trời chấp nhận cuộc thách đố này. Hết năm này sang năm khác, Người trút đủ mọi nỗi đau đớn bất hạnh xuống đầu kẻ đã trung thành với Người đến thế. Job phải đương đầu với một sức mạnh siêu phàm và coi nó là biểu hiện cho sự Công Bình của Đấng Tối Cao, mặc dù bị tước đi mọi thứ của cải mình có, mất đi con cái và đau đớn vì ung nhọt nổi đầy thân thể. Cứ như thế cho đến khi ông ta nếm trải đủ mùi cay đắng và buông lời than trách Chúa Trời. Chỉ đến lúc ấy, Đức Chúa Trời mới trả lại cho ông ta mọi thứ đã mất.
Đã bao năm rồi, tôi cùng các vị phải chứng kiến thị trấn của chúng ta suy sụp như thế nào và giờ đây tôi nghĩ phải chăng đó là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời giáng xuống đầu chúng ta, vì chúng ta đã tiếp nhận mọi việc đang diễn ra một cách nhẫn nhục đến thế, như thể chúng ta đáng bị mất đi cái nơi chúng ta đã sinh ra và lớn lên, những cánh đồng gieo trồng lúa mì, những đồng cỏ để chăn thả đàn cừu của chúng ta, những ngôi nhà mà cha ông chúng ta từng mơ ước. đã đến thời khắc chúng ta vùng lên hay chưa? Nếu Đức Chúa Trời buộc Job phải nổi cơn thịnh nộ, phải chăng Người cũng đang thúc giục chúng ta như thế?
Nhưng tại sao Đức Chúa Trời lại buộc Job phải nổi giận? Để chứng minh rằng con người về bản chất của mình là tội lỗi và tất cả những gì Người ban phát cho anh ta đó là sự ban ơn chứ không phải là sự ban thưởng cho phẩm hạnh tốt đẹp. Nếu cho rằng mình tốt đẹp, chúng ta đã phạm vao tội cao ngạo và chính vì thế, chúng ta phải hứng chịu sự trừng phạt.
Đức Chúa Trời đã giao ước thách đố với Satan. Thoạt nhìn, Người đã hành động bất công, nhưng xin các vị hãy nhớ lại, hãy nghĩ cho thấu đáo. Người giao ước thách đố với Satan và Job đã thấu hiểu bài học cho mình và đã sám hối, bởi vì ông ta, cũng như chúng ta, đã mắc phải cái tội cao ngạo khi tự cho mình là chính trực.
Không có ai nhân từ - Chúa đã phán. Không có một ai. Chỉ cần chúng ta nghĩ mình là thánh thần, vậy đã là báng bổ Đức Chúa Trời, đã đến lúc cần phải chấp nhận những gì yếu hèn và tội lỗi của chúng ta và nếu một khi cần phải giao ước với quỷ dữ, chúng ta hãy nhớ rằng, Đức Chúa Trời, Đấng Tối Cao cũng đã hành động như thế vì để cứu rỗi linh hồn Job, kẻ tôi tớ của mình.
Bài thuyết giảng kết thúc, ông linh mục yêu cầu mọi người đứng dậy và tiếp tục làm lễ. Không còn nghi ngờ gì nữa, các con chiên đã hiểu rất rõ lời nhắn nhủ từ vị cha xứ của mình.
Chương 11
- Đi thôi. Mỗi người một ngả, tôi mang theo thỏi vàng của mình, ông...
- Với thỏi vàng của mình... – Người khách lạ dài giọng nhại lại cô. – Nó hiện giờ còn chưa phải là của cô!
- Ông chỉ cần thu xếp đồ của mình và đi biệt tăm. Nếu tôi không được thỏi vàng này, tôi sẽ phải quay về Viscos. Bà chủ sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức, tôi sẽ nhục nhã ê chề. Tất cả mọi người sẽ quả quyết là tôi đã lừa dối. Ông không thể, không có quyền đối xử với tôi như thế. Ông phải đồng ý là thỏi vàng này tôi kiếm được một cách trung thực.
Người khách lạ đứng dậy, rút mấy cành cây đang cháy ra khỏi đống lửa.
- Con sói luôn bỏ chạy tránh xa ánh lửa, có phải vậy không nhỉ? Vậy thì tôi đi về Viscos đây. Cô có thể làm tất cả những gì cô cho là cần thiết. Cứ lấy trộm đi, bỏ chạy đi, lẩn trốn đi. Việc này chẳng liên quan gì đến tôi nữa. Tôi còn có những việc quan trọng hơn.
- Gượm đã! Đừng bỏ tôi lại đây một mình!
- Vậy thì chúng ta cùng đi.
Chantal vội nhìn lại đống lửa, tảng đá hình chữ Y, rồi người khách lạ lúc này đã bỏ đi, tay cầm cành cây đang cháy. Cô có thể làm đúng như thế, đốt một bó đuốc mới, đào vàng và đi thẳng xuống thung lũng, tạt về nhà lấy những đồ vật từng được cô gìn giữ cẩn thận đến thế cũng chả còn ý nghĩa gì. Đến thành phố bên, hỏi nhà băng, cô sẽ biết thỏi vàng đáng giá bao nhiêu, bán nó, mua quần áo và mấy cái va ly. Cô sẽ được tự do.
- Đợi chút đã! – Cô thét gọi người khách lạ, nhưng ông ta vẫn tiếp tục đi về phía Viscos và chẳng mấy chốc đã mất hút.
"Nghĩ nhanh lên chứ!" Chantal tự nhủ.
Phải nghĩ ngay, thế nhưng chẳng biết nghĩ gì. Cô rút mấy cành cây còn leo lét cháy khỏi đống lửa, chạy vội đến tảng đá và đào bới thỏi vàng. Cô cầm lên, lấy ống tay áo chùi và ngắm nhìn nó – lần thứ ba trong đời.
Nỗi hoảng sợ chợt xâm chiếm lấy cô. Cô ném thỏi vàng xuống hố, rút vài cành cây nữa ra khỏi đống lửa và chạy vội theo hướng con đường mà người khách lạ có lẽ đã thoát ra. Có cảm giác như nỗi căm thù sôi sục dâng trào trong cô. Trong một ngày cô đã gặp phải hai con sói – một con cô đã xua đuổi được bằng đuốc lửa, con kia chẳng có thể có cái gì dọa dẫm được nó. Nó đã mất tất cả những gì yêu quý và hiện giờ đang thèm khát huỷ hoại tất thảy những gì hiện ra trước nó một cách mù quáng.
Chantal cắm đầu cắm cổ chạy, nhưng vẫn không thể đuổi kịp người khách lạ. Có lẽ, ông ta đã lẩn vào trong rừng, nấp ở đó, tắt đuốc thách thức con sói quái ác, nỗi thèm khát được chết trong ông ta chắc hẳn không thua kém gì nỗi thèm khát giết chóc.
Về đến Viscos, Chantal vờ như không nghe thấy tiếng bà Berta gọi cô và đi lẫn vào đám giáo dân vừa ra khỏi nhà thờ. Cô ngạc nhiên, hôm nay dường như cả thị trấn tập trung đến dự lễ misa. Người khách lạ lại đang có một âm mưu tội lỗi và hóa ra ông linh mục cũng rắp tâm muốn thế. Tuần lễ này sẽ được dành cho sự sám hối và xưng tội, dường như Đức Chúa Trời cũng có thể bị lừa.
Mọi người đều nhìn Chantal nhưng không một ai bắt chuyện với cô. Cô không tránh mặt đi, dũng cảm đón nhận từng ánh mắt, và biết mình chẳng có tội lỗi gì và chẳng có gì phải sám hối trong buổi lễ xưng tội. Cô chỉ là một con tốt trong một ván cờ tàn độc mà những luật lệ của nó cô chưa thể hiểu ngay được nhưng khi đã hiểu ra, cô cảm thấy ghê sợ.
Cô đóng cửa ở lì trong căn phòng của mình và nhìn qua ô cửa sổ. Đám đông đã giải tán, nhưng Chantal nhận thấy một điều thật kỳ lạ. Hôm nay là một ngày thứ bảy đẹp trời, vậy mà Viscos như thể bị bỏ hoang. Thông thường trên quảng trường, nơi thuở xa xưa chẳng biết từ bao giờ từng có một cái giá treo cổ, còn hiện tại sừng sững cây thánh giá, dân chúng tập trung thành từng nhóm và trò chuyện.
Nhìn ra con phố vắng hoe một lúc, cô cảm thấy người nóng ran, nhưng cái nắng đông không làm khuôn mặt cô bỏng rát. Nếu bấy giờ, mọi người ở trên quảng trường, chắc hẳn họ sẽ bàn về thời tiết, nhiệt độ, mùa mưa liệu đã qua hẳn chưa, liệu có bị khô hạn hay không. Nhưng hôm nay, tất cả đều ngồi nhà và Chantal không thể hiểu tại sao.
Cô càng đứng lâu bên cửa sổ càng cảm thấy rõ hơn rằng, cô chẳng có gì khác biệt với những người đồng hương của mình. ấy vậy mà cô đã từng cho mình là một người khác hẳn, từng ấp ủ những dự định táo bạo mà không bao giờ có thể nảy ra trong đầu bất kỳ một ai trong sợ những người nông dân Viscos.
Nhục nhã làm sao nhưng đồng thời cũng khoan khoái làm sao! Cô đang ở đây - ở Viscos này, không phải vì số phận đã phán xét thật bất công mà vì cô đáng bị như thế. Cả đời cô luôn cảm thấy chẳng ai xứng bằng mình. Vậy mà giờ đây cô mới hiểu, cô cũng giống hệt như tất cả bao người. Đã ba lần cô đào thỏi vàng lên và lần nào cũng không thể lấy nó đem theo mình. Phải, cô đã phạm tội, nhưng chỉ trong tâm tưởng, song biến nó thành hàng động thì cô không làm nổi, không dám, không thể.
Tuy nhiên, cô hiểu, nói cho đúng, đáng lẽ ra không nên thực hiện nó dù chỉ trong suy nghĩ, bởi vì điều này không phải sự cám dỗ, cũng không phải sự thử thách mà là cạm bẫy.
"Cạm bẫy là sao?" cô nghĩ. Có một cái gì đó mách bảo cô trong thỏi vàng ấy ẩn chứa giải pháp cho cái việc do người khách lạ bày đặt ra. Nhưng dù đã cố gắng hết sức, cô vẫn không thể hiểu nổi giải pháp ấy là gì.
Con quỷ đến sau nhìn thấy vầng sáng bên vai Prym tạm mờ nhạt đi chỉ để làm cho nó mất cảnh giác. Thiên thần hoàn toàn chỉ muốn cô gái được mình bảo trợ chợp mắt một lúc, để trong thời gian đó, cậu ta có thể trò chuyện thoải mái với tâm hồn của cô gái – không bị những nỗi khiếp sợ và tội lỗi can thiệp vào. Đó là những thứ mà các đại diện của loài người luôn phải nai lưng ra gánh chịu hết ngày này sang ngày khác.
Chantal ngủ thiếp đi, và trong giấc ngủ, cô nghe được những điều cần nghe, hiểu ra những điều cần phải hiểu.
Chương 12
- Chúng ta sẽ không cần nói về các khu đất và về nghĩa trang nghĩa địa gì nữa. – Bà vợ ông thị trưởng tuyên bố khi các vị "đại diện" nhóm họp lại ở phòng áo lễ. - Chúng ta sẽ công khai.
Cả năm người đối thoại cùng bày tỏ sự nhất trí của mình.
- Linh mục của chúng ta đã thuyết phục được tôi. – Ông đại điền chủ lên tiếng. – Đức Chúa Trời có thể biện hộ cho cả một số hành động không xứng đáng.
- Không cần phải rào đón. – Ông linh mục đáp. – Chỉ cần nhìn qua cửa sổ là đủ hiểu hết mọi chuyện. Chính vì thế mới có gió ấm – vậy là quỷ dữ cũng quyết định đứng về phía chúng ta.
- Đúng! – Ông thị trưởng, vốn là người không tin vào chuyện quỷ, lên tiếng đồng tình. – Không có gì cần phải thuyết phục chúng ta nữa. Vì vậy chúng ta không nên mất thêm thì giờ quý báu và sẽ bàn công khai, thẳng thắn vào vấn đề.
- Cho phép tôi được bắt đầu. – Bà chủ khách sạn nói. – Tất cả chúng ta đều ngả theo chiều hướng chấp nhận lời đề nghị của ông khách lạ. Nói cách khác, theo chiều hướng thực hiện một tội ác.
- Tức là lễ hiến sinh. – Ông linh mục sửa lại, vì vốn quen với các điển lễ tôn giáo.
Sự im lặng bao trùm trong phòng áo lễ đã chứng tỏ tất cả đều nhất trí với ý kiến này.
- Chỉ có những kẻ hèn nhát mới im lặng. Nào, hãy cùng cất lời cầu nguyện để Chúa nghe thấu và hiểu rằng, chúng ta thực hiện việc này là vì lợi ích của Viscos. Xin các vị hãy quỳ xuống.
Những người có mặt làm theo mặc dù trong lòng không phải không có ý phản đối, bởi họ rất hiểu – cầu xin Chúa tha thứ cho cái tội lỗi được thực hiện, cho cái tội ác họ sẽ làm là một việc vô nghĩa. Nhưng họ nhớ đến Ahab, đến "ngày chuộc tội" và quyết định khi nào đến ngày đó, họ sẽ đồng lòng gán cho Chúa cái tội đã cám dỗ, mà mắc phải nó không phải là chuyện quá khó.
Ông linh mục yêu cầu tất cả cùng đồng thanh nhắc lại theo ông lời cầu nguyện.
- Lạy Chúa, chẳng phải Người đã nói không có ai là người nhân từ đó sao. Vậy nên xin hãy đón nhận chúng con, những kẻ thật quá đỗi lầm lỗi với lòng nhân từ vô lượng của Người và tình yêu vô hạn nơi Người. Xin Người hãy tha thứ như Người từng tha thứ cho các thập tự quân giết hại người Hồi giáo để chiếm lại Đất Thánh Jerusalem, như Người từng bỏ quá cho các quan tòa giáo hội đã muốn bảo vệ sự thanh khiết cho Thánh đường của Người, cũng như Người từng mở lượng hải hà cho những kẻ đã báng bổ và dẫn giải Người lên Golgotha[1]. Xin hãy tha thứ cho chúng con vì chúng con buộc lòng phải dâng hiến một mạng sống để cứu lấy thị trấn.
[1] Theo truyền thuyết trong Kinh Thánh, Golgotha là ngọn đồi nơi Chúa Jesus bị đóng đinh câu rút.
- Bây giờ chúng ta chuyển sang khía cạnh thực tế của vấn đề. - Bà vợ ông thị trưởng nói. – Chúng ta hãy cùng quyết định xem ai sẽ là người hiến sinh và ai sẽ thực hiện lễ hiến sinh.
- Cái cô gái, mà chúng ta đã giúp rất nhiều, chúng ta thường xuyên bảo trợ cho, đã dẫn lối đưa đường cho quỷ dữ đến Viscos này. – Ông đại điền chủ nói. Mới cách đây không lâu, chính ông ta đã ngủ với cô gái này và kể từ đó luôn sống trong nỗi lo sợ, biết đâu cô ta đang yên đang lành lại đem chuyện ấy đi kể lại cho vợ của ông – ác giả ác báo, và vì thế cô ta đáng bị trừng phạt.
Trong số những người họp mặt, có hai người đồng ý sau khi nêu ra ý kiến cho rằng Prym là người duy nhất ở Viscos không thể tin tưởng được vì cô ta tự cho mình không giống những người khác và không hề giấu giếm việc sẽ có lúc rời bỏ thị trấn.
- Cô ta chẳng còn mẹ. Bà thì cũng đã chết. Không có ai nhận thấy sự biến mất của cô ta. – Ông thị trưởng, người thứ ba ủng hộ ý kiến này, lên tiếng.
Nhưng ngay lập tức bà vợ ông ta đã lên tiếng phản đối.
- Giả sử cô ta biết số vàng chôn giấu ở đâu. Xét cho cùng thì chính cô ta là người duy nhất được tận mắt thấy chúng. Ngoài ra, có thể tin tưởng cô ấy chính vì những lý do đã nêu: rằng cô ấy đã đưa cái Ác đến thị trấn của chúng ta, rằng cô ấy đã khiến dân chúng ở đây phải nghĩ đến tội ác. Các vị có thể nói gì tùy ý, nhưng nếu tất cả những người đồng hương khác của chúng ta sẽ im lặng, thì kết quả sẽ là, lời nói của cô gái, mà có thể nói là chẳng phải đức hạnh gì, trái ngược với lời nói của chúng ta, những người phần nào đó cũng đã thành đạt trong đời.
Ông thị trưởng liền thắc mắc hỏi lại, lần nào cũng vậy mỗi khi bà vợ ông ta đưa ý kiến của mình.
- Vì cớ gì mà bà cứ cố cứu Chantal nào? Chẳng phải là bà không thể nào chịu nổi cô ta đấy thôi?
- Tôi hiểu vì sao rồi. – Ông linh mục nói. – Để tội lỗi trút xuống đầu cái kẻ đã gây nên tấn bi kịch. Phải để cho cô ta đeo cái gánh nặng ấy đến những ngày cuối đời mình và không loại trừ rằng cô ta cũng sẽ kết thúc như Juda, cái kẻ đã phản bội Jesus Christ và tự kết liễu đời mình trong cơn tuyệt vọng. Tuy nhiên, hoàn toàn vô nghĩa bởi hắn đã tạo ra hết thảy những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội ác.
Bà vợ ông thị trưởng lấy làm ngạc nhiên bởi lý lẽ của ông linh mục. Đó cũng chính là điều bản thân bà nghĩ đến. Chantal xinh xắn, trẻ trung, khiến đám đàn ông mê mẩn, không muốn sống như tất cả mọi người ở Viscos, luôn mồm than thở rằng, cô ta phải sống lay lắt ở cái thị trấn tẻo tèo teo heo hút này, dù với tất cả những khiếm khuyết của nó, vẫn là nơi có những người dân cần mẫn và lương thiện, vẫn là nơi mà nhiều người chỉ mơ ước được sống ở đó (ý muốn nói những người nước ngoài, giã từ thị trấn rồi mới nhận ra cái cuộc sống ở đây có thể buồn chán kinh khủng nhưng luôn tràn đầy thanh bình và yên ấm).
- Còn tôi không thấy một ai khác có thể thế vào chỗ của cô ấy. – Bà chủ khách sạn đồng tình. Đầu tiên bà cũng đắn đo do dự vì khó mà tìm được ai thay cho cô, nhưng sau mới ngẫm ra, sau khi nhận được phần vàng của mình, bà có thể đóng cửa cái quán trọ, nói thẳng ra là thế, và rời bỏ đi thật xa. Những người nông dân và những người chăn cừu rất đoàn kết, có gia đình, nhiều người con cái đã rời bỏ Viscos lâu rồi. Nếu có điều gì xảy ra với một ai đó, bà con họ mạc sẽ ngờ ngay rằng có chuyện chẳng lành. Prym là người duy nhất có thể mất tích.
Ông linh mục không muốn chỉ rõ người nào vì nhớ đến Chúa Jesus đã nguyền rủa những kẻ kết án người vô tội. Nhưng ông biết nên đưa ai ra làm người hiến sinh và phải làm thế nào để mọi người thấy rõ điều này.
- Dân Viscos sớm khuya đầu tắt mặt tối. Mỗi người đang thực hiện một bổn phận, ai nấy đều có công việc của mình, thậm chí cả cô gái nghèo hèn ấy, người mà quỷ dữ đã quyết định lợi dụng cho các mục đích độc ác của mình. Chúng ta, quả thật đâu còn có nhiều người, nên chúng ta không thể cho phép mình xa xỉ phí hoài thêm một nhân công nữa.
- Nếu vậy thì, thưa cha, chúng ta sẽ chẳng còn biết lấy ai ra làm người hiến sinh đây. Chỉ còn nước hy vọng vào phép màu thôi. May ra đến chiều nay có thêm một người khách lạ đến Viscos. Nhưng ngay cả tình huống này cũng mạo hiểm bởi anh ta chắc hẳn phải có gia đình và họ sẽ đi tìm anh ta khắp chốn cùng nơi. Trong thị trấn của chúng ta ai chẳng làm việc cật lực những mong kiếm cho mình một miếng bánh nuôi thân, đó chính là miếng bánh được người bán bánh chở đến trên chiếc xe của mình.
- Các vị nói đúng. – Ông linh mục tiếp. – Có lẽ, từ chiều hôm qua chúng ta hoàn toàn chỉ tự an ủi mình bằng những ảo tưởng viễn vông. Người nào ở Viscos cũng có những người thân. Khi phát hiện thấy người nhà mất tích, người ta sẽ nói: "Đừng có đụng đến người nhà tôi!". Trong thị trấn của chúng ta chỉ có ba người một thân một mình. Đó là tôi, bà lão Berta và cô Prym.
- Cha sao vậy? Tự đưa mình ra làm người hiến sinh à?
- Có gì mà không dám làm vì lợi ích của quê hương?
Cả năm người cùng thở phào nhẹ nhõm. Họ chợt hiểu ra vì sao ngày thứ bảy mặt trời rạng ngời, sẽ không có bất cứ một tội ác nào. Sẽ chỉ có sự tuẫn tiết. Như có một phép màu, bầu không khí căng thẳng giờ đây còn bao trùm trong phòng áo lễ chợt dịu hẳn đi. Bà chủ khách sạn chỉ muốn lao đến quỳ xuống dưới chân vị thánh ấy.
- Chỉ có một khó khăn duy nhất. – Ông linh mục nói tiếp. – Các vị sẽ phải thuyết phục cho mọi người hiểu rằng, việc giết một người phụng sự Chúa đó không phải là một tội chết.
- Xin cha hãy tự giải thích cho dân trong thị trấn điều này. – Ông thị trưởng reo lên, khấp khởi khi nghĩ đến những cải cách ông sẽ tiến hành với khoản tiền nhận được, một chiến dịch quảng cáo sẽ được tung ra trên các mặt báo, những khoản vốn đầu tư sẽ ùn ùn kéo đến nhờ việc giảm thuế, du khách sẽ đổ xô đến sau khi ông cho xây dựng một khách sạn đầy đủ tiện nghi và kéo thêm đường cáp điện thoại mới tránh cho họ những khó khăn về thông tin liên lạc.
- Không, tôi không thể làm cái điều này. – Ông linh mục trả lời. – Những người tuẫn tiết không bao giờ đi phản kháng lại, khi dân chúng muốn họ bị giết. Nhưng bản thân họ cũng không tự đi tìm cái chết, bởi nhà thờ luôn răn dạy chúng ta rằng, cuộc sống là ân ban của Chúa. Tự các vị phải giải thích thôi.
- Sẽ không có ai tin chúng tôi. Nhất định họ sẽ coi chúng tôi cùng một giuộc táng tận lương tâm như những kẻ sát nhân đi sát hại một con người sống thánh thiện, làm cái việc như Juda bị tiền bạc cám dỗ đã bán đứng Chúa Kitô.
Ông linh mục nhún vai. Có cảm tưởng như mặt trời lại bị che khuất bởi những đám mây đen và trong phòng áo lễ lại bao trùm bầu không khí căng thẳng.
- Thế thì chỉ còn bà Berta. – Ông đại điền chủ nói.
Im lặng hồi lâu, ông linh mục mới lên tiếng.
- Bà ấy rõ ràng rất đau khổ vì mất chồng. Đã bao năm qua bất kể thời tiết thế nào, hết ngày này qua ngày khác cứ thẫn thờ ngồi ở cửa nhà mình, chẳng làm gì, chỉ buồn nhớ. Và tôi ngờ rằng, bà lão đáng thương đang ngày một lú lẫn đi. Nhiều lần đi ngang qua, tôi nghe thấy bà lão lầm rầm trò chuyện một mình.
Một cơn gió oi nồng lại vụt ập vào căn phòng và ai nấy đều giật thót người vì cửa sổ bỗng đóng sập lại.
- Cuộc sống của bà lão buồn ghê gớm. – Bà chủ khách sạn tiếp lời. – Tôi nghĩ, bà lão sẵn sàng cho đi mọi thứ trên đời này chỉ để mong được đến ngay nơi ông chồng yêu quý đang chờ bà ấy. Các ông các bà có biết vợ chồng họ đã sống với nhau đến bốn chục năm không?
Mọi người chả biết, nhưng chẳng có ai bận tâm đến.
- Một người phụ nữ ở vào cái tuổi quá quá ư là thọ rồi, có thể nói, gần đất... – Ông đại điền chủ thêm vào. – và sau nữa, là người duy nhất của thị trấn chúng ta thực sự không còn phải bận tâm về bất cứ chuyện gì quan trọng nữa. Có lần tôi hỏi bà lúc nào cũng cứ ngồi, thậm chí kể cả vào mùa đông trước cửa nhà để làm gì, và các vị có biết bà Berta trả lời tôi thế nào không? Rằng, bà lão ngồi canh chừng để không cho xảy đến cái ngày cái Ác sẽ xuất hiện ở thị trấn.
- Vậy rõ ràng là bà lão đã không hoàn thành trách nhiệm của mình rồi.
- Lật ngược vấn đề. - Ông linh mục nói. – Theo tôi hiểu, qua lời các vị thì ai để cho cái Ác lọt vào Viscos thì người đó phải đuổi nó đi.
Dấu lặng lại lơ lửng treo, nhưng tất cả đều hiểu cuối cùng cũng đã chọn được phải hy sinh.
- Còn điều cuối cùng. – Bà chủ khách sạn xả một tràng. – Chúng ta đã biết khi nào sẽ diễn ra lễ hiến sinh vì sự phát đạt của thị trấn, đã biết ai là người phải hy sinh, nhờ cái thể thức này linh hồn ngoan đạo sẽ được lên thiên đường thay cho những đau khổ tràn ngập cuộc sống nơi trần thế này, và sẽ được hưởng hạnh phúc. Chỉ còn phải biết xem chúng ta sẽ thực hiện việc đó như thế nào.
- Cần thông báo cho tất cả đàn ông ở Viscos. – Ông linh mục nói. – Chín giờ tối đến tập trung ở quảng trường. Tôi thiết nghĩ mình đã biết "như thế nào". Trước thời hạn đã định một chút, chúng ta sẽ lại gặp nhau ở đây trong phòng áo lễ này và bàn kín thêm.
Trước khi mọi người rời khỏi phòng áo lễ, ông linh mục đề nghị bà vợ ông thị trưởng và bà chủ khách sạn theo hướng mà buổi họp đã bàn, đến nhà bà Berta và trò chuyện với bà lão. Mặc dù bà lão không bao giờ đi đâu vào chiều tối, xong cẩn thận trước cũng không thừa.