Quỷ Dữ và Nàng Prym - Chương 16 + 17 + 18
Chương 16
- Trong nhà thờ, nơi thánh địa thiêng liêng, cha đã nói về việc cần thiết phải có một sự hy sinh. – Ông linh mục nói. - Ở đây, trên mảnh đất thế tục này, cha mong các con hãy chuẩn bị cho sự xuất hiện một người tuẫn tử.
Dân chúng đã tụ họp đông kín cái quảng trường nhỏ hẹp, sáng lờ mờ duy nhất một ngọn đèn (mặc dù khi diễn ra chiến dịch vận động bầu cử, ông thị trưởng đã hứa hẹn sẽ cho mắc thêm vài cái đèn nữa). Những người nông dân và những người chăn cừu bộ dạng ngái ngủ (họ đã quen giấc ngủ khi chạng vạng dậy lúc rạng đông) giữ im lặng với một vẻ trọng vọng và e dè. Linh mục đặt một chiếc ghế ngay sát cây thập tự và đứng lên ghế tất cả mọi người nhìn thấy ông.
- Trong suốt mấy trăm năm qua, Giáo Hội bị lên án vì đã tiến hành những cuộc chiến phi nghĩa, mặc dù trên thực tế, chúng ta hoàn toàn cố gắng tự vể để tránh khỏi những mối đe dọa đủ mọi kiểu và để tồn tại.
- Thưa cha! – Tiếng ai đó hét lên. – Chúng tôi đến đây không phải để nghe về Giáo hội. Chúng tôi muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra với Viscos.
- Không cần phải giải thích nhiều, thành phố của chúng ta đang có nguy cơ nay mai biến mất trên bản đồ, cùng với các con, đồng ruộng và đàn cừu của các con. Và cha cũng không có ý định nói về Giáo Hội, nhưng có một điều vẫn cần phải nói: chỉ còn có cách sám hối và hy sinh thì chúng ta mới có thể được cứu vớt. Và cha, đã nói về sự hy sinh của một người nào đó, về sự sám hối cần thiết với tất cả mọi người, và về việc phải cứu lấy thành phố.
- Ngày mai, toàn bộ chuyện này mới hay là trò tầm bậy. – Tiếng một ai đó lại vang lên.
- Ngày mai, người khách lạ sẽ cho chúng ta thấy số vàng. – Ông thị trưởng lên tiếng, lấy làm khoái chí vì có thể thông báo cái tin mà ngay đến ông linh mục cũng không nắm được. – Cô Prym không muốn một mình lãnh trách nhiệm, và bà chủ khách sạn đã thuyết phục được người khách lạ đem số vàng về đây. Không có sự bảo đảm này, chúng ta sẽ không động đến dù chỉ một ngón tay.
Ông thị trưởng cướp lời và bắt đầu tô vẽ lên những thay đổi thần kỳ đang chờ đón Viscos: xây dựng tiện nghi, cải tạo nâng cấp, công viên thiếu nhi, giảm thuế, giảm phí, phân chia số tài sản bất ngờ không chờ mà đến.
- Chia đều cho tất cả mọi người! – Vó ai đó lại hét lên.
Đã đến lúc nói ra cái điều chủ chốt, một việc mà ông thị trưởng rất không muốn làm, nhưng mọi ánh mắt đều đổ dồn vào ông, và mọi người ở trên quảng trường dường như đã tỉnh ngủ.
- Chia đều cho tất cả mọi người. – Ông linh mục khẳng định, nhanh mồm nói trước ông thị trưởng. Ông hiểu là không còn lựa chọn nào khác bởi tất cả cùng gánh vác trách nhiệm như nhau trước việc đã làm và cùng nhận phần thưởng như nhau, bởi chẳng chóng thì chày một kẻ nào đó sục sôi lòng ghen tức và báo thù sẽ tố giác tội ác. Ông linh mục quá hiểu ý nghĩa của những lời nói này.
- Vậy ai sẽ là người phải chết?
Ông thị trưởng đứng ra trình bày lý do tại sao theo lẽ công bằng, sự lựa chọn lại rơi vào bà Berta – một người phụ nữ đã tuổi già xế bóng, rất đau khổ vì nỗi nhớ chồng, bạn bè thì không. Và có thể nói là bà lão có vẻ như đã lú lẫn mất rồi, vì từ sáng đến tối chỉ ngồi trước cửa nhà – không thể nào và không có gì đóng góp cho sự thịnh vượng của Viscos. Lẽ ra nên mua đất hay cừu thì bà lão lại đem tiền của mình đi gửi vào nhà băng để nhận lãi, chỉ có đám nhà buôn, như anh chàng bán bánh mì, mỗi tuần mới xuất hiện ở thị trấn được một lần để bán hàng hóa của mình là có lợi từ bà lão.
Trong đám đông không hề nghe thấy một tiếng phản đối. Ông thị trưởng lấy làm hài lòng với điều này, vì cho rằng, đó chính là sự khẳng định uy tín của ông. Ông linh muc, tuy nhiên, lại hiểu, tùy thuộc vào hoàn cảnh, sự im lặng có thể được giải thích thế nào cũng được, bởi không phải lúc nào nó cũng là biểu hiện sự đồng ý, đôi khi nó chỉ chứng tỏ một điều là người ta không có khả năng suy xét nhanh và tiếp nhận quyết định được ngay. Thành thử nếu có ai đó trong đám đông không đồng ý, anh ta lập tức sẽ cảm thấy lương tâm mình dằn vặt, cắn rứt, rồi sẽ nói, tôi im lặng chẳng phải chính là để phản đối đấy thôi? Và hậu quả có thể vô cùng đáng buồn.
- Cần làm sao để tất cả cùng nhất trí. – Ông linh mục nói. – Cần làm sao để tất cả cùng lên tiếng, họ có chấp nhận quyết định này hay không, công khai, hãy để Đức Chúa Trời nghe thấy, hãy để Người biết rằng, trong đạo quân của Người là những con người quả cảm. Những ai không tin vào Đức Chúa Trời tôi cũng yêu cầu nên bày tỏ ra "ủng hộ" hay "phản đối" một cách công khai, trước đông đủ mọi người, để tất cả cùng biết rõ, ai có suy nghĩ gì.
Ông thị trưởng không thích cái cách diễn đạt của ông linh mục. Ông ta nói "cần phải", nhưng tốt hơn và đúng hơn là phải nói "Chúng ta cần" hay "ông thị trưởng muốn". Khi nào mọi chuyện qua đi, ông sẽ khôi phục lại uy tín của mình. Còn bây giờ, ông như một nhà chính khách lão luyện, để cho linh mục có cơ hành động và bộc lộ bản thân mình.
- Vậy là những ai đồng ý nào?
Tiếng "tôi" đầu tiên là của bác phó rèn, sau bác ta, để mọi người thấy rõ sự dũng cảm của mình, ông thị trưởng nói lại rất to cái từ này. Lần lượt những người có mặt trên quảng trường lớn tiếng nói đồng ý, và cứ thế tiếp tục cho đến hết. Một số người đòng ý, vì muốn cho cuộc họp mau chóng kết thúc, và có thể về nhà, một số khác vì nghĩ đến vàng và đến chuyện bỗng dưng có bộn tiền, họ sẽ ngay lập tức rời bỏ Viscos, một số nữa, vì nghĩ ngay đến chuyện gửi tiền cho con cháu đang sống ở các thành phố lớn, để chúng không phải xấu hổ với đám bạn bè. Nhưng thực chất, không một ai trong số những người đến họp tin là Viscos sẽ giành lại được cái vinh quang xưa cũ. Và tất cả đều mong muốn sự giàu có, mà theo ý mình, họ luôn xứng đáng nhưng chưa bao giờ được hưởng.
Và không một ai nói "Tôi – phản đối!".
- Trong thành phố ta có một trăm lẻ tám phụ nữ và một trăm bảy mươi ba người đàn ông. – Ông linh mục nói tiếp. – Trong mỗi nhà có ít nhất là một khẩu súng săn, vì truyền thống của vùng ta vốn rất coi trọng nghệ thuật săn bắn. Sáng mai, mọi người hãy mang súng cùng một viên đạn đến phòng áo lễ. Ông thị trưởng của chúng ta có vài khẩu, nên tôi đề nghị lấy thêm một khẩu súng cho tôi.
- Không đời nào chúng con lại đồng ý đưa cho ai đó súng của chúng con. – Một người thợ săn trong đám đông hét lên. – Súng, đấy là một vật thiêng liêng. Súng – là một thứ khó bảo lắm và không chịu ở trong tay người lạ đâu.
- Hãy để cho cha nói hết đã. Cha sẽ giải thích cho các con việc xử bắn diễn ra như thế nào. Người ta phân cho một nửa tiểu đội làm việc này, bảy người lính phải tiến hành việc thực hiện bản án tử hình. Bảy người lính được nhận bảy khẩu súng, trong đó sáu khẩu được nạp đạn thật, còn một khẩu – đạn giả. Thuốc súng ở khẩu thứ bảy này phát ra theo cùng một cách với những khẩu kia, tiếng nổ cũng giống hệt nhưng không có viên đạn nào găm vào cơ thể nạn nhân. Những người lính không biết ai trong số họ bắn viên đạn giả. Người nào cũng đinh ninh đó chính là mình, và do đó trách nhiệm về cái chết của con người được quy kết cho các đồng đội của mình, những người trước kia chưa bao giờ thấy mặt kẻ bị xử, nhưng theo nhiệm vụ phải bắn vào hắn.
- Không một ai cho mình là người có lỗi cả. - Ông đại điền chủ im lặng từ đầu đến giờ mới lên tiếng.
- Đúng thế. Và ngày mai cha cũng sẽ làm như vậy: trong tám mươi bảy viên đạn có một đầu đạn chì sẽ được lấy ra, còn các viên khác vẫn để nguyên. Tất cả sẽ nhất loạt cùng bắn, nhưng không có ai biết trong súng của mình là đạn thật hay đạn giả. Và như thế người nào trong số các con cũng có thể coi là mình vô tội.
Mọi người ở trên quảng trường đã rất mệt, vì thế vừa nghe xong, ông linh mục nói đến đấy ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Tất cả cùng tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên, dường như toàn bộ cái sự kiện sắp xảy ra đã mất đi ý nghĩa bi thương của mình, biến thành một chuyến đi kiếm kho báu chẳng làm hại đến ai. Người đàn ông nào ở Viscos cũng tin rằng, trong khẩu súng của mình nhất định sẽ là đạn giả và anh ta sẽ không phạm tội giết người, mà thuần tuý chỉ cùng với những người khác đồng lòng mon muốn góp một tay giúp thành phố thân yêu thoát khỏi vũng bùn lầy. Ai nấy đều tươi tỉnh hẳn lên, cuối cùng thì ở Viscos cũng nổ ra những sự kiện mới và trọng đại đấy chứ.
- Các con có thể tin rằng, khẩu súng của ta sẽ nạp đạn thật. Cha không thể trốn tránh chính bản thân mình. Mà cha cũng từ chối phần vàng của mình, điều này có những lý do của nó. – Ông linh mục nói.
Và ông thị trưởng lại thấy khó chịu với chính lời nói này, cũng như cái cách chúng được diễn đạt. Linh mục muốn cho dân chúng Viscos hiểu ông ta là một người dũng cảm và cao thượng, hơn nữa còn là người có thể dám hy sinh quyền lợi cá nhân và là một thủ lĩnh thiên bẩm. Nếu vợ ông mà có mặt trên quảng trường, bà ấy chắc hẳn sẽ nói rằng, ông linh mục đang nhăm nhe vào cái ghế thị trưởng và đến cuộc vận động bầu cử tới sẽ nhảy ra làm ứng cử viên.
"Không sao, không sao, cứ chờ đến thứ hai này," ông thầm nghĩ. Đến thứ hai, ông định đưa ra một sắc luật bắt nhà thờ chịu một khoản thuế buộc ông linh mục sẽ phải bán xới khỏi thành phố. Thế mới thật đáng đời ông ta, chẳng phải chính ông ta là người duy nhất không muốn giàu có đó sao.
- Và chúng ta, ai... – Bác phó rèn hỏi.
- Cha sẽ đi dẫn người hiến sinh. – Ông linh mục trả lời. – Chính cha sẽ làm việc này. Nhưng cần có thêm ba người nữa đi với cha.
Khi không thấy ai tình nguyện, ông đành tự mình chọn lấy ba người đàn ông khỏe mạnh. Chỉ có một người trong số họ từ chối, nhưng nhận thấy ánh mắt giận dữ lườm nguýt của những người còn lại thì anh ta vội đồng ý ngay.
- Vậy chúng ta sẽ thực hiện lễ hiến sinh ở đâu đây? – Ông đại điền chủ hướng về phía ông linh mục hỏi dò.
Ông thị trưởng cảm thấy mình đang bị mất uy tín một cách nhanh chóng và cần phải khôi phục lại nó ngay lập tức.
Ở đây tôi là người ra quyết định. – Ông nói, và hằn học nhìn ông đại điền chủ. - Không được để đất Viscos bị vấy máu. Cuộc hành hình sẽ diễn ra vào ngày mai, vào đúng giờ này, bên phiến đá nguyên khối của người Celte. Các vị hãy mang theo đèn lồng, đèn cày, đuốc, để nhìn cho rõ phải nhắm về hướng nào
Chương 17
Chantal uống cà phê và ăn bánh mì mua từ hôm qua, bởi vào những ngày chủ nhật người bán bánh mì thường không đến. Qua ô cửa sổ cô thấy dân chúng Viscos mang súng săn đi ra khỏi nhà mình. Cô đã sẵn sàng cho cái chết, vì luôn nghĩ sự lựa chọn có thể rơi vào cô, nhưng không có ai gõ cửa nhà cô. Mọi người đi ngang qua, đến vào phòng áo lễ và ra về tay không.
Cô xuống nhà, đi đến quán bar và bà chủ khách sạn đã kể cho cô nghe hết mọi chuyện xảy ra tối hôm qua, cả về chuyện người phải hy sinh được chọn như thế nào lẫn những gì mà ông linh mục nghĩ ra. Khi kể chuyện, bà ta hoàn toàn không có vẻ gì thù hận cả, và mọi chuyện xem ra rõ ràng là xoay theo chiều hướng có lợi cho Chantal.
- Đấy, tôi đã nói với cô rồi, đến một lúc nào đó, Viscos sẽ hiểu ra hoàn toàn những gì cô đã làm cho những người dân nơi đây.
- Nhưng người khách lạ phải cho thấy số vàng chứ. - Chantal nói.
- Tất nhiên rồi. Ông ta vừa ra khỏi khách sạn với một chiếc ba lô rỗng.
Chantal quyết định không đi vào trong rừng vì con đường tới đó chạy ngang qua nhà bà Berta, và cô sẽ cảm thấy xấu hổ khi nhìn vào mắt bà lão. Cô quay về nhà và nhớ lại giấc mơ của mình.
Trưa hôm qua, cô đã mơ thấy một giấc mơ rất kỳ lạ, hình như thiên thần đã trao cho cô mười một thỏi vàng và yêu cầu cô giữ lấy chúng cho bản thân.
Cô trả lời thiên thần rằng, nếu thế phải giết một ai đó. Nhưng thiên thần nói, không, thậm chí hoàn toàn ngược lại, những thỏi vàng này chứng tỏ rằng, vàng không hề tồn tại. Chính vì giấc mơ ấy, nên cô mới đề nghị bà chủ khách sạn nói với người khách lạ rằng, trong đầu cô đã nảy ra một kế hoạch. Nhưng vì tất cả các cuộc tranh đấu trong cuộc đời cô đều bị thất bại, nên cô hết sức nghi ngờ vào khả năng mình có thể thực hiện được nó.
Chương 18
Khi bà Berta đang ngắm nhìn mặt trời dần khuất sau đỉnh núi, chợt bà nhận thấy ông linh mục và ba người đàn ông nữa đang tiến gần phía nhà bà. Bà lão buồn rầu bởi ba lẽ: một là, rõ ràng giờ của bà đã điểm, hai là, bởi ông chồng của bà đã không hiện về để an ủi bà (có thể ông ấy sợ cái điều sắp xảy ra, và cũng có thể xấu hổ vì sự bất lực của bản thân mình), và ba là, số tiền bà ki cóp được sẽ bị những người có cổ phần trong nhà băng nơi bà gửi tiền lấy mất bởi vì bà không kịp rút tiền ra và châm cho chúng một mồi lửa.
Nhưng bà lão cũng thấy vui mừng vì cuối cùng thì cũng sắp gặp lại ông chồng mà lúc này biết đâu lại đang thong dong với bà của Prym cũng nên. Và thêm nữa, vì ngày cuối cùng trong cuộc đời bà lão là một ngày giá rét, nhưng bầu trời lại trong xanh và rạng rỡ ánh mặt trời. Không phải người nào cũng có được cái may mắn đem theo mình một ký ức đẹp đến thế xuống huyệt mộ.
Ông linh mục ra hiệu cho những người đi theo mình đứng chờ ở phía ngoài, và tự mình tiến lại gần bà lão.
- Chào cha. Cha thấy đấy, Đức Chúa Trời thật vĩ đại làm sao, khi tạo ra một cảnh sắc đẹp đến nhường này. – Bà lão nói, và thầm nghĩ thêm: "Các người bắt ta đi, nhưng ta sẽ để lại nơi đây tất thảy tội lỗi của thế giới này.".
- Con không biết thiên đường tuyệt vời đến nhường nào. – Ông linh mục đáp lại, song bà Berta hiểu mũi tên bà bắn đi đã trúng đích và ông linh mục bây giờ đang cố hết sức để giữ bình tĩnh.
- Cha nói phải, con chả tưởng tượng nổi. Hơn thế, thực tình thì con không tin là có thiên đường, còn cha đã từng ở đó chưa?
- Cho đến giờ, cha vẫn chưa có cái may mắn ấy. Tuy nhiên, cha đã rơi xuống địa ngục và biết nó khủng khiếp đến thế nào, dẫu từ ngoài nhìn vào có vẻ rất hấp dẫn.
Bà Berta hiểu ông ta muốn ám chỉ đến Viscos.
- Cha nhầm rồi. Cha đã được ở thiên đường, chỉ có điều cha không biết đấy thôi. Vả lại, điều này xảy ra với phần lớn mọi người, họ thậm chí ở trong những nơi phúc lành nhất vẫn cứ kiếm tìm đau khổ, vì cứ tưởng tượng ra như thể họ không được hưởng hạnh phúc.
- Con phải thừa nhận với cha là những năm tháng ở đây đã khiến con sáng suốt hơn chứ.
- Bao năm rồi nào có ai đến nhà con trò chuyện đâu. Ấy vậy mà, thật đến là lạ, bỗng nhiên mọi người lại nhớ đến cái thân già này. Cha có tưởng tượng được không, tối hôm qua bà chủ khách sạn và bác thị trưởng gái lại cho con cái vinh hạnh được đón họ đến thăm, đến hôm nay thì lại là cha xứ của thành phố ta viếng thăm con nữa. Phải hiểu chuyện này thế nào đây? Rõ là hãnh diện nhá.
- Con có đầy đủ lý do để đáng được kính trọng như thế. - Ông linh mục trả lời. – Con là người quan trọng nhất ở Viscos.
- Sao lại là con, con được thừa hưởng của thừa tự chắc?
- Mười thỏi vàng con ạ. Nhiều thế hệ dân chúng của thành phố chúng ta sẽ phải biết ơn con. Hoàn toàn có thể con sẽ được dựng tượng.
- Con thích một cái đài phun nước hơn. Nó không chỉ đẹp mà còn giúp mọi người đã cơn khát và xua tan nỗi phiền muộn.
- Được. Sẽ có một đài phun nước dành cho con. Cha hứa.
Bà Berta quyết định, đã đến lúc chấm dứt cái trò đóng kịch này rồi và cần đi thẳng vào vấn đề.
- Thưa cha, tôi đã hiểu tất cả mọi chuyện rồi. Các người định bắt một bà già vô tội không thể chống lại các người phải chết chứ gì? Các người sẽ bị nguyền rủa. Cả ông, cả thành phố này lẫn hết thảy dân chúng của nó.
- Phải, chúng tôi sẽ bị nguyền rủa. – Ông linh mục đồng ý. – Hơn hai mươi năm nay, tôi đã cố cầu phúc lành cho xứ này, nhưng không có ai thấu những lời kêu cầu của tôi. Hơn hai mươi năm rồi, tôi đã cố gieo cái Thiện vào tâm hồn mọi người, đã cố, cho đến khi hiểu ra là Chúa đã chọn tôi bằng tay trái của mình, để tôi chỉ ra cái Ác mà họ có khả năng làm. Có thể, mặc dù giờ đây họ đang hoang mang và lo sợ.
Bà Berta chỉ muốn khóc òa lên, nhưng bà lão cố kìm lại.
- Những lời vàng ngọc, chỉ tiếc rằng chúng hoàn toàn trống rỗng. Thuần túy chỉ là mưu toan ngụy biện cho sự nhẫn tâm và bất công mà thôi.
- Tôi khác hẳn với tất cả những người khác, làm cái việc này không phải vì tiền. Tôi biết vàng của người khách lạ là thứ đáng nguyền rủa, cũng như cái xứ sở này của chúng ta, sẽ chẳng mang lại hạnh phúc cho một ai. Tôi làm thế bởi đó là ý nguyện của Chúa. Nói đúng hơn, không phải Chúa muốn vậy, mà Người đã phán quyết sau khi thấu hiểu những lời cầu nguyện của tôi.
"Tranh cãi cũng bằng thừa," bà Berta nghĩ. Trong lúc đó, ông linh mục thò tay vào túi và lấy ra mấy viên thuốc con nhộng.
- Thậm chí bà sẽ không cảm thấy gì hết. – Ông ta nói. – Hãy cho chúng tôi vào đi.
- Dù ông hay bất kỳ một ai khác ở Viscos cũng không được bước qua ngưỡng cửa nhà tôi, chừng nào tôi còn sống. Có thể, tàn đêm nay, cánh cửa này sẽ mở, nhưng bây giờ thì không.
Theo ám hiệu của ông linh mục, một trong ba người đi cùng ông ta cầm một cái chai nhựa lại.
- Bà hãy uống mấy viên thuốc này đi. Bà sẽ ngủ rất say trong vài tiếng đồng hồ và khi tỉnh dậy, bà đã ở trên thiên giới, bên ông chồng mình.
- Tôi lúc nào mà chả ở bên chồng tôi? Còn thuốc ngủ thì trong đời tôi chưa bao giờ uống mặc dù tôi đến khổ vì bệnh mất ngủ.
- Như thế sẽ tốt hơn, thuốc sẽ có tác dụng gần như tức thời.
Ánh nắng cuối ngày đã tắt hẳn, thung lũng, nhà thờ, thị trấn vụt chìm ngập trong bóng tối.
- Thế nếu tôi không uống thì sao?
- Bà sẽ uống.
Bà Berta nhìn qua mấy người đi theo ông linh mục và hiểu rằng, ông ta nói thật. Bà lão cầm lấy mấy viên thuốc, cho vào mồm và uống nước, hết cả chai. Nước không màu, không mùi, không vị, mà dẫu có thế thì trên đời này còn có gì quan trọng hơn nữa đâu. Chính xác là, chí ít ra đến giây phút này, không có ai quan trọng hơn bà lão Berta.
Bà lão lại ngước nhìn những ngọn núi giờ đã chìm lấp trong bóng tối. Bà thấy vì sao đầu tiên lấp lánh hiện ra trên bầu trời và nghĩ rằng, mình đã sống một cuộc sống hạnh phúc, được sinh ra và được chết ở mảnh đất yêu dấu – vì lẽ gì mảnh đất này không yêu mến bà? Một tình yêu chân chính không đòi hỏi sự đáp đền, còn kẻ nào những mong nhận được phần thưởng cho tình yêu của mình, kẻ đó chỉ mất thời gian một cách vô ích.
Đức Chúa Trời khoan dung nhân từ đã không bỏ mặc bà. Bà chưa từng bao giờ đi đến bất cứ đâu, nhưng bà biết chắc chính những gì đang diễn ra ở Viscos cũng diễn ra ở khắp nơi, khắp chốn. Bà đã mất người chồng vô cùng yêu quý, nhưng Chúa đã ban cho bà niềm vui – ông ấy dù đã mất nhưng vẫn ở bên bà. Bà đã thấy sự phồn vinh của thị trấn đồng thời cũng chứng kiến nó suy tàn như thế nào và từ giã cuộc đời trước khi nó chết hẳn. Bà biết rõ mọi người với tất cả những phẩm hạnh và khiếm khuyết của họ và bất chấp toàn bộ cái điều đang xảy ra với bà lúc này đây, mặc cho ông chồng đã thề với bà, dường như trong cái thế giới vô hình đó đang diễn ra một cuộc chiến khốc liệt, bà vẫn tin lòng tốt trong con người rốt cuộc sẽ thắng thế.
Bà lão thấy thương cho ông linh mục, ông thị trưởng, cô Prym, người khách lạ, tất cả những người dân của Viscos bởi bà Berta tin chắc không bao giờ cái Ác dẫn tới cái Thiện, cho dù những người đồng hương của bà có muốn tin như thế nào đi chăng nữa. Một khi họ nhận ra thực chất của sự việc, thì đã là quá muộn.
Bà Berta chỉ buồn vì mỗi một điều, chưa một lần trong đời bà được nhìn thấy biển. Bà biết rằng có biển, rằng nó mênh mông bát ngát, cùng lúc nó vừa dữ dội, vừa dịu dàng, nhưng vậy là bà không thể đi ra biển, vốc đầy lòng bàn tay cái thứ nước muối mằn mặn của nó lên để nhấm thử, cảm thấy lớp cát mịn dưới đôi bàn chân trần, ngụp lặn trong những con sóng mát lạnh, như thể được trở lại trong lòng Mẹ Vĩ Đại (bà nhớ là những người Celte rất thích dùng hình tượng này).
Còn nếu không kể đến biển thì chẳng còn gì trên đời này khiến bà phải buồn nhớ khi xa lìa. Đau xót, tất nhiên, rất đau tớ ót, đáng buồn làm sao, bà phải từ giã thế giới như thế này, nhưng bà không muốn coi mình là kẻ hiến sinh. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Chúa đã phán quyết cho bà Berta cái vai trò này,và bà là người phù hợp hơn bất cứ một ai đó mà Chúa có thể trao vào tay ông linh mục.
- Tôi muốn nói cho bà nghe về cái Thiện và cái Ác. – Bà nghe thấy giọng nói của ông linh mục và đúng lúc đó, bà cảm thấy như hai tay và hai chân mình tê dại đi.
- Không cần. Ông đâu có biết cái Thiện là gì. Ông đã bị nhiễm cái Ác rồi. Nó huỷ hoại con người ông, và bây giờ ông đem gieo rắc nó trên mảnh đất này. Ông cũng chẳng khác gì người khách lạ đến Viscos của chúng ta để huỷ diệt chúng ta.
Bản thân bà lão Berta khó khăn lắm mới nghe thấy những lời nói cuối cùng của mình. Bà nhìn lên vì sao lấp lánh trên vòm trời và nhắm mắt lại.