Vụ bí ẩn con quái vật trên núi - Chương 08 - 09
|
Ba Thám Tử Trẻ chỉ còn cách quán trọ có mấy bước, thì tiếng động vang lên và một chiếc xe tải xuất hiện và dừng lại trước nhà.
- Chắc xe đến giao xi măng cho hồ bơi. - Peter nói.
Như để đồng tình với những gì Peter vừa mới nói, Joe Haveling xuất hiện và ra hiệu cho tài xế chạy vòng ra sau quán trọ. Ba thám tử nhìn theo, rồi thấy tài xế xe tải nhảy xuống khỏi xe và tiến hành dở hàng cùng với Joe. Chẳng bao lâu những bao xi măng và bao cát chất đầy bên bờ hồ bơi. Anh Hans và anh Konrad không có ở đó.
- Xi măng nhiều quá! - Bob nhận xét.
- Do hồ bơi lớn và sâu. - Peter trả lời. - Không hiểu chị Anna có biết là xi măng sẽ giao hôm nay không. Chị sẽ làm sao để thanh toán hóa đơn? Bọn mình vẫn chưa tìm ra chìa khóa két sắt cho chị!
- Nếu mọi người đều biết và tin chị như chị nói, thì chị vẫn có thể ký tên. - Hannibal nói. - Hoặc chồng chị sẽ thanh toán. Vì chính anh đòi làm hồ bơi mà.
Ba bạn bước vào nhà bếp. Phòng lớn không có ai, nhưng nghe tiếng anh Hans và anh Konrad nói chuyện trên lầu.
- Anna ơi! - Joe Haveling đột nhiên gọi từ ngoài sân. - Anna! Em ra đây một phút được không?
Tiếng chân của Anna vang lên trong nhà bếp. Có tiếng cửa sau mở, rồi đóng lại. Hannibal, Bob và Peter bước nhanh vào nhà bếp và tò mò nhìn ra cửa sổ. Ba thám tử thấy Anna đến với chồng mình và người giao hàng. Chị Anna mặc tạp dề và đang chùi tay vào khăn.
- Anh đã kiểm hàng chưa? - Anna hỏi Joe.
- Rồi. Ổn cả.
- Còn hóa đơn.
- Cũng kiểm rồi.
- Được.
Anna quay sang tài xế xe tải:
- Hôm nay tôi không có tiền. - Anna tuyên bố. - Tôi nghĩ chủ của anh sẽ đồng ý cho tôi thanh toán tuần sau chứ?
- Tất nhiên, thưa cô Schmid! À xin lỗi... bà Haveling. Chị ký cho tôi biên nhận giao hàng nhé?
- Biên nhận à?
Lần đầu tiên Anna có vẻ bối rối.
- Đó là nguyên tắc, - nhân viên giao hàng vẫn nói. - Nếu chị không trả tiền ngay được, thì chị phải ký nhận hàng. Để chứng minh với ông chủ là tôi đã giao hàng cho chị rồi. Chị ký ở đây này.
- Ồ! Được rồi! Anna nói. Anh đưa giấy cho tôi. Tôi sẽ về ký...
Chị đang bước về nhà, thì nhân viên giao hàng gọi lại:
- Chị khỏi về nhà. Viết đây!
Anh vừa mới lấy một cây viết ra khỏi túi, đưa cho Anna.
- Chị ký chỗ này.
Anna nhìn chồng, rồi nhìn người giao hàng. Chị đưa cho chồng cầm cái khăn, đặt giấy lên mui xe tải, rồi viết lên đó. Mất một hồi. Khi làm xong, chị trả giấy và viết lại rồi hỏi:
- Được chưa?
Người đàn ông liếc nhìn tờ giấy thật nhanh rồi trả lời:
- Tốt lắm rồi, thưa bà Haveling!
- Thường tôi viết rõ hơn. - Anna giải thích. Nhưng hôm nay tôi đang nhồi bột bánh, thì chồng tôi gọi. Tay tôi hơi bị run.
- Không sao! - Người giao hàng mỉm cười khẳng định.
Nói xong, anh nhét tờ giấy vào túi, leo lên xe, kêu một tiếng “chào” vui vẻ, nổ máy rồi lên đường về làng. Xe tải vừa biến mất là Joe Haveling tức giận nói với vợ:
- Đồ ngốc!
- Em đã nói là không muốn ký mà! Anna đáp. Đáng lẽ anh phải tự ký tên.
- Người ở làng biết Anna Schmid, chứ không ai biết Joe Haveling! Và đáng lẽ em không nên làm theo lời thằng giao hàng kia. Trông em như một đứa bé học sinh đứng trước thầy giáo...
Joe Haveling im lặng vài giây rồi nói lại:
- Đồ ngốc!
Anna đang bước về nhà quay lại đột ngột:
- Anh mới là đồ ngốc! - Anna nói khẽ nhưng rõ. - Anh với cái hố ngu ngốc ngoài sân. Em tin chắc là anh bị ảo giác!
- Hoàn toàn không! Điều anh thấy là có thật! - Joe Haveling phản đối. - Anh thấy nó ở thảo nguyên trên kia. Thậm chí nó đã xuống tới dây.
- Em không tin.
- Em chỉ tin những gì em sờ được, chạm được, nắm được và nhốt được trong một két sắt ở ngân hàng. - Joe Haveling tuyên bố. - Em không bao giờ chịu ra khỏi cái nhịp độ hằng ngày, không bao giờ có sáng kiến lạ nào. Không có anh...
- Em biết! Em biết! Anh đã nói cả trăm lần rồi. Chính anh là người có sáng kiến... và có ảo gíac nữa, đúng không? Không có anh, thì em sẽ là gì?... Em nghĩ là không có anh em sẽ sướng hơn nhiều. Chỉ có một mình em là mạo hiểm trong khi anh thì yên tĩnh tưởng tượng ra những điều vô lý...
- Cứ để anh làm rồi em sẽ thấy.
- Em biết là em đâu có cách lựa chọn nào khác! - Anna sẵng giọng đáp.
Rồi Anna bước nhanh về nhà bếp.
- Nhanh lên! Chuồn thôi! Peter kêu khẽ.
Ba Thám Tử Trẻ rút lui và nhanh chóng ra ngồi một góc trong cái gian rộng lớn. Một hồi sau, Anna xuất hiện trong gian phòng. Khi thấy ba thám tử, chị đứng sững lại.
- Các em đang ngồi đây à? Chị không hay là các em đã về.
Hannibal bỏ tờ báo đang giả bộ đọc xuống rồi đứng dậy.
- Tụi em đi dạo về phía khu cắm trại. - Hannibal giải thích với Anna. - Ở đó tụi em đã gặp ông Smat, ông kể những chuyện rất thú vị.
- Ông ấy lạ lùng lắm. - Anna nói. - Ông khẳng định ông biết nói chuyện với thú vật và chúng hiểu ông.
Chị nhún vai:
- Ôi đàn ông! Trong đầu đàn ông toàn là những ý nghĩ kỳ quặc. Ai cũng thế!
Chị đi ngang qua trước mặt ba thám tử, leo lên lầu. Chẳng bao lâu có tiếng đóng sập cửa.
- Hừm! - Bob kêu. - Tuần trăng mật không còn được ngọt ngào lắm!
Peter nhíu mày và gãi đầu.
- Mình khó hiểu quá. - Peter nói. - Chị Anna không muốn ký giấy nhận xi măng và đã nói láo với người giao hàng. Chị không đang nhồi bột khi được chồng gọi. Còn những mạo hiểm mà chị ấy phải chịu! Chị nói về cái gì vậy?
Hannibal quay lưng lại với lời phát biểu:
- Chị Anna nghĩ rằng chồng mình ảo giác. Chị không tin vào điều mà anh Joe khẳng định mình đã nhìn thấy trên thảo nguyên... về cái thậm chí đã xuống đến tận đây.
Peter rời khỏi ghế để bước dọc bước ngang trong phòng, đầu cúi xuống như chìm đắm trong suy nghĩ.
- Vật đó. - Peter nói. - Không hiểu... những gì anh Charlie Richardson kể với bọn mình có phần nào thật không?
- Ta hãy cộng một với một. - Hannibal nói tiếp. - Một cây súng bắn thuốc ngủ, tức là thuốc làm tê liệt... và một điều gì đó mà Joe Haveling đã nhìn thấy trên thảo nguyên. Bây giờ ta đã hiểu tại sao chồng chị Anna lại có một cây súng như thế. Mà ta cũng đã bàn rồi...
Sau một hồi im lặng, Bob nói khẽ:
- Joe Haveling đang săn một con quái vật.
- Nghe... vô lý quá! - Peter nói khẽ.
- Đúng! - Hannibal thừa nhận. - Tuy nhiên mình nghĩ đó là sự thật. Bây giờ, nghe đây... Ta đang nghỉ hè. Sao ta không đi dã ngoại lên trên thảo nguyên ngày mai?
- Đi dã ngoại hay đi săn quái vật? - Peter hỏi.
- Hay cứ tạm gọi chuyến đi tiền trạm. Nếu đúng là có quái vật trên đó, thì thế nào ta cũng tìm thấy dấu vết.
- Có thể, - Peter nói mặt hơi tái đi. - con quái vật bí ẩn đó không thuộc loại để lại dấu vết.
- Đừng nói bậy! - Hannibal càu nhàu. - Cậu hãy nhớ rằng Joe Haveling đã cẩn thận quét sạch sân sáng nay. Chỉ có thể là để xóa dấu vết. Con quái vật không phải là gấu. Anh Joe sẽ không loay hoay thế chỉ vì một con gấu. Đó là một cái gì khác.
Peter mỉm cười nói:
- Ông Smat biết rõ mọi chuyện, nhưng sẽ không nói. Mình bắt đầu hiểu công dụng của cái hồ bơi rồi. Nhìn nó, mình nhớ đến cái hố nhốt thú to ở sở thú San Diego!
|
Sáng hôm sau, Ba Thám Tử Trẻ dậy thật sớm. Ba bạn cuộn túi ngủ lại, cất vào tủ nhỏ dưới cầu thang, rồi để lại thư trên bàn nhà bếp để báo cho anh Hans và anh Konrad biết về chuyến đi. Sau khi ăn sáng nhanh bằng cà phê sữa và bánh mì bơ, ba thám tử lên đường đi lên phần núi nằm phía trên sân trượt tuyết. Hannibal đeo ba lô, còn Peter đeo bình nước ở thắt lưng.
Lúc đầu ba bạn leo thẳng theo sân trượt tuyết. Nhưng do rất khó đi trên đá rải đầy trên sân trượt tuyết, cuối cùng ba thám tử đi tiếp dọc theo hàng cây ven sân. Như vậy dễ đi hơn.
Sau khoảng hai mươi phút, không khí loãng hơn khiến ba bạn thấy hơi khó thở. Chính Peter cũng thè lưỡi. Peter dừng lại, tựa lưng vào thân cây.
- Nhìn từ quán trọ, - Peter nói, - không ngờ núi cao đến thế.
Bob phá lên cười.
- Chàng lực sĩ của ta thấy mệt rồi sao?
- Phổi mình không quen làm việc ở độ cao. - Peter giải thích. - Gần như suốt năm, bọn mình sống bên bờ biển mà.
Hannibal cũng đứng lại và đang khó khăn thở lại cho đều.
- Ta vẫn cứ tiến. - Hannibal tuyên bố.
- Hy vọng chính là sự sống! - Peter trả lời.
Ba thám tử lại đi tiếp. Đôi khi ba bạn níu vào những cành cây thấp để lên cho dễ hơn. Sau khoảng nửa tiếng, núi đỡ dốc hơn. Cây thưa dần. Cuối cùng ba bạn ra đến bờ thảo nguyên.
- Đẹp quá. - Hannibal nói khẽ.
Gió làm cho đám cỏ xanh dờn gợn sóng. Đây đó, những khối đá trắng to cháy nắng nhô lên. Những cây to lớn giới hạn thảo nguyên ở ba phía. Cạnh thứ tư, là cạnh tạo thành phía trên sân trượt tuyết, thì lại thoáng. Ba thám tử nhìn thấy những cột sắt của cái máy kéo lên dốc cắm đều cho đến con đường. Trông quán trọ của chị Anna bé tí xíu. Xa hơn, thấy được các khóm cây thông, và xa hơn nữa là khoảng cát trống trải của thung lũng Owens. Phía tây, đỉnh núi Lofty hiện rõ trên bầu trời, cùng những ngọn núi khác của dãy núi, cao hơn nữa. Một số đỉnh núi có tuyết vĩnh viễn.
Ba nhà leo núi trẻ tiến lên chậm, mắt dán xuống đất. Cuối cùng Bob thấy được dấu vết đầu tiên trên nền đất trần. Bob rút ngay quyển sách nhỏ về động vật mà cậu tìm thấy ở quán trọ. Bob mở ra chương dấu chân, rồi quỳ xuống cạnh dấu vết đã phát hiện để so sánh với dấu chân gấu được vẽ trong sách. Rồi Bob nhún vai:
- Đúng là con gấu. - Bob thông báo. - Đương nhiên thôi.
- Thế bọn mình đang tìm cái gì vậy? - Peter hỏi. - Mà bọn mình muốn tìm cái gì chứ?
- Cậu biết rõ ta tìm gì rồi. - Hannibal tuyên bố. - Một vết chân không có trong quyển sách này.
- Nếu tìm thấy nó, thì hy vọng bọn mình chỉ thấy một mình dấu chân thôi, chứ không thấy con thú đã tạo ra nó. - Bob nói.
Gió thổi mạnh hơn trên thảo nguyên, làm cho cỏ kêu rít lên và cây ven đó thì thầm. Đột nhiên, phía sau lưng mình, Ba Thám Tử nghe thấy như tiếng kêu rên.
Peter giật mình. Hannibal quay lại.
- Ồ! Không! - Thám tử trưởng kêu.
Đúng lúc đó, Peter cảm thấy hơi thở trên cổ chân mình. Peter nhìn xuống và chưng hửng. Một chú gấu con, chừng vài tháng tuổi, đang nhìn Peter thân thiện.
- Mẹ... mẹ nó đâu? - Peter cà lăm.
- Ngay phía sau lưng cậu! - Bob la lên. - Chạy đi!
Tiếng gầm gừ giận dữ vùng lên. Con gấu con chạy về hướng có tiếng gầm gừ, còn ba thám tử chạy theo hướng ngược lại, về hướng sân trượt tuyết.
Peter đến sân trượt tuyết đầu tiên. Peter nhảy, thả mình lăn khoảng ba chục mét. Bob và Hannibal vượt theo sau Peter. Rồi cả ba nằm yên, ép sát mình vào sườn đá, nghe gấu mẹ mắng con. Gấu con kêu lên những tiếng the thé.
- Chắc là nó đang bị mẹ giã mấy bạt tai. - Bob nói khẽ.
- Có lẽ ta không có gì phải sợ. - Hannibal tuyên bố. - Khi mà ta không hại gấu con, thì gấu mẹ sẽ để cho ta yên thôi.
- Mình không hề có ý định làm gì gấu con! - Peter la lên. - Và có lẽ nên bảo gấu con không nên lại gần người!
- Mẹ nó đang giải thích cho nó rồi. - Bob cười nói.
Ba bạn chờ thêm một chút và chỉ leo lên trở lại khi trên cao hoàn toàn im lặng. Ba thám tử lên đến thảo nguyên vừa kịp lúc để thấy hai mẹ con gấu biến mất vào rừng về hướng tây. Hannibal bỏ ba lô đang đeo xuống.
- Mình không nghĩ chúng sẽ quay lại đâu. - Hannibal nói. - Tuy nhiên, trong trường hợp này, chắc chắn ông Smat sẽ khẳng định ta là người xâm lăng. Đây là lãnh thổ của loài gấu. Cho nên ta phải nhìn kỹ mình đặt chân chỗ nào.
- Cậu nói rất đúng! - Peter công nhận. - Riêng mình, về phần chân mình ấy, mình sẵn sàng đặt chân này trước chân kia... đi về hướng quán trọ.
- Sao? Cậu không muốn phát hiện xem Joe Haveling săn loại thú nào à?
- Mình vừa muốn vừa không muốn! Mình không thích phải đụng đầu với con quái vật lắm!
Hannibal rút những cái máy nhỏ ra khỏi ba lô.
- Nếu chia nhau ra, ta có thể thám hiểm một diện tích lớn hơn. - Hannibal tuyên bố. - Nhưng ta phải giữ liên lạc với nhau. Vì ta không biết là có thể gặp chính xác con gì, nên mình đã mang mấy cái máy định vị bỏ túi theo. Mình đã cho vào vali, phòng hờ...
Những cái máy định vị là một phát minh của Hannibal.
- Chu đáo quá! - Peter thở dài và lấy một cái máy. - Chạy tốt chứ? Mình không muốn gặp nguy hiểm, mà lại không gọi được các cậu.
- Mình đã kiểm tra trước khi rời Rocky. - Hannibal giải thích. - Chạy tốt. Các cậu nhớ cách xài chứ?
- Nhớ! - Bob mỉm cười đáp.
Hannibal có tài sửa chữa vặt và thường sưu tập đủ thứ lấy từ đống đồ linh tinh của chú thím để làm ra những máy rất có ích cho các cuộc điều tra của Ba Thám Tử Trẻ.
Máy định vị của Hannibal có công dụng làm tín hiệu báo động. Máy nhỏ hơn bộ đàm mà ba thám tử hay dùng và phát ra tiếng “bíp” mà hai máy kia có thể nhận, tiếng bíp này mạnh dần khi máy phát ra nó gần lại. Trên mặt đồng hồ của mỗi máy có kim để chỉ hướng từ đâu phát ra tiếng bíp.
Máy định vị không chỉ phát và nhận tín hiệu âm thanh. Ngoài ra máy còn có bóng đèn nhỏ màu đỏ sáng lên khi có người nói. Khi một thám tử gặp rắc rối và muốn gọi hai bạn đến tiếp viện, thì chỉ cần nói tiếng “cứu” là bóng đèn đỏ sẽ sáng lên ở hai máy kia.
- Bây giờ mình đề nghị thế này, - Hannibal vừa nói vừa nhìn dò xét rừng cây viền mép thảo nguyên, - khó mà có hy vọng tìm ra dấu vết gì ở dây, cỏ dày quá. Nhưng dưới cây, thì không có cỏ, đất trần. Mà rất có thể sinh vật mà ta tìm đang trốn trong đó.
- Lý luận đúng. - Bob gật đầu.
- Vậy mình đề nghị ta khám xét khu rừng xung quanh. - Hannibal nói tiếp. - Cả ba ta sẽ vào rừng! Mình đi hướng bắc, còn Bob đi hướng nam. Peter đi về hướng tây. Thỉnh thoảng ta sẽ phát tín hiệu để biết mỗi người đang ở đâu. Nếu ai bị nguy hiểm, thì sẽ kêu cứu. Thống nhất nhé?
- Đồng ý! - Peter và Bob đồng thanh trả lời.
Hannibal đeo ba lô lên vai trở lại, vẫy chào Bob và Peter rồi bước đi cương quyết. Peter mỉm cười như để chứng tỏ mình không sợ, và cũng lên đường. Bob lưỡng lự một hồi, lắng tai nghe tiếng gió phá vỡ bầu không khí im lặng trên núi. Rồi tay cầm máy định vị, Bob đi về hướng nam.
Sau một hồi Bob quay lại, Hannibal đã đâm vào rừng viền phía bắc thảo nguyên, nhưng vẫn còn nhìn thấy Peter.
Bob bấm máy định vị và nhận được tiếng bíp của Hannibal, rồi một tiếng khác của Peter, Peter quay lại vẫy Bob.
Khi đến hàng cây đầu tiên ở phía nam, Bob dừng lại. Ngoài thảo nguyên, với mặt trời chiếu sáng trên bầu trời xanh biếc, trời sáng sủa và ấm áp. Nhưng ở trong đây, ánh nắng khó khăn mới lọt qua nổi tàn cây rậm. Nền đất phủ một lớp dày lá kim.
Bob chăm chú bắt đầu bước tới, đầu cúi xuống tìm một dấu chân. Thỉnh thoảng Bob dừng lại để nghe. Một con chim giẻ vô tình la lên. Rồi có tiếng một con sóc chạy xuống thân cây.
Đột nhiên Bob cảm thấy mình nhìn thấy cái gì là lạ. Đó là một chỗ đất trống không sâu lắm, nơi một con thú to đã bước qua làm dịch chuyển lá thông.
Bob bấm máy định vị. Bob lần lượt nhận được hồi âm từ phía bắc rồi phía tây. Trong thoáng lát, Bob định kêu cứu để Hannibal và Peter đến xem dấu chân, nhưng rồi Bob nghĩ dấu vết này không đủ rõ. Có lẽ đó chỉ là con gấu, hay thậm chí một con vật nhỏ hơn nữa. Thế là Bob quyết định tìm kiếm nhiều hơn rồi hẵng báo động cho Hannibal và Peter. Có thể Bob sẽ gặp được một dấu chân khác rõ hơn.
Bob càng tiến sâu vào rừng, trời càng tối hơn. Mỗi khi thấy một khoảng đất trống, Bob chạy tới xem xét. Hai lần, Bob tìm thấy một chỗ lá kim bị lún sâu xuống đất dưới trọng lượng của một con thú to. Nhưng dấu chân vẫn chưa rõ. Không thể đoán được là thuộc loài vật nào.
Nên Bob tiến thêm. Chẳng bao lâu, trong khi trời sắp tối Bob vẫn còn thấy ánh sáng trước mặt. Bob bước nhanh lên và ra đến khoảng rừng thưa. Đột nhiên Bob đứng sững lại: trước mặt Bên là một khe vực sâu.
Bob thận trọng cúi ra phía trên hố. Đó là khe nứt khổng lồ kéo dài khoảng năm mươi mét. Ở giữa rộng khoảng ba mét. Vách của cái hố tự nhiên này gần như thẳng đứng. Tít dưới đáy, Bob nhìn thấy tuyết, mà ánh nắng mùa hè không làm tan nổi.
Bob biết đây là gì. Cậu làm việc ở thư viện thành phố Rocky. Và đã từng lật xem một quyển sách có bản đồ chi tiết của núi San Gabriel. Một trong các bản đồ đó cho biết là ở phía hồ Mamouth có một vùng có một khe vực tương tự do động đất. Dưới đáy khe Mamouth cũng mát như dưới tầng hầm, kể cả vào những ngày nóng nhất. Dưới đó tuyết rơi vào mùa đông cũng không bao giờ tan hẳn.
Đột nhiên Bob nhận được trên máy cú gọi từ hướng bắc, đó là vị trí của Hannibal, rồi ngay sau đó một cú gọi khác từ hướng tây tương ứng với Peter. Bob điều khiển máy định vị và hối tiếc vì không có bộ đàm. Bob rất muốn thông báo về khe vực này nằm tương đối gần quán trọ của chị Anna.
Bob nhìn lại khe vực, rồi xem xét mép. Ở chỗ đó có đất trần vẫn ẩm ướt bắt chấp hạn hán. Chân Bob để lại dấu rất rõ.
Lòng tràn trề hy vọng, Bob tiếp tục tiến tới, mắt dán xuống đất.
Phía sau Bob, bên trái, có tiếng cành cây kêu rắc...
Bob đứng yên lắng nghe. Một giây trôi qua, rồi một giây khác và một giây khác nữa. Sau tiếng kêu rắc đó, im lặng có vẻ sâu hơn. Quá sâu lắng. Chim đã im tiếng, sóc không còn chạy trên cây nữa. Chính gió cũng ngưng không thổi nữa. Tưởng như muôn vật sống trên núi đều đã yên lặng đi giống như Bob, chở đợi...
Nhưng chờ đợi cái gì?
Cơ bắp chân trái của Bob bắt đầu bị tê. Bob giũ giũ cái chân, đằng hắng.
- Kìa bình tĩnh lại đi chứ! - Bob nói lớn tiếng với chính mình. - Đừng để trí tưởng tượng tung hoành.
Giọng nói của Bob vang dội lạ lùng trong im lặng.
Bob lắng nghe nữa và chỉ nghe máu đập dồn bên tai. Rồi Bob nghe một cái gì đó khác... một cái gì đó rất gần. Bob cảm thấy có tiếng thở gần vai mình.
Từ từ, rất chậm để không làm cho con thú phía sau sợ, Bob bắt đầu quay lại.
Khi đó Bob cảm thấy hơi nóng phà vào vô mình, rồi cảm thấy mình bị chạm... chạm một cách rụt rè, như ngón tay cạ vào cổ áo.
Bob mất bình tĩnh, nhảy phắt lên và xoay người lại.
Về sau Bob không thể nào nói ai đã hét trước. Có phải Bob hay là sinh vật kia? Bob chỉ nhớ tiếng hét vang chói tai... trong khi mắt mình gặp phải hai con mắt tối viền đỏ.
Về cuộc chạm trán khủng khiếp đó, Bob còn thoáng nhớ được một hình bóng đồ sộ, to tướng và rất nhiều lông. - lông hay tóc. - xồm xoàm.
Sau khi la - hay nghe la - Bob bị mất thăng bằng, ngã ra phía sau. Nhìn thấy bầu trời, rồi thấy vách dốc đứng của khe vực. Bob xoay người trong khi rơi, rồi nhìn thấy lớp tuyết phủ đáy hố tiến gần mình thật nhanh!
Cuối cùng, Bob cảm thấy mình đang chạm đất trên hai tay và hai đầu gối, đúng lúc một tiếng la hét thứ nhì vang lên trên cao.
Sau đó Bob ngất đi.