Lan Lăng Vương (Tập 2) - Chương 7 - Phần 2
3.
“Từ huynh, theo ta thấy, Tể Tướng đại nhân và Tư Không đại nhân đều ở trong Hoàng cung rất lâu, hình như có gì đó bất thường. Trong Hoàng cung này, e rằng sắp có một biến cố mới.”
Tôi men theo bờ tường đi về phía trước, vì sợ không tìm thấy đường nên tôi không dám rẽ vào đâu. Đoạn này là tận cùng của bức tường, bỗng dưng soi rõ hai bóng người, xem ra là quan văn. Tuy rằng đã hạ thấp âm thanh nhưng những lời họ nói vẫn vang lên rõ ràng trong đêm tối yên lặng này.
Vội vàng núp vào một chỗ khuất ở góc tường. Nghe thấy một giọng khác lên tiếng.
“Trịnh đại ca, huynh với ta ở trong cung cũng đã lâu, chẳng nhẽ còn không nhìn rõ chuyện gì sao? Những người ngồi trên Long sàng, có ai là ngồi được lâu? Theo ta thấy, người hiện nay e là đã đến lúc rồi.”
Một giọng khác thận trọng lên tiếng:
“Từ lão đệ, không thể nói thế được! Nếu để người khác nghe thấy thì phiền phức lớn đấy.”
“Bây giờ chỉ có hai chúng ta, sợ gì? Canh ba nửa đêm, người bên kia tường đã đi ngủ cả rồi, còn sợ có tai sao?”. Người có vẻ trẻ tuổi hơn cười, nói tiếp: “Tóm lại Tể Tướng đại nhân “cắt” Hoàng đế cũng chẳng phải lần đầu tiên”. Nói rồi người đó còn lên tiếng rất hình tượng.
“Haizz, thực ra hạng tiểu quan như chúng ta, ai làm chủ cũng chẳng quan trọng. Coi như là xem kịch thôi. Nói ra, Tư Không đại nhân Vũ Văn Dung nghe lời Tể Tướng đại nhân như thế thì vị Hoàng đế tiếp theo chắc chắn là ngài ta rồi.”
“Ồ? Thế là sao? Nếu Trịnh huynh quả thực có viễn kiến như thế thì bây giờ chúng ta đi lấy lòng người của Tư Không phủ cũng còn kịp đấy!”
Người đó ngừng lại, quay đầu nhìn ngó xung quanh, dáng vẻ càng thêm thần bí:
“Hôm đó ở Dao Quang Điện ta vô tình nghe thấy, Vũ Văn Dung chính miệng nói với Tể Tướng đại nhân, sẵn sàng vì ông ta mà gánh chịu ác danh, đích thân ban rượu cho ca ca Vũ Văn Dục của ngài ấy.”
“Ban rượu? Chẳng nhẽ... chẳng nhẽ Tể Tướng đại nhân định động thủ ngay sao?”. Người có vẻ lớn tuổi hơn ngỡ ngàng, lắp bắp: “Nhưng bình thường Tư Không đại nhân chỉ lo phong hoa tuyết nguyệt, không màng chính sự, với Hoàng thượng lại tình như thủ túc, sao có thể làm chuyện đó?”
“Haizz, chữ lợi được đặt lên đầu, tuy rằng Hoàng đế vì bị Tể Tướng đại nhân thao túng, nhưng cũng là dưới một người, trên vạn người, ai mà không muốn? Vả lại Tư Không đại nhân với Công chúa Đột Quyết đã có hôn sự, chắc chắn là người thích hợp nhất để tiếp nhận đại quyền.”
Tai tôi rúng động, trong lòng thầm thấy kinh ngạc, hôn sự gì, công chúa Đột Quyết gì? Sao tôi chưa bao giờ nghe nói.
“Hả? Công chúa Đột Quyết nào? Chuyện này sao ta không nghe nói? Trịnh lão ca nói xem nào?”
“Chuyện này đừng nói là ngài, rất nhiều lão nhân trong cung cũng không biết, dù sao cũng là chuyện của tiền triều mà. Khi Đại Tư Không Vũ Văn Dung còn là một thiếu niên, để tăng cường liên minh với dân tộc du mục phương Bắc, phụ thân của ngài là Vũ Văn Thái phái vương công đại thần đi liên hôn với Đột Quyết. Vũ Văn Thái vô cùng thương yêu Vũ Văn Dung, cũng muốn trải sẵn đường đi cho con trai mình sau này, nhưng Đột Quyết Khả Hãn khi đó không có người con gái thích hợp nào để gả, chỉ có một tiểu công chúa do một người thiếp vừa mới sinh ra. Thế là Tể tướng Vũ Văn Thái bèn dâng lên nhiều vàng, xin cho Vũ Văn Dung được cưới tiểu hài nhi còn chưa tròn tuổi này làm vợ chính. Hai nước đã ước hẹn với nhau, khi công chúa trưởng thành, Trung Nguyên sẽ phái nghi trượng tới rước tân nương. Nếu tính ra thì có lẽ chỉ trong vài năm nay thôi.” Viên văn quan lớn tuổi vuốt râu, đắc ý nói: “Bây giờ chiến tranh giữa Tề quốc với Chu quốc ngày càng gay gắt, để lôi kéo Đột Quyết, mối quan hệ này không thể không tận dụng.”
Không biết vì sao, tim tôi bỗng dưng thấy chua cay, công chúa Đột Quyết? Vợ cả? Chả trách trong Yên Vân Các của chàng toàn là tì thiếp, chả trách ngay cả tôi với tư cách là cháu của Nguyên phu nhân cũng không thể có danh phận này. Nhưng vì sao Vũ Văn Dung biết rõ rằng tôi không thể làm vợ của chàng mà vẫn đối xử dịu dàng với tôi? Tôi cuộn mình vào bóng râm ở góc tường, bỗng dưng cảm thấy mình như một con ngốc. Thời cổ đại tam thê bảy thiếp là chuyện thường tình, sao tôi có thể như thế được? Loáng thoáng thấy hai quan văn đó còn nói thêm vài câu vô dụng, rồi hai người đi về hai hướng khác nhau. Tôi vội vàng đứng lên len lén nhìn theo hướng họ đi, chiếc đèn lồng treo trên tường mù tối, nhưng vẫn thấp thoáng thấy được bóng của họ, một cao một thấp, một béo một gầy, thêm vào đó là Họ của hai người này, có lẽ sau này không khó để tìm ra.
Họ đi xa rồi, rất lâu sau tôi mới bước ra khỏi bóng râm nơi tường thành, mang theo tâm trạng phức tạp quay về. Tới giờ vẫn chưa được nửa canh giờ, không biết Diệu Vô Âm đã đi chưa, liệu có gây điều gì bất lợi cho Hương Vô Thần không?
Đúng lúc này thì từ cách đó không xa vang lên tiếng bước chân dồn dập, loáng thoáng nhìn thấy bốn người khiêng một chiếc kiệu gỗ sơn son thếp vàng, đằng trước có hai người xách hai cái đèn lồng lớn, chiếu sáng rực cả con đường, nhất thời tôi không biết trốn vào đâu, đành phải giả bộ là kẻ hạ nhân bình thường, quay lưng đứng sát vào góc tường.
“Ngươi ở cung nào? Sao muộn rồi còn đi lang thang ở ngoài?”. Có lẽ là thấy bộ dạng của tôi đáng nghi nên viên tiểu quan đi đầu trầm giọng hỏi.
Tôi đành quay người lại, cố gắng đáp thật khẽ:
“Tiểu nhân là người của Nguyên phu nhân ở Tể tướng phủ phái tới, vì bị lạc đường nên mới ở đây.” Thầm nghĩ bây giờ mặt mũi tôi đen nhẻm, trên người lại mặc bộ y phục tầm thường, có lẽ không ai nhận ra được đâu. Người đó nhìn tôi một lát, quả nhiên không nghi ngờ gì nữa, nghe nói tôi là người của Tể tướng phủ thì thái độ tốt hơn một chút:
“Ngươi đi về đằng kia đi. Đừng chặn đường Tư Không đại nhân.”
Cái gì, Tư Không đại nhân? Tôi khựng lại, chẳng lẽ người ngồi trên kiệu kia là Vũ Văn Dung? Tôi bất giác nghiêng đầu nhìn sang. Trong bóng tối đằng sau tấm rèm châu, thấp thoáng có thể nhìn thấy một nam tử áo gấm đang say ngủ, dưới màn đêm, gương mặt của chàng mơ hồ, nhưng lại vô cùng quen thuộc.
Tôi nhìn chàng, trong lòng bất giác có hàng ngàn suy nghĩ.
Chẳng qua chỉ mới chia tay nhau nửa tháng trời mà cứ như thể đã xa nhau lâu lắm. Tôi định lại gần đánh thức chàng dậy, nói với chàng rằng tôi cũng ở đây, nhưng không biết vì sao, tôi đột nhiên lại không nói được lời nào. Không muốn để chàng nhìn thấy bộ dạng này của tôi, không muốn gặp lại chàng trong hoàn cảnh này, cũng không muốn đối mặt với người gọi là công chúa Đột Quyết.
Có lẽ trong tiềm thức, tôi hy vọng tôi chẳng nghe thấy gì, chẳng biết gì. Như thế thì không cần chất vấn, không cần hoài nghi, chỉ cần lặng lẽ về Tư Không phủ chờ chàng.
“Vâng!”. Tôi nghe lòng mình chua xót, quay người bước đi.
Khó khăn lắm mới tìm được đường về căn nhà nhỏ ấy. Tôi đứng ngoài cửa dỏng tai nghe ngóng, bên trong chẳng có âm thanh gì.
Diệu Vô Âm đã đi rồi sao? Tôi đẩy cửa bước vào, trong căn phòng chỉ có một ngọn đèn nhỏ xíu như hạt đậu, trong khoảng không gian tối tù mù, trên giường có một người nằm.
“Hương Vô Thần?”. Tôi gọi khẽ, ông ta không trả lời. Tôi giơ cao ngọn nến lại gần mới phát hiện trên y phục ông ta dính vết máu màu đen, gương mặt nhợt nhạt như tờ giấy. Tôi hoảng sợ, vội vàng đưa tay đặt lên mũi ông, đã không còn hơi thở.
Tôi thót tim, hoảng hốt lay ông ta dậy:
“Hương Vô Thần! Hương Vô Thần, ông tỉnh dậy đi! Đừng dọa tôi!”. Tôi vô cùng hoảng loạn, cuối cùng chẳng nói được lời nào, chỉ bật khóc.
Đúng lúc này, Hương Vô Thần đột ngột ngồi bật dậy, vòng tay qua thắt lưng tôi, bật cười ha hả:
“Bị ta dọa rồi phải không? Ta không biết thì ra cô lại quan tâm tới ta như vậy!”
Tôi giật này mình, suýt nữa thì làm rơi ngọn nến trong tay xuống, nhất thời cũng không đẩy ông ra mà mặc cho ông ôm, phẫn nộ quát:
“Hương Vô Thần! Ông chưa nghe chuyện “Cậu bé nói dối” sao? Ông mà như thế thì sau này sẽ chẳng còn ai tin ông đâu.”
Ngọn nến bập bùng soi rõ gương mặt như ngọc của ông ta, nụ cười ấy càng thêm đáng ghét, bàn tay quấn lấy người tôi, vô lại nói:
“Ai cũng nói quá tam ba bận, giờ mới là lần đầu tiên, có gì mà cô phải giận?”
Tôi điên tiết, đang định chửi ông ta vài tiếng thì thấy cánh cửa gỗ của căn phòng nhỏ đã bị người ta đẩy ra từ lúc nào.
Ngoài kia là màn đêm đen kịt, người đó tay xách một chiếc đèn lồng, bộ cẩm y màu đen gần như hòa lẫn với màu của bóng đêm, ánh lên đôi mắt sáng ngời như sao.
Chàng quắc mắt nhìn tôi vẫn đang trong vòng tay của Hương Vô Thần, đôi mắt sâu thẳm, dường như có một ngọn lửa đang cố kiềm chế. Trong đó bao hàm sự khó hiểu, hoài nghi, và cả cơn thịnh nộ ẩn chứa sự đau đớn. Sóng mắt dữ dội ấy ánh lên một vẻ tổn thương sâu sắc.
Tôi đờ đẫn cả người, không ngờ vào lúc này, ở nơi này lại nhìn thấy chàng, tôi khàn giọng gọi lên tên chàng:
“Vũ Văn Dung...”
4.
Dòng nước chảy róc rách trong suối nước nóng ở Dao Quang Điện. Cái chậu gỗ trôi trên mặt nước đựng đầy sữa, tôi vốc một vốc rửa mặt, bầu không khí xung quanh lập tức tỏa lên mùi sữa thơm dìu dịu.
Thực sự không ngờ được rằng tôi dùng giọng giả thanh để nói chuyện, mặc một bộ y phục lem luốc, mặt mũi lại đen nhẻm vì tro mà canh ba nửa đêm, Vũ Văn Dung vẫn nhận ra tôi, hơn nữa dọc đường còn theo tôi tới tận căn nhà nhỏ này, còn nhìn thấy cảnh tượng Hương Vô Thần ôm tôi.
Nhớ ban nãy chàng sa sầm mặt, cầm ngọn đèn lồng đứng ở cửa, chỉ mặt Hương Vô Thần, hỏi tôi:
“Người này là ai?”
“Một người bạn!”. Tôi thầm tính toán trong lòng rất lâu, rồi đành đưa ra câu trả lời ấy. Thấy sắc mặt của Vũ Văn Dung rất khó coi, tôi lại bổ sung thêm một câu: “Một người bạn bình thường!”
Hương Vô Thần đứng lên, chỉnh lại vạt áo rồi ngồi xuống cạnh bàn, mỉm cười nói:
“Đúng, bọn ta chỉ là bạn bình thường thôi!”
Tôi nghiến răng nhìn ông ta một cái, nghĩ bụng lúc này tốt nhất ông không nên nói gì thì hơn. Vũ Văn Dung lạnh lùng liếc qua mặt Hương Vô Thần, rồi lại nhìn sang tôi, trầm giọng nhả ra ba tiếng:
“Đi theo ta!”
Tôi hoàn toàn bị ánh mắt lạnh lùng của chàng trấn áp, nhìn Hương Vô Thần một cái, rồi đành ngoan ngoãn theo Vũ Văn Dung ra ngoài. Lúc này bàn tay tôi bỗng dưng bị kéo nhẹ, quay người lại thấy Hương Vô Thần chớp mắt với tôi, nói nhỏ:
“Giờ Tí ngày mai gặp nhau ở Lãnh Ngọc Trì. Ta đi trước một bước, không ở lại nơi này chờ phu quân cô tới trả thù đâu.”
Vũ Văn Dung nghe tiếng quay lại, trong đôi mắt đen sâu thẳm lóe lên một vẻ giận dữ khó che giấu, sầm mặt nhìn Hương Vô Thần. Tôi thấy tình cảnh đó thì vội vàng bước lên níu tay Vũ Văn Dung, cười nói:
“Mau đưa thiếp đi tắm giặt thay quần áo đi, chàng nhìn thiếp thế này, e rằng đến mẫu thân thiếp cũng không nhận ra mất.”
Vũ Văn Dung cúi đầu nhìn tôi, trong vẻ giận dữ còn có một chút thương yêu, chàng kéo mạnh tôi đi về phía chiếc kiệu sơn son.
Nhìn hơi nước như làn mây trắng bốc lên đằng trước, tôi bỗng dưng có một cảm giác hoang mang. Mấy ngày cải nam trang, phơi sương phơi nắng rồi quay lại Dao Quang Điện trong hoàn cảnh này, tôi và Vũ Văn Dung gặp nhau trong Hoàng cung, đưa theo Hương Vô Thần, mang theo cả cái tin chàng sắp đón công chúa Đột Quyết về làm vợ. Người ta vẫn nói thế sự vô thường, có lẽ chính là ý này. Tôi thở dài, đứng lên thay bộ sắc phụ màu sắc đơn giản mà thị nữ đã chuẩn bị cho mình, lau khô tóc rồi đi ra ngoài. Không biết kế hoạch của chúng tôi tiến hành như thế nào rồi? Tiếp theo Vũ Văn Dung dự định làm gì? Quá nhiều, quá nhiều lời mà tôi muốn nói với chàng.
Biệt viện mà Vũ Văn Dung ở có tên là Minh Nguyệt Hiên. Như cái tên của nó, đúng là nơi tuyệt vời nhất để thưởng trăng trong Hoàng cung. Khoảng không gian rộng lớn không bị che khuất, xung quanh là nước, chỉ có một cây cầu gỗ nhỏ nối liền với Dao Quang Điện. Lúc này tiết thu se lạnh, một vầng trăng sáng vằng vặc treo trên bầu trời, ánh trăng như sương che mờ khung cảnh. Vũ Văn Dung dựa vào gốc cây đợi tôi, trong tay cầm một miếng vải da, gương mặt nghiêng nghiêng, dường như chất chứa rất nhiều tâm sự.
Tôi tới bên cạnh chàng, ngẩng đầu ngắm nghía gương mặt điển trai mà mọi nếp nhăn trên đó tôi đều đã rất quen thuộc, quá nhiều lời nói mà đột nhiên chẳng tài nào thốt ra được. Dưới ánh trăng, Vũ Văn Dung chăm chú nhìn tôi, chầm chậm đưa tay lên gò má tôi.
Bàn tay của chàng rất nóng, chạm lên làn da lạnh lẽo của tôi, mang theo một hơi ấm lạ thường. Tôi định lên tiếng, nhưng đột nhiên chàng bịt miệng tôi lại.
“Không cần phải nói gì cả. Thanh Tỏa, ta tin nàng!”. Tôi chấn động, ngẩng đầu lên nhìn, thấy thần sắc chàng thay đổi, dường như được phủ thêm một lớp thâm trầm của bóng đêm, chàng đặt miếng vải da vào tay tôi, nói: “Nàng mang bức thư này về Tư Không phủ trước. Đây là di vật của Phụ hoàng để lại cho Hoàng huynh, trên đó có ghi chép về một bảo tàng. Nay địa vị của Hoàng huynh không vững, Vũ Văn Hộ cũng đã nghi ngờ ta, Tàng bảo đồ này không thể để trong hoàng cung được nữa.”
Tôi khựng lại, vừa định đưa tay ra nhận lấy phong thư đó thì khóe mắt liếc thấy ở đằng xa có một bóng người quen thuộc đang đi tới, chiếc áo bào đen tuyền, thấp thoáng ánh sáng của những sợi chỉ vàng, kim quan treo lủng lẳng như những hạt trân châu, đó là Vũ Văn Hộ. Ông ta ở hướng chéo với Vũ Văn Dung, lúc này chỉ đi thêm vài bước nữa là sẽ nhìn thấy tấm vải da trong tay chàng. Trong lúc khẩn cấp, tôi giang tay ra ôm lấy Vũ Văn Dung, dùng cơ thể mình che tấm Tàng bảo đồ đi, nói to:
“Văn Dung, xin chàng hãy tha thứ cho thiếp! Là thiếp không tốt, thiếp không nên vì đố kỵ với nữ nhân khác mà nghi ngờ chàng. Sau này thiếp sẽ giải thích lại với cô mẫu!”. Tôi cúi đầu, thì thầm bên tai chàng: “Vũ Văn Hộ sau lưng chàng!”, ngay sau đó lại nói to: “Một ngày nên nghĩa phu thê, ân tình trăm năm, xin chàng đừng ghét bỏ thiếp!”
Tôi ôm chặt Vũ Văn Dung, len lén nhìn ra sau qua vai chàng, thấp thoáng thấy Vũ Văn Hộ dừng lại ở cách đó không xa, núp sau một gốc cây. Tôi nghĩ bụng, lão hồ ly này sao vẫn còn chưa đi?
Vũ Văn Dung cúi đầu nhìn tôi, lúc này chàng ở rất gần, rất gần tôi. Hơi thở của chàng vô cùng quen thuộc, nóng bỏng và bá đạo. Âm thầm cảm thấy miếng vải da ở giữa cơ thể hai chúng tôi hình như sắp rơi xuống đất, nghiêng đầu thấy Vũ Văn Hộ đang ở chỗ núp giương đôi mắt sáng ngời nhìn về phía chúng tôi. Tôi chỉ đành nói to, dùng một ngữ điệu nghe vô cùng ám muội:
“Văn Dung, ôm thiếp!”. Nói rồi đưa tay ra ôm chàng chặt hơn, hai tay như sợi dây leo quấn lấy lưng chàng. Trong bụng nghĩ thầm, cảnh tượng mờ ám giữa đôi nam nữ thế này, lão hồ ly ông nên đi rồi chứ?
Hơi thở của Vũ Văn Dung dường như trở nên rối loạn, tay chàng siết chặt trên hông tôi. Nụ hôn nhẹ nhàng đặt lên tóc tôi, rồi đôi môi chàng trượt xuống. Người tôi cứng đơ lại, nụ hôn của chàng đã đặt lên cổ tôi, mang theo cảm giác nhồn nhột, run rẩy. Trực giác mách bảo cho tôi thấy chàng đã mất kiểm soát, còn chưa kịp nghĩ ra đối sách gì thì Vũ Văn Dung đã bế thốc tôi lên, rảo bước nhanh ra con đường nhỏ trên mặt nước, đi vào Minh Nguyệt Hiên.
Tôi nằm trong lòng chàng, vì sợ làm tấm bản đồ rơi xuống nên chỉ đành nghiêng người ôm chàng, hai tay quấn lấy cổ chàng. Dưới ánh trăng bàng bạc, ánh mắt chàng như mê đắm, hơi thở nóng hổi dường như muốn làm tôi tan chảy. Khi đi qua con đường dài và hẹp, nhờ mặt nước phản chiếu dưới ánh trăng, thấp thoáng thấy Vũ Văn Hộ không đi theo nữa ông ta quay người đi vòng qua gốc cây to rồi đi về một hướng khác. Tôi như được phóng thích, đang định nói với Vũ Văn Dung rằng chúng tôi không cần diễn kịch nữa, nhưng chàng đã bế tôi tới bên giường, thô bạo ném tôi xuống. Tấm bản đồ đó như một chiếc lông vũ màu đen, nhẹ nhàng rơi xuống đất. Chỉ là cả tôi với chàng đều không quan tâm tới nó nữa.
“Văn Dung, chàng đừng thế nữa!”. Nhìn ánh mắt tối sẫm của chàng, tôi bỗng dưng thấy chột dạ, tim đập thình thịch như thể sắp nhảy ra khỏi lồng ngực.
Ở góc phòng của Minh Nguyệt Hiên có đặt một đài nến rất to, trên đó là bốn chín ngọn nến nhỏ thắp sáng, ánh lửa bập bùng, soi sáng cả căn phòng. Cơn gió đêm thổi tới, tấm rèm mỏng khẽ bay lên, xen lẫn vào đó là mùi hương dìu dịu tỏa ra từ mái tóc tôi. Tôi dịch vào trong giường, lắp bắp nói:
“Không còn sớm nữa, chàng và thiếp về phòng nghỉ ngơi đi!”
Vũ Văn Dung bước lên một bước, nhìn tôi chăm chú, ánh mắt chàng ánh lên tia lửa, trong đó hàm chứa rất nhiều tâm trạng phức tạp, bá đạo, dục vọng, chiếm hữu, thương xót, và cả tình yêu sâu đậm. Tôi chấn động vì ánh mắt ấy, rồi bỗng dưng không thể cựa quậy nổi, chỉ đành mặc cho chàng ôm lấy vai tôi:
“Thanh Tỏa, nàng muốn trốn tránh tới khi nào?”. Nói xong, người chàng đổ về phía trước, nhẹ nhàng đè tôi xuống, giọng nói nghe hơi khàn đi: “Nàng còn nhớ không, ta từng nói, nếu để ta gặp lại nàng, chắc chắn ta sẽ bất chấp mọi giá để giữ nàng lại bên mình. Nhưng vì sao rất nhiều lúc, rõ ràng nàng ở ngay trước mắt ta mà ta lại cảm giác nàng ở rất xa. Trong lòng nàng có phải vẫn không hề có ta?”
Vũ Văn Dung nắm tay tôi, nhẹ nhàng đặt lên chỗ trái tim chàng, trong mắt chàng có một khoảnh khắc lóe lên vẻ đau thương khiến tôi gần như bị đánh gục. Tôi lắc đầu, lắp bắp nói:
“Không phải đâu! Văn Dung, chàng... chàng hãy cho thiếp thêm chút thời gian”
Nhưng tôi còn chưa kịp nói hết thì Vũ Văn Dung đã cúi đầu hôn lên môi tôi. Bàn tay chàng dịu dàng nhưng cuồng loạn, thuần thục cởi bỏ từng lớp y phục trên người tôi, khiến làn da tôi lộ ra trong bầu không khí mát lạnh. Tôi định đẩy chàng ra, nhưng chàng càng ôm tôi chặt hơn, nụ hôn rơi lên cằm rồi trượt dần xuống, nụ hôn rơi xuống cổ, mang theo cảm giác run rẩy chưa từng có. Tôi không kìm chế được, rên lên một tiếng, chàng ép sát vào thân thể tôi, đầu lưỡi chàng một lần nữa khéo léo đi sâu vào miệng tôi, hôn tôi thật mạnh.
Ánh nến chao đảo, tấm rèm buông xuống, đôi gối thêu hình uyên ương, đêm nay thật dài, đó là việc mà tôi đã sớm dự cảm rằng nó sẽ xảy ra nhưng tôi không dám nghĩ. Đóa hoa màu đỏ rực nở trên người chàng, giây phút đó, vẻ thương yêu trong mắt chàng khiến tôi nghĩ cả đời này tôi cũng không thể nào quên.
Cứ thế giao phó mình cho chàng. Hơi ấm của chàng, sự nhiệt tình của chàng đều được hiển hiện lên đôi mắt và in sâu vào trong ký ức tôi, đời này kiếp này, không thể nào quên được.
Ngoài kia những tia nắng sớm của buổi bình minh đã lóe lên, hơi lạnh như sương. Trong khoảng khắc, tôi bỗng dưng yếu đuối tới mức muốn khóc.
Hoa mà không phải hoa
Sương mà không phải sương
Nửa đêm đến
Sáng sớm đi
Đến tựa mộng xuân trong giây lát
Đi như mây sớm chẳng nơi tìm[3]
[3]. Bài thơ “Hoa phi hoa” của Bạch Cư Dị.
Tôi thực sự yêu chàng không? Chàng yêu tôi nhiều đến nhường nào? Tình yêu của chúng tôi rốt cuộc có thể phát triển tới bước nào? Bất giác tôi vùi đầu sâu vào ngực chàng, chỉ ước sao giây sau đã hết cả cuộc đời.
5.
Sáng sớm tỉnh dậy, bên gối đã không còn bóng người. Tôi ngồi dậy mặc lại y phục, vừa định xuống giường thì bỗng dưng cảm giác người tôi nhói đau, tôi lại ngã ra gối, nhớ lại mọi việc xảy ra đêm qua, gò má tôi bất giác đỏ bừng. Sau đó là cảm giác bất lực và hoảng hốt.
Chàng là người đàn ông đầu tiên của tôi, nhưng tôi chỉ là một trong số rất nhiều nữ nhân của chàng. Thực ra tôi còn chưa chuẩn bị xong, thậm chí tôi còn không biết mình yêu chàng nhiều đến nhường nào, không biết con đường phía trước nên đi thế nào, nhưng tất cả đều đã thay đổi rồi.
Bất giác tôi nhớ lại câu thơ ấy. “Đến tựa mộng xuân trong giây lát. Đi trong mây sớm chẳng tới tìm”.
Lúc này chàng đang ở đâu? Trái tim chàng đang ở đâu.
Cánh cửa gỗ chạm hoa được đẩy ra nhẹ nhàng, hơi lạnh lùa vào trong phòng, sau đó là một dáng người cao ráo, mặc bộ cẩm y màu xanh nhạt, trên người toát lên mùi hương quen thuộc.
Vũ Văn Dung bê bát thuốc trong tay, tươi cười bước chân vào phòng, khi nhìn thấy tôi, gương mặt chàng ánh lên vẻ dịu dàng. Mặt tôi nóng bừng, quay đầu đi theo phản xạ, lại cảm thấy mình làm như thế hình như quá ngượng nghịu, thế là ép mình quay đầu lại nhìn chàng, lại chẳng biết phải nói gì, nghĩ ngợi rồi nói:
“Ừm, buổi sáng tốt lành!”
Khóe môi Vũ Văn Dung lướt qua một nụ cười, phẩy tay áo rồi ngồi xuống cạnh tôi, đưa tay ra ôm vai tôi, giả bộ nói:
“Ừ, tốt! Đúng là rất tốt, chưa bao giờ tốt như thế!”
Tôi lườm chàng:
“Sáng sớm đã tranh luận với thiếp, thú vị lắm sao?”
Vũ Văn Dung bật cười thương yêu, xoa đầu tôi, đưa bát thuốc trong tay cho tôi:
“Nào, uống đi. Sẽ đỡ đau hơn đấy”. Nói rồi ánh mắt chàng trở nên cực kỳ ám muội. Tôi hiểu ý chàng, má càng nóng hơn, bất giác nắm tay lại đấm chàng. Vũ Văn Dung né người, bát thuốc trong tay chàng suýt thì bị đổ, chàng vội vàng đưa tay còn lại ra ôm tôi vào lòng, kẹp chặt tôi như kẹp một con mèo, thương yêu nói:
“Ngoan nào, đừng hư nữa. Ta đặc biệt sai người chuẩn bị cho nàng đấy!”
Tôi đỏ mặt, ngoan ngoãn uống thuốc. Không biết có phải vì bát thuốc quá nóng hay không mà trong lòng tôi bỗng thấy ấm áp. Ngẩng đầu lên lén nhìn Vũ Văn Dung, thấy chàng đang cúi đầu nhìn tôi, đôi mắt sâu thẳm dường như dâng lên tình ý vô hạn.
Tôi bỗng dưng thấy bối rối, nhảy ra khỏi lòng chàng, xuống giường đi tới trước bàn trang điểm, người trong gương đầu tóc rối bời, trên dung nhan toát lên một vẻ khác lạ, thần sắc tươi tắn, cả người toát lên vẻ đẹp khác hẳn với hôm qua.
Ở bàn trang hiểm không có lược, tôi lục tìm trong ngăn kéo mà không tìm thấy. Đang buồn rầu thì chẳng biết Vũ Văn Dung đã tới bên tôi từ lúc nào, đưa cho tôi chiếc lược sừng trâu quen thuộc:
“Đây!”
Tôi giật mình, đó chính là chiếc lược ngày hôm ấy đã vô duyên vô cớ mất tích ở phòng tôi. Kinh ngạc ngẩng đầu lên, Vũ Văn Dung ngồi trên bàn trang điểm, có vẻ bối rối, nói:
“Hôm đó ta tặng nàng chiếc trâm bạch ngọc, ta rất thích mùi hương ở tóc nàng, nên lấy lược của nàng mang theo người, giống như có nàng ở bên.”
Tôi sửng sốt, một dòng suối ấm áp từ trái tim lan ra khắp cơ thể, gần như sắp nhấn chìm tôi. Nhất thời tôi chỉ biết ngẩn ngơ nhìn chàng, bối rối, cảm động và còn rất nhiều cảm xúc không thể nói thành lời khác.
Vũ Văn Dung cầm cây bút trang điểm trên bàn lên, những ngón tay trắng trẻo thuôn dài trông thật đẹp, tỉ mẩn vẽ lông mày cho tôi, nói:
“Từ ngày hôm nay, để ta vẽ lông mày cho nàng nhé!”. Nói rồi chàng ghé sát lại, chăm chú nhìn lông mày của tôi rồi cẩn thận vẽ, như thể đó là việc quan trọng nhất trên thế giới này. Hơi thở của chàng nghe thật quen thuộc, sợi lông mi chàng dường như chạm lên mặt tôi, khiến tôi bỗng dưng nhớ tới tơ liễu tháng ba như những bông tuyết bay nhẹ nhàng, đẹp không tả xiết.
“Chỉ cho mình thiếp sao?”. Tôi hỏi khẽ, chăm chú nhìn vào mắt chàng, mang theo một sự hy vọng và thấp thỏm. Ai cũng nói nữ nhân nào cũng đố kị, ghen ghét, muốn chiếm hữu đối phương thành của riêng, nhất là ở thời cổ đại năm thê bảy thiếp. Nhưng thì ra tôi cũng không ngoại lệ. Không muốn chàng vẽ mày cho người khác, không muốn chàng nói những lời tương tự cho người khác. Có lẽ trái tim tôi đã thực sự bị tan chảy rồi, và ở một nơi mềm yếu nào đó trong trái tim đã âm thầm khắc tên chàng.
Vũ Văn Dung cúi người xuống, vuốt mái tóc tôi, hôn nhẹ lên đôi môi tôi, nói:
“Ta hứa với nàng, Thanh Tỏa, từ nay về sau trong tim ta chỉ có mình nàng. Đời này kiếp này, không bao giờ từ bỏ!”