Bản Kháng Cáo Cuối Cùng - Chương 29
29
Stan nhìn họ đỗ xe rồi rời xe. Họ giải được câu đố rồi sao? Đúng, họ đang đi qua kí túc xá, qua nhà thờ về phía tòa nhà văn phòng giáo sư Zimmer. Họ vào trong chẳng gặp khó khăn gì. Vừa nhận ra họ định đến đâu, hắn đã đi trước mở cửa. Nếu họ tìm thấy thứ hắn đang tìm kiếm, thế thì còn gì bằng. Nhưng nếu không tìm được, hắn sẽ kết thúc cả vụ này khi họ trở lại xe.
Lúc đầu cảnh sát sẽ nghĩ đây là hai vụ trấn lột dẫn đến giết người khác trong trường. Và rồi họ sẽ tìm được thư tuyệt mệnh và xác định thi thể. Sẽ chẳng cần điều tra kĩ lắm để nối các móc xích. Michael Hart đã trốn khỏi viện tâm thần để thực hiện màn báo thù điên rồ. Tối nay, kẻ này giết bồi thẩm cuối cùng, rồi sau đó quay súng bắn mình. Đó là một cái kết kinh khủng cho một cuộc đời sóng gió. Mọi mảnh ghép đều vừa in. Đây quả là một kế hoạch thông minh. Sẽ chẳng ai nghi ngờ hắn.
Hắn nhíu mày nghĩ về những nhiệm vụ cần hoàn thành nốt. Hắn sẽ giết ả chẳng gặp khó khăn gì. Nhưng còn cậu ấy? Cái này khó hơn nhiều. Hắn phải làm đúng như dự định thôi. Không có lựa chọn khác, và hắn sẽ kết thúc nhanh và không đau đớn. Cách đó nhân từ hơn. Và như vậy cũng nhân đạo hơn là buộc cậu ấy sống nốt phần đời còn lại trong viện tâm thần.
Chuyện sẽ dễ dàng hơn nếu hắn thù, hoặc ghét, hay không ưa cậu ấy. Nhưng hắn không thấy vậy. Đây là do hoàn cảnh ép buộc, một hoàn cảnh trớ trêu mà thôi. Hắn không định bẫy cậu ấy hồi mười năm trước, nhưng rồi chuyện lại hóa ra như vậy, và giờ hắn bị buộc vào một tình huống hắn chưa từng lường được. Hắn bị định mệnh chơi khăm, và hắn cũng chỉ là nạn nhân như bao nhiêu kẻ khác.
Họ có tìm thấy cuộn băng không? Rất có thể, dù hắn đã tìm kĩ lắm rồi. Hắn có thể kết thúc tất cả ngay trong văn phòng giáo sư, nhưng chờ đợi và quan sát lại khôn ngoan hơn. Nếu họ tìm ra nó, mọi chuyện sẽ kết thúc gọn gàng hơn. Tất nhiên, chẳng ai nhận ra tầm quan trọng của cuộn băng nếu sau này có vô tình vớ phải nó, nhưng hắn sẽ hài lòng hơn nhiều nếu biết không còn sơ hở nào.
Hắn rời xe. Không cần cầm theo súng. Hắn để nó lại dưới ghế đợi tới lúc cần. Hắn không nghĩ bảo vệ nhìn thấy hắn, nhưng cứ thận trọng cho chắc.
Đêm nay thật đẹp. Yên ả. Mát mẻ. Rất an lành. Toàn bộ sân trường vắng tanh. Đây là một tối Chủ nhật, và đến thư viện cũng không mở cửa vào ngày lễ Sabbath. Thật thỏa lòng khi được đi bộ trong một sân trường đẹp đẽ và dạo qua những ngọn tháp cao cao của nhà thờ lớn. Hắn đang mải ngắm nghía ánh trăng hắt ánh sáng trên tòa nhà lát đá sáng bóng nên không nhận ra có bóng người đang lẳng lặng lẩn vào xe mình.
“Mike!” Toni rút đĩa DVD khỏi ngăn kéo. “Chiếu đèn cho em. Nhanh lên.”
Michael chiếu cái đèn pin soi nhãn đĩa, và Toni lầm bầm chửi thề. “Ôi không! Em cứ tưởng mình tìm được rồi, nhưng đây chỉ là phân đoạn của series PBS về tu chính án thứ nhất. Nó có dấu của thư viện này. Chắc ông ấy dùng nó làm tư liệu giảng dạy.”
“Gượm đã, Toni. Không phải em đã nói với anh rằng Zimmer là người ngăn nắp nhất em từng gặp sao?” “Đúng thế, Mike.”
“Có những đĩa khác thuộc series đó trên giá sách của ông ấy. Có bìa. Và ông ấy có phải típ người vứt đĩa DVD lung tung mà không có vỏ bảo vệ không?”
“Không. Kiểm tra xem, Mike. Đây là phân đoạn ba.” Michael chiếu đèn lên giá sách. “Một và hai ở đây. Bốn đến sáu cũng thế. Em nói trên đĩa có đề tên tên thư viện hả?”
“Vâng. Nó đề tài sản của thư viện đại học Gateway, khoa Nghe nhìn.”
“Harry có nói có người đột nhập thư viện không?” “Không.”
“Vậy thì cuộn băng vẫn còn ở đó. Nó nằm trong hộp của phân đoạn ba. Đi nào!”
Họ chạy trong trường về phía thư viện, hai cái bóng trong màn đêm đen tối. Stan chỉ mong bảo vệ không thấy họ. Và giờ họ đang đứng bên cửa ngách, nơi bóng tối còn đen thẫm hơn. Sau một lát, cửa mở và rồi vội vàng đóng lại. Đại học Gateway được bảo vệ kém, nhưng có lẽ họ không quá lo tới chuyện sinh viện đột nhập thư viện. Sao họ phải lo chứ? Thứ cuối cùng sinh viên ở trường đại học bốn sao này muốn là trộm một cuốn sách. Họ có nghĩ đến khóa cửa lại không nhỉ? Tất nhiên rồi. Nhưng có chìa khóa của giáo sư Zimmer thì việc mở cửa chẳng có gì khó. Hắn vẫn giữ nó, để đề phòng lúc cần.
Hắn cầm súng và nhét vào túi. Đến lúc rồi. Ngay khi họ giao cuộn băng, hắn sẽ giết họ. Thêm hai mạng người nữa và hắn sẽ rửa tay gác kiếm.
“Đây rồi!” Michael thở dài thườn thượt. “Nhìn nhãn dán đi, Toni. Đây là bản gốc từ KLAX.”
“Chúng ta nộp nó cho cảnh sát luôn đi, Mike. Em không phải thầy bói bà đồng gì, nhưng em có linh cảm xấu rằng...”
“Và xơ đúng đó. Từ từ quay lại. Cả hai. Mikey, đưa anh cuộn băng đó.”
Michael quay lại đối diện anh mình. “Stan! Anh làm gì ở đây?”
Stan đứng dưới ánh sáng hắt ra từ những ngọn đèn tù mù để sáng cả đêm. Hắn cầm súng, và gương mặt mang vẻ buồn bã nhưng kiên định. “Xin lỗi nhé, Mikey. Đưa cho anh. Anh cần nó.”
“Đưa cho anh ta đi, Mike.” Giọng Toni run run. “Cứ làm như anh ta bảo đi.”
“Lời khuyên đúng đắn lắm, xơ. Nào, Mikey. Chần chừ chẳng giải quyết được gì đâu.”
Michael di chuyển chậm chạp và chìa cái áo khoác có cuộn phim bên trong. “Sao anh làm thế này, Stan? Em không hiểu.”
“Ôi Mikey.” Stan lắc đầu. “Chú không thấy là anh chẳng còn lựa chọn nào sao? Nó phải chết. Không còn cách nào khác.”
“Ai?”
“Carole.” Stan thở dài. “Nó yêu nhầm người, Mikey. Và rồi nó nhận ra sai lầm, nhưng đã quá muộn. Nó muốn lừa anh tin đấy là con anh, nhưng anh biết không thể có khả năng đó. Không có nó đời chú còn tốt hơn, chú có thấy không? Nó cắm sừng chú. Nó chỉ là thứ điếm đàng không hơn không kém.”
“Carole bảo cô ấy mang thai con anh ư?” Michael hỏi. Nếu họ gặp may, Stan sẽ mải thao thao bất tuyệt mà lơi là đề phòng. Rồi họ sẽ có cơ hội khống chế súng, hoặc hạ gục hắn, hoặc làm gì đó để giữ mạng.
“Nó thề đấy là con anh. Nó bảo không còn ngủ với chú nữa, nhưng anh biết sự thật không phải vậy. Anh vô sinh, Mikey ạ. Bác sĩ bảo rằng anh đã mất khả năng làm cha.”
“Em rất tiếc, Stan.”
“Anh cũng thế, Mikey. Nhưng anh còn tiếc hơn khi Carole lừa anh. Giờ chú hiểu vì sao anh phải giết nó chưa? Anh không thể để nó sống yên ổn với...” Stan quay phắt lại và nhắm súng vào Toni. “Bỏ súng xuống đi, xơ. Ngay!”
Toni do dự, và trong một thoáng Michael tưởng cô sẽ giơ súng và bắn để cứu anh. “Bỏ xuống đi, Toni! Đừng có ngốc.”
Ngay khi lời vừa rời miệng anh, Toni liền thả súng rơi xuống sàn. Âm thanh vang rõ mồn một trong căn phòng rộng rãi và yên tĩnh. Rồi cô nhìn anh tỏ ý chờ đợi một ám hiệu. Anh có thể làm gì? Điều duy nhất anh nghĩ được là giữ cho Stan tiếp tục nói. Cứ hỏi có thể có tác dụng. Stan thích giải thích phân trần mà.
“Giơ tay lên đi xơ.” Stan dùng súng ra hiệu. “Đúng thế. Cao hơn chút nữa. Và giờ có lẽ đã đến...”
“Em không hiểu sao anh phải giết tất cả các bồi thẩm, Stan.” Michael xen ngang. “Chỉ giết mình giáo sư Zimmer không đủ sao?”
“Chuyện này không quan trọng, Mikey. Chú không cần phải...”
Lần này tới lượt Toni xen vào. Không cần anh nói cô cũng hiểu ý anh. “Nhưng quan trọng với chúng tôi, Stan. Mike luôn nói anh làm gì cũng có lí do. Tôi biết anh ấy sẽ rất mệt lòng nếu không được biết nguyên do.”
“Có đúng thế không, Mikey? Chú thực lòng muốn biết à?”
“Đúng vậy.” Toni đã hỏi đúng câu và đúng cách. “Chuyện phức tạp quá mức, Stan ạ. Anh giải thích đi?”
“Khá là phức tạp ấy chứ nhỉ?” Stan nhoẻn miệng cười. “Là thế này này, Mikey. Giáo sư Zimmer bảo với anh rằng ông ta đã cho một bồi thẩm khác xem cuộn băng.”
Có một chiếc xe đẩy chỉ cách chừng một bước chân. Michael nhích thêm một chút tới chỗ nó. Đây là loại có bánh xe, và chở đầy những cuốn sách nặng trịch. Nếu Toni có thể lừa Stan nói tiếp, có lẽ anh sẽ với được tới nó.
Toni hỏi tiếp ngay khi thấy ám hiệu. “Và ông ấy không cho anh biết bồi thẩm kia là ai?”
“Chính xác. Tôi đã giở đủ mánh, nhưng vẫn không moi được thông tin từ miệng ông ta.”
“Ờ, người đó không phải tôi. Đến tận tôi hôm nay tôi mới biết đến cuộn băng kia. Anh có thử tìm hiểu xem bồi thẩm đó là ai chưa?”
Stan vẫn đang nhìn Toni khi chân Michael chạm xe đẩy. Giờ anh chỉ cần xác định khóa bánh xe và nhả ra. Khi anh dùng mũi chân lần tìm, Stan bật cười.
“Tất nhiên là tôi chẳng việc gì phải tìm với chẳng hiểu. Vậy chỉ tốn công vô ích. Tôi biết nếu như giết cả đám, tôi sẽ được an toàn. Tôi chắc nếu là cô, cô sẽ tìm hiểu xem người bồi thẩm kia là ai. Phải không xơ?”
Toni thở dài. “Tôi sợ mình sẽ làm đúng như anh nói. Nhưng tôi thấy cách của anh hiệu quả hơn. Anh có mong cảnh sát sẽ đổ vấy tội cho Mike không?”
“Tất nhiên rồi. Tôi đã đọc ghi chép của bác sĩ tâm thần về những giấc mơ và chứng mộng du của nó. Quá tiện. Giờ cô hiểu chưa?”
Michael chúc mũi chân xuống. Khóa bánh được nhả ra kèm theo tiếng lách cách vang rõ, nhưng Toni đang nói và Stan không nghe thấy.
“Ờ, tôi hiểu rồi. Hoặc ít nhất tôi đã bắt đầu vỡ ra. Cảnh sát sẽ đọc ghi chép của bác sĩ tâm thần, và cho rằng Mike đã giết các bồi thẩm để trả thù. Tôi nói có đúng không?”
“Chuẩn. Và nói chuyện bấy nhiêu đủ rồi.”
“Chỉ một câu hỏi nữa thôi, làm ơn, một câu hỏi khiến tôi nghĩ nát óc mà không ra đáp án. Nếu anh giết Mike, vậy cảnh sát không truy tìm kẻ giết anh ấy sao?”
“Đây mới là phần hay ho này.” Stan mỉm cười. “Mikey sẽ tự tử ngay sau khi giết cô.”
“Tôi chẳng hiểu gì cả.” Toni lắc đầu. “Sao anh có thể biến vụ giết Mike giống như tự tử được?”
Michael đã đặt được một tay lên cái xe. Chỉ một inch [43] nữa thôi, anh có thể...
“Đấy là phần dễ nhất,” Stan tiếp tục trả lời. “Xơ thấy đấy, tôi đã dùng máy đánh chữ trong căn hộ của Mike đã soạn một lá thư. Và khi cảnh sát tìm ra nó, họ sẽ chẳng buồn...”
Bây giờ, hoặc không bao giờ. Michael dùng hết sức bình sinh mà đẩy chiếc xe phóng đi như tên lửa. Stan quay phắt lại trước chuyển động đột ngột đó, và Michael hét bảo Toni chạy. Cô không phí bất cứ thời gian để trốn sau các giá sách, và rồi căn phòng tối om. Cô đã gạt công tắc. Giỏi lắm! Giờ nếu cô chỉ việc trốn ra ngoài và gọi người đến giúp.
Mắt Michael mất một lúc để thích ứng với bóng tối đột ngột. Có ánh sáng yếu ớt hắt vào qua các ô cửa sổ, nhưng anh chỉ thích những giá sách cao cao. Giờ anh có lợi thế rồi. Stan phải tìm mới hòng giết được họ. Anh chỉ cần đứng thật yên và cầu cho Toni trốn được.
Có người di chuyển. Anh nghe có tiếng xột xoạt. Tiếng động dường như tới gần hơn, nhưng cũng khó mà phân biệt lắm. Là Toni ư? Hay là Stan?
Rồi mắt anh đã thích nghi được. Một bóng người lom khom chầm chậm di chuyển ra giá sách. Toni. Cô đang quay lại lấy súng.
Lại có tiếng xột xoạt. Âm thanh dường như xuất phát từ khắp xung quanh anh. Và anh thấy nó - một bóng hình di chuyển nhanh, cũng về phía giá sách nọ. Đó là Stan. Anh ấy đã thấy Toni, nhưng anh ấy không dám bắn xằng. Bảo vệ có thể sẽ nghe thấy, và anh ấy phải nhắm cho chuẩn.
Đột nhiên Michael vỡ lẽ ra. Stan không thể đồng thời tóm cả hai, và anh ấy phải giết Toni. Cô là bồi thẩm cuối cùng. Dù cho Michael có trốn được chăng nữa, anh cũng không thể báo cảnh sát. Không ai tin câu chuyện điên rồ của anh khi anh không có cuộn phim, và anh chẳng gây nguy hiểm gì cho Stan nếu chạy đi cứu thân. Stan sẽ chẳng nghĩ anh chọn ở lại cứu Toni, vậy nên anh ấy chẳng thèm lo tới chuyện nhìn phía sau mình. Đấy chính là lợi thế Toni cần.
Các giá sách thư viện được chia ra, và khi họ mới vào gian phòng này, Michael đã nhận ra chúng được nối với trần nhà nhờ các đinh khuy. Giá kiểu đó cũng chắc nếu các giá sách hoàn toàn cân bằng, nhưng có một giá không được như thế. Người ta đang sắp xếp lại khu sách triết học. Bốn giá trống ở một bên, ở dưới cùng. Và Stan đang bò lom khom ngay trước nó.
Michael chạy ào tới và dùng hết sức bình sinh mà đẩy. Giá sách lắc lư và đổ sầm xuống. Có tiếng kêu đau đớn. Toni chăng? Không, không phải Toni. Và rồi ánh sáng bừng lên làm chói mắt anh.
“Lạy Chúa, Mike! Cậu không định cho cảnh sát chúng tôi có công ăn việc làm à?” Đó là Harry Evans, đang giúp Toni đứng dậy và toét miệng cười như con mèo Cheshire [44]. “Chúng tôi vẫn dõi mắt để ý cậu suốt mà, Mike. Không có vấn đề gì, tới khi Toni tắt đèn.”
“Harry!” Toni tỏ vẻ bối rối. “Nhưng sao mà anh...” “Anh có nghề điều tra mà. Chăm sóc cô ấy nhé, Mike?
Tôi có việc phải làm.”
Michael nghe Harry bảo lính của mình đưa Stan về đồn và giam lại. Và đừng quên cho hắn biết quyền của mình, vì hắn là luật sư và họ không muốn tên này lách luật. Và rồi Toni ở trong vòng tay của anh, ấm áp, an lành và toàn vẹn. Họ vừa suýt chết! Anh sẽ không bao giờ buông cô ra nữa.
“Này, thế nào?” Harry tới và vỗ lưng Michael. “Một đêm bận rộn nhỉ, Mike?”
Toni bắt đầu cười khanh khách, và Michael không trách cô. Anh cố hôn cô, nhưng cô càng lúc càng cười tợn và chỉ sàn nhà. Những cuốn sách triết học nặng trịch bét ra cũng phải mười pound một cuốn vương vãi khắp sàn nhà.
“May mà ở đây không chứa toàn sách của anh, Mike. Họ sẽ xuất bản dưới dạng bìa mềm. Em sẽ kể anh nghe sau. Ôi, Chúa ơi!”
Và rồi cô cười lớn hơn trong lúc Michael và Harry sửng sốt nhìn nhau. Hai người đàn ông còn đang tính cách khiến cô ngừng lại khi cô cúi xuống nhặt một cuốn sách trông rất nặng.
“Đây là sách của Wittgenstein. Ông ấy cứu mạng em đó, Mike. Bố em luôn nói rằng rồi có ngày em sẽ biết tôn trọng Wittgenstein.”
Harry nhìn họ một lát. Mike quả là người tốt. Anh chàng đang hôn Toni, và cô cũng đáp lại. Anh mở miệng định nói với họ rằng họ chẳng hề gặp nguy hiểm gì. Anh đã tháo hết đạn khỏi khẩu súng của Stan. Nhưng rồi anh quyết định không phá bĩnh. Tình yêu không tuyệt vời sao? Ngay khi về nhà, anh sẽ bảo Doris bắt đầu lên thực đơn cho lễ cưới. Nhìn hai người này thì chuyện đó cũng sắp thôi.
Hết
Chú Thích
[1] Những ngày salad là một cách nói trong kịch Shakespeare, muốn nói tới thời thanh xuân, khi người ta còn ngây thơ nông nổi, chưa có nhiều kinh nghiệm, còn mang nhiều lí tưởng (Mọi chú thích đều thuộc về người dịch).
[2] Máy trả lời điện thoại là thiết bị trả lời điện thoại bàn và ghi lại tin nhắn ấy của người gọi. Xin lưu ý, truyện được xuất bản vào năm 1989, nên một số chi tiết ít nhiều có phần xa lạ với độc giả ngày nay.
[3] Một loại hoocmon có tác dụng trên thần kinh giao cảm, kích thích vận chuyển máu về tim, thường đươc chỉ định trong những trường hợp cấp cứu khẩn cấp.
[4] Days of Wine and Roses là bộ phim Mỹ sản xuất năm 1962, do Blake Edwards đạo diễn. Phim nhận được bốn đề cử giải Oscar, bao gồm giải nam diễn viên chính và nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.
[5] Ở đây nhắc tới George H. W. Bush, là phó tổng thống Mỹ từ 1981-1989, và là tổng thống Mỹ thứ 41, nhiệm kì 1989-1993. Năm 1988, ông chạy đua vào vị trí tổng thống với đối thủ Michael Dukakis.
[6] Đây là cụm từ được nhắc đến trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Joseph Heller, ý chỉ một tình thế tréo ngoe khi mà người ta không thể giải quyết được vì vướng mắc những điều kiện trái ngược nhau. Một ví dụ thường thấy để làm rõ tình huống này đó là, để được nhận vào làm ở một công ty, bạn phải có vài năm kinh nghiệm. Nhưng để có vài năm kinh nghiệm đó, bạn lại phải kiếm được việc đã.
[7] Nữ hoàng tháng Năm (May Queen) là hiện thân của ngày lễ Lao động, của mùa xuân và mùa hạ. Ngày nay, vào buổi lễ diễu hành nhân ngày lễ Lao động, một cô gái sẽ hóa trang làm nữ hoàng tháng Năm, trong bộ váy trắng tượng trưng cho sự trinh trắng, đội vương miện, và dẫn đầu đoàn.
[8] Aspirin: Aspirin, hay acetylsalicylic acid (ASA), có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm; nó còn có tác dụng chống kết tập tiểu cầu, khi dùng liều thấp kéo dài có thể phòng ngừa đau tim và hình thành cục nghẽn trong mạch máu.
[9] Đợn vị đo chiều dài Anh, 1 dặm = 1,609km.
[10] Nhân vật ngắn trong truyện ngắn cùng tên. Ông ta ngủ một giấc nhưng khi thức dậy và trở về làng thì tất cả mọi thứ đã thay đổi. Khi ông xưng tên thì một ông già nhận ra ông và cho biết đã hai mươi năm trôi qua.
[11] Có lẽ ở đây có nhầm lẫn. Tiểu thuyết này ra đời năm 1989, trong khi Những bà nội trợ kiểu Mỹ được phát sóng từ năm 2004 đến 2012, Marcia Cross thủ vai Bree Van de Kamp. Có lẽ tiểu thuyết này được sửa đổi trong những lần tái bản nên xảy ra lỗi đáng tiếc trên đây
[12] Đơn vị khối lượng được sử dụng trong hệ thống đo lường ở Anh và Mỹ. 1 ounce = 28,3 gram.
[13] Jeopardy là một chương trình đố vui kiến thức truyền hình tại Mỹ, với các câu đố về đề tài lịch sử, văn học, nghệ thuật, văn hóa đại chúng, khoa học, thể thao, địa lí, v.v. Alex Trebek đảm nhiệm vai trò người dẫn chương trình từ năm 1984.
[14] Diễn viên người Mỹ, nổi tiếng với vai Vito Corleone trong phim Bố già phần II.
[15] Trận chung kết giải bóng bầu dục Mỹ
[16] Tên hai đội bóng bầu dục của Mỹ.
[17] Pound: đơn vị đo khối lượng của Anh, Mỹ. 1 pound = 0,453 kg.
[18] Viết tắt của John Fitzgerald Kennedy (1917-1963): tổng thống thứ 35 của Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ.
[19] Đây là một trong những loại rượu vang đỏ đắt nhất thế giới.
[20] Bảo tàng nghệ thuật neon.
[21] Như đã nói, tiểu thuyết ra đời vào năm 1989 nên một công nghệ được nhắc tới đã lỗi thời. Ở đây Stan dùng hệ điều hành MS Dos.
[22] Nguyên văn: Uncle Sam, một cách gọi chính phủ Mỹ.
[23] Foot: đơn vị đo chiều dài. 1 foot = 30,48 cm.
[24] Tên nhiều địa danh trong tiếng Anh có nghĩa, chẳng hạn như Oakdale có nghĩa là Thung lũng sồi, và Michael chọn tên Elmwood nhái lại, có nghĩa là Rừng cây du.
[25] Diễn viên hài người Mỹ (1890-1977), nổi tiếng về tài hoạt ngôn và được đánh giá là một trong những danh hài xuất sắc nhất thời hiện đại.
[26] Giáo hội Trưởng Lão, còn gọi là Giáo hội Trưởng Nhiệm, là một nhánh thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo Kháng Cách theo thần học Calvin có gốc tích từ Quần đảo Anh.
[27] Sở Thuế vụ.
[28] Cục Di dân và Nhập tịch Mỹ.
[29] Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ.
[30] Sở Giao thông Vận tải.
[31] Thợ sửa ống nước trong tiếng Anh là Plumber, bắt đầu bằng chữ P.
[32] Nguyên văn Manager Apartment Building.
[33] Ram: đơn vị tính số tờ giấy. 1 ram = 500 tờ.
[34] Một hạt thuộc tiểu bang Texas.
[35] Đây là một loại bia của Mỹ, nhưng Jose Sanchez là người gốc Mexico.
[36] Là cách nói lóng chỉ lực lượng cảnh sát phụ trách các vấn đề nhập cư.
[37] Clarence Darrow (1857-1938) là luật sư người Mỹ. Ông nổi tiếng vì đã bào chữa thành công cho hai kẻ sát nhân tuổi vị thành niên là Leopold và Loeb trong vụ chúng giết cậu bé mười bốn tuổi Robert "Bobby" Franks (1924).
[38] Ở đây tác giả sử dụng chơi chữ. Patient trong tiếng Anh vừa có nghĩa là bệnh nhân, vừa có nghĩa là kiên nhẫn.
[39] Đây là tổ chức truyền giáo Cơ Đốc có các hội viên mặc đồng phục kiểu quân sự và làm việc để giúp đỡ người nghèo, có thể hiểu nôm na là một dạng giáo binh đoàn Cơ Đốc.
[40] Có một loài thú có túi trong tiếng Anh được gọi là Tasmania devil, nghĩa là quỷ Tasmania.
[41] Nguyên văn: freeway. Đây loại đường cao tốc không thu phí các phương tiện lưu thông trên đó, chính vì thế mà việc bảo dưỡng đường cũng kém hơn.
[42] Tên viết tắt của hãng chuyển phát Mỹ United Parcel Service.
[43] Inch: đơn vị đo chiều dài. 1 inch = 2,54 cm.
[44] Nhân vật trong truyện Alice ở xứ sở thần tiên của nhà văn người Anh Lewis Carroll.