Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Napoleon Bonaparte - Chương 12

Chương XII

Tuyệt giao với nước Nga 1811-1812

Sau trận éc-phua, A-lếch-xan trở về Pê-téc-bua với ý định ủng hộ sự liên minh Pháp - Nga và không đi trệch đường lối của Na-pô-lê-ông, ít ra thì cũng là trong những ngày gần đây nhất. Rồi đây, khi một cuốn sử khoa học và tỉ mỉ nói về kinh tế xã hội và chính trị của nước Nga hồi đầu thế kỷ thứ XIX được viết ra thì chắc chắn những nhà nghiên cứu của những thời đại sau này sẽ chú ý và dành nhiều trang giấy để viết về những năm lạ lùng ấy, kể từ trận éc-phua cho đến cuộc xâm lược của Na-pô-lê-ông vào năm 1812. Trong bốn năm ấy, đã diễn ra một cuộc đấu tranh cực kỳ phức tạp giữa những lực lượng và trào lưu xã hội đối địch nhau, do đó nhân vật Xpê-ran-xki xuất hiện rồi sụp đổ đã là một tất yếu lịch sử.

Lúc ấy, vấn đề cải cách bộ máy cai trị của đế quốc Nga đã rõ rệt là một vấn đề khẩn cấp. Au-xtéc-lít, Phrit-lan, Tin-dít: ngần ấy vấp váp cũng đủ làm cho người ta có ý thức rằng cần thiết phải có một sự cải cách. Nhưng mặt khác, những thất bại khủng khiếp mà nước Nga chịu đựng trong hai cuộc chiến tranh lớn, do chính nước Nga tiến hành chống Na-pô-lê-ông vào những năm 1805-1807, đã kết thúc bằng một cuộc liên minh tương đối có lợi (mặc dầu người ta vẫn có thể nói đến cái nhục Tin-dít) với kẻ đi chinh phục thế giới và sau đó ít lâu lại được hưởng đất đai rộng lớn của nước Phần Lan thì rất tự nhiên rằng Sa hoàng không nhìn thấy những lý do phải tiến hành những cuộc cải cách sâu sắc và căn bản tối thiểu, cũng không thấy được phải tiến hành những cuộc cải cách giống như ở nước Phổ sau thảm họa I-ê-na. Chính khi ấy Xpê-ran-xki đã xuất hiện rất đúng lúc. Người bình dân thông minh, khôn khéo và thận trọng ấy là người ở trong đoàn hộ giá A-lếch-xan từ éc-phua trở về, và ông ta rất khâm phục Na-pô-lê-ông. Xpê-ran-xki không đụng chạm mảy may gì đến chế độ nông nô dù chỉ là bề ngoài, trái lại đã cố sức chứng minh rằng nó không giống gì với chế độ nô lệ Xpê-ran-xki cũng không đụng chạm chút gì đến nhà thờ Thiên chúa giáo chính thống mà Xpê-ran-xki thường hết lời ca tụng. Vậy thì còn phải nói gì đến việc Xpê-ran-xki không bao giờ muốn đặt ra một sự hạn chế nào đó đối với giai cấp quý tộc, và trái lại, Xpê-ran-xki còn thấy nền chuyên chế của Sa hoàng là động lực chính của những cuộc cải cách do ông ta tiến hành. Những cải cách ấy vừa đúng để nhằm biến một chế độ quân chủ chuyên chế, không còn sinh sắc, nửa phương Đông, và trở thành vật đặc hữu của dòng họ Hon-sten Gốt-to-một dòng họ đã chiếm đoạt danh hiệu của dòng họ quý tộc Rô-ma-nốp đã tàn hạ - thành một quốc gia châu Âu hiện đại, có một bộ máy hành chính đầy hiệu lực, có những hình thức pháp chế, có tổ chức kiểm soát về tài chính và cai trị, có những viên chức thành thạo và có năng lực, có những nhà cai trị không phải là những tên chúa tể chuyên quyền, dâm đãng mà là những quận trưởng, tỉnh trưởng, tóm lại, Xpê-ran-xki muốn nhập vào nước Nga cái tổ chức xã hội mà theo ý Xpê-ran-xki đã làm cho nước Pháp trở thành nước đứng đầu thế giới. Bản thân chương trình ấy tuyệt không hề trái ngược gì với ý nghĩa, tình cảm ước vọng của A-lếch-xan, và Sa hoàng đã ủng hộ viên cận thần của mình trong nhiều năm ròng. Nhưng A-lếch-xan và Xpê-ran-xki đã tính lầm. Bọn quý tộc thâm căn cố đế và bọn quý tộc hạng trung lớn lên trong nghề nghiệp của chúng đã đánh hơi thấy kẻ địch, mặc dầu địch thủ khoác bên ngoài tấm áo ôn hòa với những thái độ đầy thiện chí. Bọn chúng đã ngửi thấy một cách bản năng rằng Xpê-ran-xki nhằm biến cái quốc gia chuyên chế và phong kiến thành một quốc gia chuyên chế tư sản và đặt ra những thể thức mâu thuẫn về căn bản với chế độ phong kiến đang dựa trên chế độ nông nô hiện tồn tại ở nước Nga, cũng như mâu thuẫn về căn bản với cơ cấu đầy tính chất quý tộc trong đời sống chính trị và xã hội Nga thời ấy.

Tất cả đám ấy đồng tình nhất trí phản đối Xpê-ran-xki. Dưới con mắt bọn này, sự nghiệp của Xpê-ran-xki liên hệ một cách hữu cơ, chứ không phải ngẫu nhiên với lòng thích thú cuộc liên minh Pháp -Nga và với tình bạn của vị thượng thư đang nắm chính quyền đối với nhà độc tài nước Pháp và châu Âu, là hữu cơ, chứ không phải ngẫu nhiên mà trong tư tưởng bọn đại lãnh chúa Nga, hình ảnh đứa con ấy của giáo sĩ - kẻ đã đặt ra những kỳ thi cho viên chức và muốn đuổi giới quý tộc ra khỏi bộ máy nhà nước để giao cho những người bình dân, những người của nhà thờ và các thương nhân - được gắn liền với cái anh người Pháp đi ăn cướp đang làm phá sản cùng cái giai cấp quý tộc Nga ấy bằng cuộc phong tỏa lục địa và, trước mặt con người ấy, Sa hoàng cùng với bầy cận thần đã phải đến chào mừng ở éc-phua, giống như những Sa hoàng thời xưa đối với vua chúa Tác-ta. Đó là đường lối có tính chất cương lĩnh của phe đối lập ở trong triều và trong giai cấp quý tộc ở Pê-tec-bua và ở Mát-xcơ-va, mà bọn họ đã triệt để đeo đuổi suốt những năm 1808-1812, và sự đối lập ấy đã được biểu lộ mãnh liệt trong việc chống lại chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Sa hoàng và của thượng thư Xpê-ran-xki. Chỉ riêng tình hình ấy cũng đã đủ làm cho sự liên minh Pháp - Nga mất hết cơ sở vững bền.

Trong những phòng khách của bọn quý tộc, người ta chỉ trích sự sáp nhập đất Phần Lan cướp của Thụy Điển, vì việc ấy đã làm theo ý muốn của Na-pô-lê-ông, và người ta cũng không muốn nhận xứ Ga-li-xi, nếu đó là sự đền bù cho Nga trong việc Nga đã giúp đỡ gã Bô-na-pác khả ố chống nước áo năm 1809. Người ta tìm mọi cách để tỏ sự lạnh nhạt của mình đối với viên đại sứ Pháp Cô-lanh-cua, và Sa hoàng càng tỏ rõ hòa hảo và ân cần với viên đại sứ bao nhiêu thì giới quý tộc của Pê-tec-bua "mới" và đặc biệt là giới quý tộc ở Mát-xcơ-va cũ lại càng tỏ thái độ hằn học rõ rệt với viên đại sứ ấy bấy nhiêu.

Nhưng vào cuối năm 1810, A-lếch-xan thôi không chống lại cái trào lưu đương thắng thế ấy nữa. Trước hết vì A-lếch-xan đã tỉnh ngộ khám phá ra rằng những lời nói của Na-pô-lê-ông về sự bành trướng ảnh hưởng của Nga ở phương Đông, ở Thổ Nhĩ Kỳ cuối cùng chỉ là những lời nói suông; hai là vì Na-pô-lê-ông vẫn không rút quân ra khỏi nước Phổ và nhất là đang cùng với Ba Lan tiến hành một âm mưu nào đó, không từ bỏ ý định phục hưng nước Ba lan, điều đó đe dọa sự toàn vẹn biên giới của nước Nga đang lo ngại rằng mình có thể bị cướp đoạt mất đất Lít-va; thứ ba là đối với những thiếu sót của Nga trong khi thi hành cuộc phong tỏa lục địa thì những sự phản kháng và bất bình của Na-pô-lê-ông đã diễn ra dưới hình thức nhục mạ thậm tệ, xúc phạm A-lếch-xan; thứ tư là sát nhập những lãnh thổ của các nước khác mà Na-pô-lê-ông tuỳ ý thực hiện trong những năm 1810-1811 bằng cách hạ tay ký một chữ là xong đã làm cho A-lếch-xan lo lắng và tức giận. Uy quyền không hạn độ của Na-pô-lê-ông tự bản thân nó luôn luôn là một sự uy hiếp treo trên đầu các nước chư hầu, trong số đó, kể từ sau trận Tin-dít, đương nhiên là có A-lếch-xan (Sa hoàng biết điều đó). Người ta nói mỉa mai đến những ân huệ nhỏ nhặt mà Na-pô-lê-ông đã ban cho A-lếch-xan năm 1807, bằng cách tặng Nga hoàng thành phố Bi-ê-lốt-xtốc của Phổ và năm 1809, một mẩu đất của áo ở biên thùy xứ Ga-li-xi. Người ta nói Na-pô-lê-ông đã đối xử với A-lếch-xan cũng như trước đây các Sa hoàng đối xử với các triều thần trung thành của mình, khi có công lao thì ban thưởng cho một số "thần dân".

Khi dự kiến kết hôn của Na-pô-lê-ông với quận chúa An-na Páp-lốp-na không thành thì lần đầu tiên ở khắp châu Âu người ta nói đến sự bất hòa nghiêm trọng sắp tới giữa hai vị hoàng đế. Sự kết hôn của Na-pô-lê-ông với con gái vua Phran-xơ nước áo được hiểu như sự thay thế cho cuộc liên minh Pháp -Nga bằng cuộc liên minh Pháp- áo. Những bằng cớ chính xác cho phép xác định rằng Na-pô-lê-ông không những bắt đầu nói thẳng đến cuộc chiến tranh với Nga, mà còn nghiên cứu vấn đề ấy một cách nghiêm chỉnh ngay từ tháng giêng năm 1811, khi Na-pô-lê-ông được biết tin về biểu thuế quan mới của nước Nga. Biểu thuế quan mới này nâng lên khá cao mức thuế nhập khẩu đánh vào rượu vang, tơ lụa, nhung và những hàng xa xỉ khác, tức là những mặt hàng chủ yếu từ Pháp xuất khẩu sang Nga. Na-pô-lê-ông đã phản đối. Người ta đã trả lời Na-pô-lê-ông rằng tình hình trầm trọng của nền tài chính nước Nga đã buộc phải làm như vậy. Và biểu thuế ấy vẫn được thi hành. Ngày càng nhiều những sự khiếu nại về việc nước Nga cho nhập khẩu một cách quá dễ dàng các sản phẩm thuộc địa chở trên các tàu kéo cờ trung lập nhưng thực tế của nước Anh. Na-pô-lê-ông tin chắc chắn rằng nước Nga bí mật nhập cảng hàng hóa của Anh rồi bán tràn sang Đức, áo, Ba Lan, vì vậy mà cuộc phong tỏa chẳng còn hiệu lực gì hết.

Chính A-lếch-xan cũng nghĩ rằng chiến tranh không sao tránh khỏi, cho nên đã đi tìm đồng minh và thương lượng với Béc-na-đốt, một thống chế của Na-pô-lê-ông nay đã là hoàng tử kế nghiệp ở Thụy Điển và trở thành kẻ thù của chủ cũ. Ngày 15 tháng 8 năm 1811, trong buổi chiêu đãi trọng thể đoàn ngoại giao đến chúc mừng Na-pô-lê-ông nhân dịp kỷ niệm ngày sinh Na-pô-lê-ông, Na Pô-lê-ông dừng lại trước mặt đại sứ Nga là hoàng thân Cu-ra-kin, thốt ra những lời lẽ giận dữ, đầy hăm doạ. Hoàng đế buộc tội A-lếch-xan đã bội ước liên minh và có những hành động cừu địch, "chúa của ông muốn gì?" Na-pô-lê-ông hỏi bằng giọng nạt nộ. Sau đó Na-pô-lê-ông đề nghị với Cu-ra-kin ký kết một bản thỏa hiệp nhằm làm tiêu tan mọi sự hiểu lầm giữa nước Nga và đế quốc Pháp. bối rối và lúng túng, Cu-ra-kin trả lời là không có đủ thẩm quyền. Na-pô-lê-ông thét lên: "Không có đủ thẩm quyền à? Thế thì thỉnh thị đi!. .. Tôi không muốn chiến tranh, tôi không muốn phục hưng nước Ba Lan, nhưng các ông, các ông muốn buộc chặt công quốc Vác-sa-va và Đan-xích vào nước Nga.. Chừng nào những ý đồ bí mật của triều đình ông còn chưa được sáng tỏ, tôi còn chưa ngừng tăng cường quân đội đóng ở nước Đức!" Rồi không thèm nghe những lời biện bạch và thanh minh của Cu-ra-kin, hoàng đế tiếp tục phát biểu ý kiến của mình bằng đủ mọi cách và bác bỏ tất cả những lời tố cáo của Cu-ra-kin.

Sau màn kịch ấy, ở châu Âu không ai còn nghi ngờ gì về việc phải dự phòng một cuộc chiến tranh sắp tới. Na-pô-lê-ông biến dần dần toàn bộ nước Đức chư hầu thành một căn cứ quân sự xâm lược to lớn. Đồng thời, Na-pô-lê-ông cũng quyết định bắt buộc nước áo và nước Phổ, hai nước này duy nhất trên lục địa còn được coi là độc lập, tuy rằng về mặt chính trị nước Phổ đã hoàn toàn lệ thuộc vào Na-pô-lê-ông, phải liên minh với mình. Cuộc liên minh quân sự này phải được thực hiện ngay trước khi xâm lược nước Nga.

Nước Phổ đã trải qua những thời kỳ vô cùng gay go dưới ách thống trị của Na-pô-lê-ông. Tuy nhiên, cho đến cả thời kỳ tiếp theo ngay sau khi ký hòa ước, vào năm 1807-1808, người ta cũng chưa bao giờ thấy nước ấy chìm đắm trong cơn bệnh hốt hoảng mãn tính đến như thời kỳ sau trận Va-gram và sau khi Na-pô-lê-ông cưới công chúa áo. Trong những năm đầu, dưới ảnh hưởng của Stai và của "đảng cải cách", nếu chế độ nông nô chưa hoàn toàn bị xoá bỏ ở Phổ thì tất cả những cơ sở pháp chế của nó cũng đã bị phá hoại nặng nề. Ngoài ra, người ta còn tiến hành một số cải cách khác nữa.

Nhưng Stai, con người yêu nước nồng nàn ấy, vì đã bộc lộ quá rõ rệt nhiệt tình của mình đối với cuộc khởi nghĩa của Tây Ban Nha nên đã làm cho cảnh sát của Na-pô-lê-ông chú ý: một bức thư của Stai đã bị chặn giữ lại và, dưới con mắt của hoàng đế, bức thư ấy bao hàm ác ý, nên hoàng đế đã ra lệnh cho Phri-đrích Vin-hem đệ tam tức khắc đuổi Stai khỏi lãnh thổ Phổ. Để tỏ lòng sốt sắng không những vua Vin-hem lập tức chấp hành lệnh ấy, mà còn thêm vào đó việc tịch thu tài sản của nhà chính trị bất hạnh này.

Tuy vậy, công cuộc cải cách ở nước Phổ chỉ chậm lại chứ không gián đoạn hẳn. Sác-hoóc, thượng thư bộ chiến tranh, Gơ-nai-de-nau và những người giúp việc tìm hết cách để tổ chức lại quân đội. Theo đúng điều kiện của Na -pô-lê-ông thì nước Phổ không được duy trì một đạo quân quá 4 vạn 2 nghìn người, nhưng chính phủ Phổ đã khéo xoay xỏa bằng mọi phương kế khác nhau để có thể rút rất ngắn thời hạn nghĩa vụ binh địch nhằm huấn luyện quân sự cho một số rất đông người. Như vậy, trong khi chịu khuất phục trước ý chí của Na-pô-lê-ông, trong khi chịu luồn cúi, bợ đỡ, tự hạ, nước Phổ đã lặng lẽ chuẩn bị cho những thời gian tới, và tin tưởng sẽ thoát khỏi tình thế tuyệt vọng, không thể chịu đựng được ấy, cái tình thế do sự thất bại khủng khiếp năm 1806 và hòa ước Tin-dít năm 1807 đẻ ra.

Năm 1809, khi chiến tranh giữa Na-pô-lê-ông và nước áo bùng nổ thì về phía nước Phổ, đã nảy sinh ra một mưu đồ cá nhân, một thứ quằn quại tuyệt vọng, để lật đổ ách thống trị của kẻ thù: thiếu tá Sin, cùng một bộ phận thuộc trung đoàn quân khinh kỵ do ông chỉ huy, đã bắt đầu một cuộc chiến tranh du kích. Ông đã bị đánh bại và bị giết, những bạn chiến đấu của ông bị tòa án quân sự Phổ kết tội và xử bắn theo lệnh của Na-pô-lê-ông. Vừa sợ hãi , vừa tức giận Sin, nhà vua như người điên cuồng mất trí, nhưng Na-pô-lê-ông lúc này lại lấy làm bằng lòng về những cuộc hành hình ấy và những lời cam kết quỵ luỵ của Phri-đrích Vin-hem. Sau trận thất bại mới của nước áo và Va-gram, sau hòa ước Sơn-brun và sau khi Na-pô-lê-ông kết hôn với Ma-ri Lu-i-dơ nước Phổ thấy những hy vọng phục quốc cuối cùng của mình đã bị tan: nước áo hình như đã hoàn toàn và dứt khoát đi theo đường lối chính trị của Na-pô-lê-ông. Trông cậy ai giúp đỡ bây giờ và căn cứ vào đâu mà đặt hy vọng? Vào sự bất hòa đang chớm nở giữa Na-pô-lê-ông và nước Nga chăng? Nhưng nó tiến triển quá chậm và từ sau trận Au-xtéc-lít và Phrít-lan người ta đã không còn tin tưởng vào lực lượng của nước Nga như ngày trước nữa.

Ngay từ những ngày đầu của năm 1810, đã bắt đầu có tin đồn dữ; người ta gán cho Na-pô-lê-ông có ý định đơn giản bằng một bản sắc lệnh hoặc đem chia cắt nước Phổ cho đế quốc Pháp, cho vương quốc Vét-xpha-li của Giê-rôm Bô-na-pác và cho các xứ Xắc-xơ, chư hầu của Na-pô-lê-ông, hoặc là bằng cách bỏ triều đại Hô-hen-xon-le, đưa một người họ hàng hay một thống chế nào đó của triều đại ấy lên thay thế. Ngày 9 tháng 6 năm 1810, sau khi Na-pô-lê-ông ra sắc lệnh sáp nhập nước Hà Lan để làm thành chín quận mới của đế quốc Pháp, sau khi các thành phố Hăm-bua, Brêm, Lu-bếch, các công quốc Lau-en-hua, On-đen-bua, Đan-dan, An-ren-be và nhiều quốc gia khác cũng bị sáp nhập một cách nhẹ nhàng như vậy, và sau khi đã chiếm xong toàn bộ bờ biển miền bắc nước Đức từ Hà Lan đến Hon-xtai, thì thống chế Đa-vu , trong một bản bố cáo nhằm an ủi nhân dân các nước bị sáp nhập có tuyên bố rằng nền độc lập của họ chỉ là một sự tưởng tượng thì vua Phổ lúc đó nghĩ rằng ngày cuối cùng của triều đại mình đã đến. Sự độc lập của nhà vua cũng vậy chỉ là "tưởng tượng" và nhà vua biết rằng tại Tin-dít, Na-pô-lê-ông đã tuyên bố rõ ràng là sở dĩ ông ta không gạch tên nước Phổ trên tấm bản đồ châu Âu thì duy nhất chỉ vì nể ông Sa hoàng của nước Nga. Nhưng đến năm 1810-1811; quan hệ giữa Na-pô-lê-ông và Sa hoàng đã tan vỡ một cách nhanh chóng và không còn vấn đề "vì nể" gì nữa. Đến cuối năm 1810, bất chấp tất cả Na-pô-lê-ông đã đuổi công tước On-đen-bua ra khỏi đất nước và sáp nhập xứ ấy vào đế quốc Pháp, mặc dầu con trai và là người kế nghiệp của vị công tước ấy đã kết hôn với ê-ca-te-ri-na, em gái A-lếch-xan.

Trong những năm 1810-1811, nước Phổ dường như đang đứng trên bờ diệt vong; không phải chỉ riêng nhà vua Phri-đrích Vin-hem đệ tam - con người không bao giờ nổi tiếng về lòng can đảm-sợ hãi điều đó, mà cả những hội tự do và yêu nước như hội Tu-ghen-bun, một hội phản ánh những nguyện vọng của một bộ phận thanh niên tư sản Đức thời ấy muốn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài và muốn xây dựng một nước Đức mới và "tự do" cũng nằm im ắng như ngủ say. Hội Tu-ghen-bun không phải là tổ chức duy nhất, nhưng nó là tổ chức đáng kể nhất trong các hội bất hợp pháp, chính nó cũng đã thôi không lên tiếng nữa và ôm mối thất vọng trong năm 1810, nhất là vào năm 1811 và đầu năm 1812, khi tình thế hầu như tuyệt không còn chút hy vọng gì. Thượng thư Ha-den-be, trước đây thuộc phái chủ trương kháng chiến, và vì lý do ấy mà bị đưa ra khỏi triều đình Phổ theo yêu sách của Na-pô-lê-ông, cũng đã bị biểu thị một cách rõ rệt sự ăn năn hối hận của mình và đã viết thư báo cho sứ thần Pháp Xanh Mác-san biết như vậy. Về việc mình cho tướng Sác-hoóc: "Vận mệnh của chúng ta là tùy thuộc vào Na-pô-lê-ông". tháng 5 năm 1810, chính Ha-den-ben đã viết cho viên quan ngoại giao Pháp lá đơn với lời lẽ van lơn như sau: " Cúi mong Hoàng đế Bệ hạ rủ lòng xét đến khả năng của tôi có thể tham gia công việc chung. Việc ấy sẽ làm cho nhà vua của tôi thấy rõ là tôi lại được Hoàng đế tin cậy và ban ơn". Na-pô-lê-ông xá tội và cho phép Phri-đrích Vin-hem bổ nhiệm Ha-den-ben làm đại thần tư pháp. Việc này đã diễn ra ngày 5 tháng 6 năm 1810 và đến ngày 7 tháng 6 năm 1810, vị đại thần mới của nước Phổ viết cho Na-pô-lê-ông ; "Tin tưởng một cách sâu sắc rằng nước Phổ chỉ có thể phục hưng cũng như bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và hạnh phúc tương lai của mình bằng cách thật thà đi theo chính thể của hoàng đế, tâu bệ hạ, hạ thần cho rằng không có gì quang vinh cho hạ thần hơn là được lòng ái mộ và tin cậy của Bệ hạ, với niềm tôn kính sâu sắc nhất, hạ thần nguyện làm kẻ tôi tớ ngoan ngoãn và tận tụy nhất của Bệ hạ- Nam tước Ha-den-ben đại thần triều đình Vương quốc Phổ".

Các thứ thuế đảm phụ được nộp đúng kỳ hạn, cuộc phong tỏa chấp hành nghiêm ngặt, nhà vua run sợ và cúi rạp trước Na-pô-lê-ông, Ha-den-ben nịnh nọt và tự hạ mình, nhưng Na-pô-lê-ông vẫn không rút quân khỏi các pháo đài Phổ và cũng không hứa hẹn chắc chắn một điều gì, Sau tất cả những sự việc ấy thì người ta không lấy gì làm lạ khi thấy Na-pô-lê-ông, để chuẩn bị chiến tranh với nước Nga, đã đột nhiên buộc nước Phổ phải đưa quân tham chiến; nước Phổ đã tuân lệnh , song không phải nó không có nhiều bề do dự, vả lại chính vì vậy mà hoàng đế đã phải cho chấm dứt ngay tức khắc những sự do dự ấy: ngày 14 tháng 11 năm 1811, Na-pô-lê-ông chỉ thị cho thống chế Đa-vu phải sẵn sàng để khi có lệnh là tiến ngay vào nước Phổ và đặt toàn nước Phổ dưới sự chiếm đóng của quân đội Pháp. Ngày 24 tháng 2 năm 1812, một hiệp định đã được ký kết ở Pa-ri, theo hiệp định ấy nước Phổ cam kết đứng về phía Na-pô-lê-ông để tham chiến trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào mà Na-pô-lê-ông tiến hành.

Ngay sau đó, Na-pô-lê-ông hướng về phía nước áo. Công việc này được giải quyết chẳng khó khăn gì lắm. Sau trận Va-gram và hoà ước Sơn-brun, chính phủ áo đã khiếp đảm; sau khi Na-pô-lê-ông kết hôn với Ma-ri Lu-i-dơ, Mét-te-ních và các chính khách khác có tiếng tăm của áo đã cho rằng đi theo đường lối của Na-pô-lê-ông là có lợi, ngỡ là có thể xin xỏ kẻ chiến thắng được chút gì để bù vào chỗ mất mát một số tỉnh. Na-pô-lê-ông có thể đánh nước áo từ mặt phía tây và phía bắc qua xứ Ba-vi-e và xứ Xắc-xơ, từ mặt trận phía nam, từ các tỉnh I-ly-ri , nghĩa là từ Các-ni-on và Ca-ranh-xi và từ vương quốc ý đánh vào. Na-pô-lê-ông có thể tràn tới từ phía đông bắc, từ Ba Lan (qua xứ Pha-li-xi). Đế quốc và các chư hầu của Na-pô-lê-ông bao vây và thiết chặt nước áo bốn bề.

Nỗi lo sợ bị xâm chiếm và những niềm hy vọng đặt vào lượng bao dung của anh chàng rể uy quyền vô thượng của mình đã làm cho hoàng đế Phan-xơ trở thành một tên đày tớ dễ bảo của Na-pô-lê-ông chẳng kém gì Phri-đrich Vin-hem đệ tam đang kinh sợ khiếp đảm. ở Viên cũng vậy, trong mấy năm nay Na-pô-lê-ông chỉ nghe thấy dội đến tai những lời xu nịnh hèn hạ. Năm 1811, khi hoàng hậu Ma-ri Lu-i-dơ sinh được một đứa con trai, kẻ kế tiếp nghiệp đế chế Na-pô-lê-ông, thì ở Viên, để tỏ lòng sùng ái sâu sắc nhất đối với triều đình, người ta cho xuất bản một bức tranh vẽ Đức mẹ Đồng trinh với những đặc điểm của Ma-ri Lu-i-dơ ôm trong lòng một chú bé Giê-du mà gương mặt là ông "vua la mã" trẻ tuổi và ở trên những nhân vật ấy là vị Thượng đế của quân đội, được người nghệ sĩ vẽ giống nét mặt của Na-pô-lê-ông, đang bay lượn trong mây mù Xa-bao (Sabaoth: danh hiệu mà dân tộc Do Thái đặt cho Đức Chúa trời và có nghĩa là quân đội-ND)

Tóm lại, người ta không từ một sự tầm thường nào, dù có vụng về và không hợp đi nữa, để nhắc lại những tình cảm khâm phục hèn hạ, lòng sùng bái và mối hoan hỉ điên loạn của mình đối với kẻ độc tài của Pa-ri. Bản năng và lý trí nói với những người thông minh và nhạy cảm nhất về chính trị, như Mét-te-ních chẳng hạn, rằng đế quốc của Na-pô-lê-ông chỉ là một hiện tượng nhất thời. Nhưng mặt khác, vào những năm 1810-1812 chính bản thân những người hoài nghi nhất cũng bắt đầu làm quen với cái nhận định cho rằng ngay trước mắt thì nhất thiết không thể đấu tranh thắng lợi được với Na-pô-lê-ông.

Nước Anh, với nhiều thuộc địa và biển cả, vẫn tiếp tục đương đầu, nhưng những tin tức về sự vỡ nợ, phá sản, nạn thất nghiệp về cuộc cách mạng đang đe dọa bùng nổ ở Anh chứng tỏ rằng quần đảo Anh đã bắt đầu thấy nghẹt thở trong vòng vây siết chặt của cuộc phong tỏa lục địa. Khi thấy các đội quân Pháp kéo đến, những người chăn cừu cùng khổ ở Tây Ban Nha trốn vào khe núi, vào rừng rậm để tiếp tục chiến đấu. Nhưng nước áo không thể và cũng không muốn tiến hành một cuộc chiến đấu như vậy. Còn nước Nga? Hiển nhiên là yếu hơn Na-pô-lê-ông; bị thất bại nhục nhã ở Au-xtéc-lít trong mưu đồ cứu nước áo nhưng không thành công nên Nga đã phản bội Phổ ở Tin-dít. Dù cho hậu quả thế nào chăng nữa bây giờ cũng phải đi với Na-pô-lê-ông. Vì vậy, khi Na-pô-lê-ông yêu cầu ký một hiệp ước đồng minh chống lại nước Nga, giống như hiệp ước mà nước Phổ đã buộc phải ký với Na-pô-lê-ông vào tháng 2 năm 1812, thì triều đình Viên không chút do dự gì trước những ý muốn của Hoàng đế Pháp, cũng không mà cả gì nhiều về sự đền bù sau này.

Ngày 14 tháng 3 năm 1812, một hiệp ước Pháp - áo được ký tại Pa-ri, theo hiệp ước này, nước áo cam kết cung cấp cho Na-pô-lê-ông 3 vạn quân. Hoàng đế bảo đảm là xứ Mon-đa-vi và xứ Va-la-si hiện đang bị quân đội của Sa hoàng chiếm đóng sẽ được tước khỏi nước Nga. Ngoài ra, sau này có thể sẽ đền bù cho áo xứ Ga-li-xi hoặc một vùng đất đai khác nào đó tương đương và quyền sở hữu đất đai ấy của áo được bảo đảm. Na-pô-lê-ông cần đến "hai cuộc liên minh" ấy với nước Phổ và nước áo để tăng thêm lực lượng cho đại quân thì ít mà chính là để thu hút một phần lực lượng quân Nga về phía bắc và về phía nam chứ không cho dồn cả vào con đường thẳng từ Cốp-nô đi Vin-na, Vi-tép, Xmô-len, Mát-xcơ-va là trung tâm tiến công sau này của Na-pô-lê-ông. Đối với cuộc chiến tranh sắp xảy ra này, nước Phổ phải cam kết cung cấp cho Na-pô-lê-ông 2 vạn quân và nước áo 3 vạn. Ngoài ra, với danh nghĩa là những khoản đảm phụ còn đọng lại chưa trả được, nước Phổ phải cung cấp cho quân đội Na-pô-lê-ông 2 vạn tấn lúa mạch, 4 vạn tấn lúa mì, hơn 4 vạn con bò và 70 triệu chai rượu mạnh.

Vào đầu mùa xuân, sự chuẩn bị về mặt ngoại giao của cuộc chiến tranh đã xong xuôi. Vụ mùa năm 1811 bị thất bát nặng, trong thời gian từ cuối mùa đông năm ấy và những tháng đầu năm 1812, một số vùng ở Pháp lâm vào cảnh đói kém, do đó, ở thôn quê, có nơi bị rối loạn và tình hình ấy đe dọa lan ra những nơi khác. Tình thế ấy đã làm cho Na-pô-lê-ông phải lùi chiến dịch chậm lại mất một tháng rưỡi hay hai tháng. Những hoạt động của bọn lũng đoạn và đầu cơ đã làm tăng thêm tình hình nhộn nhạo và mối căm phẫn ở nông thôn, và sự rối loạn ấy cũng là lý do làm chậm việc mở chiến dịch của Na-pô-lê-ông. Trong cuốn Gia đình thần thánh, Mác đã nêu sự kiện này và kết luận đúng đắn rằng những hoạt động của bọn đầu cơ lũng đoạn đã góp phần vào sự thất bại của chiến dịch nước Nga và sự lung lay đầu tiên của đế quốc Pháp. Cũng cần phải chú ý một điểm nữa là việc trưng binh, tiến hành rất ỳ ạch từ sáu năm nay (kể từ sau trận Au-xtéc-lít) lần này đã dẫn đến kết quả là vào năm 1811 và đầu năm 1812 số người trốn binh dịch tăng lên nhiều một cách đặc biệt, những người bị gọi ra tòng quân bỏ trốn vào rừng ẩn náu, chui vào hang nấp kín. Những khó khăn về mặt kinh tế, hậu quả của những cuộc chiến tranh liên miên và của nạn thuế má nặng nề (đặc biệt là cuộc chiến tranh trường kỳ ở Tây Bạn Nha) đã làm cho đông đảo quần chúng nông dân bất bình, điều này được thể hiện ở sự trốn tránh nghĩa vụ binh địch ngày càng phát triển. Trong khi kêu ca là do nạn trưng binh mà mất nguồn nhân công nông nghiệp rẻ tiền, bọn địa chủ cũng đã bắt đầu tỏ thái độ bất bình. Na-pô-lê-ông buộc phải dùng những đội quân lưu động đi càn bắt những người trốn tránh trong rừng để cưỡng ép họ tòng quân. Nhờ những biện pháp áp bức như vậy, nên dù sao việc chiêu binh trước khi bước vào cuộc chiến tranh năm 1812 cũng đạt được gần đủ số quân mà Na-pô-lê-ông mong muốn.

Vào cuối mùa xuân năm 1812, toàn bộ sự chuẩn bị về quân sự và ngoại giao của chiến dịch đã xong xuôi và đã có những phần được sắp đặt xong cả về chi tiết. Toàn thể châu Âu chư hầu sẵn sàng ngoan ngoãn đi đánh nước Nga. Ông hoàng đế đã quyết định chia cắt nước Tây Ban Nha : năm 1811 ông đã tách ra khỏi lãnh thổ của anh ông ta là Giô-dép bô-na-pác, người đã được ông ta phong làm vua nước Tây Ban Nha, tỉnh Ca-ta-lô-nhơ, một tỉnh giàu có và có nền công nghiệp phát triển nhất của Tây Ban Nha, để sáp nhập tỉnh đó vào nước Pháp và chia làm bốn quận. Việc ấy, đã làm giầu cho nền thương nghiệp Pháp, được Na-pô-lê-ông coi là có tính chất trừng phạt dân Tây Ban Nha "phiến loạn". Nhưng cuộc "phiến loạn" ấy kéo dài cả ở những quận Ca-ta-lô-nhơ mới của nước Pháp chiếm đóng của Tây Ban Nha, mặc dầu về danh nghĩa thì đất đai là "độc lập", thuộc quyền cai trị của vua Giô-dép Bô-na-pác. Các thống chế Sun, Mác-mông, Xuy-sê được để lại ở Tây Ban Nha chỉ huy các lực lượng quan trọng và hoàn chỉnh. Chú ý của Na-pô-lê-ông là dùng những lực lượng ấy để chống lại sự ức chế của quân Anh đang chiến đấu trên bán đảo Tây Ban Nha dưới quyền chỉ huy của Oen-linh-tơn và chống lại nghĩa quân Tây Ban Nha, những "quân du kích " đang tiếp tục cuộc chiến đấu một mất một còn của họ đã từ hơn bốn năm nay.

Nước Anh lúc nào cũng đứng rình sau lưng Na-pô-lê-ông, nhưng về mặt này xem chừng không có một nguy cơ trước mắt nào đáng sợ cả, đó là không kể đến tình thế nguy ngập trong nội tại nước Anh không kể đến sự tàn phá do cuộc phong tỏa lục địa này gây nên, đến nạn thất nghiệp, đến phong trào công nhân chống lại mạnh mẽ việc cơ khí hóa (và đến sự phá hoại máy móc ở những vùng công nghiệp); chính sách khôn khéo của Na-pô-lê-ông dành cho người Mỹ một số đặc quyền về thương mại và chấp thuận cho họ nhiều khoản ngoại lệ cũng đã góp phần làm nổ ra cuộc chiến tranh giữa Anh và Mỹ.

Cuộc chiến tranh ấy do tổng thống Mỹ tuyên bố ngày 15 tháng 6 năm 1812, chín ngày trước khi Na-pô-lê-ông đặt chân lên đất Nga. Cuộc xung đột vũ trang với châu Mỹ làm cho nước Anh suy yếu trong cuộc vật lộn với đế quốc Pháp.

Hậu phương được an toàn, đường đi thênh thang, Na-pô-lê-ông điều động một số lực lượng vũ trang đông gấp bội lần so với những lực lượng mà Na-pô-lê-ông đã từng chỉ huy trong các cuộc chiến tranh trước: trước mặt Na-pô-lê-ông là một kẻ thù đã từng bị ông ta đánh bại nhiều lần.

Các nhà ngoại giao đoán trước một thảm hoạ. Nhưng tuyệt đại đa số trong bọn họ, kể từ những người thông minh nhất như Mét-te-ních, những người thận trọng nhất như Ha-den-ben, những người sôi sục căm thù Na-pô-lê-ông nhất như Giô-ép Mét tơ-rơ đều cho rằng thảm họa ấy sẽ vô cùng khủng khiếp đối với nước Nga, sẽ là một cơn dông tố chưa từng thấy trong lịch sử nước này, kể từ thời bị quân Mông Cổ xâm lược, đang sắp tràn vào.

Số quân cần thiết cho chiến dịch của Na-pô-lê-ông lúc ấy ước chừng nửa triệu người, không kể số 5 vạn quân mà nước áo và nước Phổ phải cung cấp cho Na-pô-lê-ông. Trong số quân này, có hơn 20 vạn là do các nước chư hầu khác cung cấp như ý, I-ly-ri, vương quốc Vét-xpha-li xứ Ba-vi-e, Vua-tem-be, Bát-đơ, Xắc-xơ, tất cả các vương quốc Đức khác trong liên bang sông Ranh, đại công quốc Vác-sa-va có 9 vạn người Ba Lan phục vụ trong quân đội Na-pô-lê-ông. Nước Bỉ, nước Hà Lan, các thành phố đồng minh thương nghiệp ở miền tây bắc nước Đức không được coi là các nước chư hầu, mà là một thành viên của đế quốc Pháp.

Sau khi nghe ngóng tất cả những lời dự đoán ấy, tướng Đơ Vơ-rét-đe, người xứ Ba-vi-e đã đánh bạo hỏi một cách rụt rè rằng: "Dù sao, tránh một cuộc chiến tranh với nước Nga có phải vẫn lợi hơn không?". Ông hoàng đế trả lời: "Trong ba năm nữa, ta sẽ làm chủ thế giới".

Hồi sáu giờ sáng ngày 9 tháng 5 năm 1812, Na-pô-lê-ông cùng hoàng hậu Ma-ri Lu-i-dơ rời lâu đài Xanh Clu để bắt theo đại quân đã đang đi qua nước Đức bằng nhiều đường khác nhau tiến về phía Ba Lan và dần dần tập trung ở bên sông Vi-xtuyn và Ni-ê-men. Ngày 16 tháng 5, hoàng đế đã vào Đre-xđen , đi bên cạnh có vua xứ Xắc-xơ đã ra đón hoàng đế từ ngày hôm trước. Các vua chúa và đại công tước các nước chư hầu đều đã tụ họp ở thủ đô xứ Xắc xơ để chào mừng vị chúa tể của họ, và trong số đó có cả vua nước Phổ Phri-đrích Vin-hem đệ tam. Hoàng đế áo Phran-xơ cũng đã tới, cùng với hoàng hậu. Na-pô-lê-ông lưu lại Đre-xđen mười lăm ngày ở giữa đám triều đình tôi đòi ấy. Tất cả các vị vua chúa ấy, kể cả bố vợ Na-pô-lê-ông là hoàng đế nước áo, đều bỏ mũ khi gặp Na-pô-lê-ông, và chỉ có Na-pô-lê-ông là vẫn đội chiếc mũ nhỏ nổi tiếng của mình. Nói chung, Na-pô-lê-ông tỏ thái độ tốt với họ, thỉnh thoảng lại ban cho họ một cái véo tai và lúc ấy họ cũng không còn cảm thấy vui thích nữa; Na-pô-lê-ông trêu ghẹo họ một cách thú vị, thưởng cho những người xứng đáng nhất một cái phát vào lưng, hoặc khiển trách tàn tệ một số ở giữa đám đông nhưng ở Đre-xđen ít người bị khiển trách như vậy. Sự xu nịnh lần này thật là quá quắt, không có gì kìm giữ, không bờ bến, không hạn độ, đến nỗi trong lúc những ngày phù hoa tráng lệ ấy lên đến độ cao nhất, có một kẻ nào đó đã đi đến chỗ công nhiên nêu lên giả thuyết rằng con người đi chinh phục thế giới ấy bản chất là thần thánh, hoặc có thiếu thì cũng chỉ chút đỉnh thôi. Tất cả những kẻ ấy dù là vua chúa hay không, tất cả những kẻ bợ đỡ ấy , dù là người Đức hay không, Na-pô-lê-ông đều coi họ như những nô lệ, nông nô đầy khiếp sợ mình. Nhưng nếu như chẳng bao giờ Na-pô-lê-ông biết rằng họ đều tin tưởng vào thắng lợi của Na-pô-lê-ông trong cuộc chiến tranh chống nước Nga. Lúc bấy giờ đâu đâu người ta cũng cầm chắc là như thế; ở châu Âu, ở châu Mỹ, trong các triều đình, trong văn phòng các nhà doanh nghiệp lớn, trong các hãng buôn. Chỉ riêng nước Anh vẫn tiếp tục đợi phút diệt vong của Na-pô-lê-ông và không chú ý đến sự gì cả, không đếm xỉa đến số 60 vạn quân của Na-pô-lê-ông và không muốn thừa nhận ông hoàng đế ấy; những người nông dân và những "kẻ hạ tiện" ở thành thị Tây Ban Nha vẫn chiến đấu quyết liệt như trước, họ đã nhổ vào mặt các sĩ quan của Na-pô-lê-ông khi họ bị trói giật cánh khuỷu để đem đi xử bắn. Chỉ có nước Anh và Tây Ban Nha là không có đại biểu trong các cuộc vui vầy huy hoàng ở Đre-xđen ở các cuộc duyệt binh, ở các cuộc chiêu đãi, ở cuộc "triển lãm" quái gở về sự hèn hạ của con người, về sự xiểm nịnh và sự sợ hãi bỉ ổi nhất ấy.

Niềm tin tưởng phổ biến đó vào thắng lợi của Na-pô-lê-ông hình như hoàn toàn có căn cứ. Đánh nước Nga là vô số các trung đoàn của một quân đội có tổ chức cao hơn hẳn; chỉ huy các đạo quân ấy là một danh tướng mà tài dụng binh đã được thừa nhận là trội hơn cả hoàng đế A-lếch-xan xứ Ma-xê-đoan, hơn cả An-ni-ban, Xê-da; tính đến năm 1812, viên danh tướng ấy đã thắng những trận lớn nhỏ nhiều hơn của cả ba vị danh tướng trên cộng lại "Cuộc liên minh" của Na-pô-lê-ông với nước áo và nước Phổ, quyền bá chủ châu Âu đã làm tăng thêm quân số và bảo vệ cho hậu phương của ông ta. Địch thủ của Na-pô-lê-ông là nước Nga chỉ có một đội quân ít hơn ba lần để chống cự lại và các tướng lĩnh chỉ huy thì đã từng bị Na-pô-lê-ông và các thống chế của ông ta đánh bại nhiều lần. Chính Na-pô-lê-ông nhận định rằng nước Nga chẳng có một tướng tài nào ngoài hoàng thân Ba-gra-chi-on; và đó cũng là dư luận của tất cả châu Âu. Lúc bấy giờ niềm tin của Na-pô-lê-ông thật là vô hạn. Nhưng cũng nên chú ý là trong năm 1812, ý kiến của Na-pô-lê-ông đã thay đổi nhanh chóng. ở Xmô-len, khi ngắm cửa sổ điện Crem-li, Na-pô-lê-ông đã nói thế này nhưng khi nhìn Mát-xcơ-va bốc cháy thì Na-pô-lê-ông lại nói thế khác và trong khi rút lui lại nói khác nữa. ấy vậy mà khi vừa mới vào giai đoạn đầu của chiến dịch, tức là khi đi từ Đre-xđen rồi vượt sông Ni-ê-men thì rõ ràng là Na-pô-lê-ông đã nghĩ đến cái mục tiêu thích thú nhất trong mơ ước: đó là phương Đông, là sự chiếm lấy ấn Độ, nghĩa là nghĩ đến cái kế hoạch mà Na-pô-lê-ông đã phải từ bỏ ngày 20 tháng 5 năm 1789, khi ông ta ra lệnh không vây hãm thành A-crơ nữa và dời quân khỏi Xi-ri để trở về Ai Cập. Nếu hoàng đế A-lếch-xan xứ ma-xê-đoan cũng đã xuất phát từ một cứ điểm xa xôi như Mát-xcơ-va mà đã đến được sông Hằng thì tại sao ông ta, Na-pô-lê-ông lại sẽ không làm được như thế? Na-pô-lê-ông đã lý giải như vậy với Nác-bon một trong những người tin cẩn đôi khi được Na-pô-lê-ông thật thà bàn bạc. Một khi mà Mát-xcơ-va đã bị thất thủ , nước Nga đã đánh bại, Sa hoàng sẽ phải ký hòa ước hoặc sẽ bị chết trong cơn tai biến của triều đình thì lúc ấy ai sẽ ngăn cản được quân đội Pháp và các nước chư hầu tiến đến tận sông Hằng? Và chỉ cần lưỡi gươm của nước Pháp đâm vào con sông ấy là toàn bộ cái lâu đài thương mại phồn vinh kia của nước Anh sẽ sụp đổ. Đem đối chiếu những cuốn hồi ký với những tài liệu xác thực, ta có thể tin được vào sự dẫn chứng trên. Hoạt động ngoại giao của Na-pô-lê-ông ở Thổ, ở Ba Tư, ở Ai cập, không bao giờ lại sôi nổi như năm 1811-1812. Chính vào những năm ấy, việc lãnh sự Pháp Néc-xi-a đã chạy theo những chỉ thị mật của Na-pô-lê-ông : phải tiến hành việc điều tra cần thiết về những miền ấy để chuẩn bị cho chiến dịch sau này của quân đội Pháp. Ai cập và Xi-ri phải làm điểm xuất phát của một đường tiến quân phụ vào ấn Độ, đã bị bỏ dở năm 1799 ở dưới chân thành A-crơ. Cũng nên nhắc đến một việc là Na-pô-lê-ông đã cử bá tước Nác-bon, vẫn con người đã được Na-pô-lê-ông tâm sự về những dự kiến viễn chinh ấn Độ sau cuộc chiến thắng "tiêu non"(ý nói: chưa chiến thắng đã tính chuyện, cũng như chưa có tiền trong tay đã tiêu trước. N.D) nước Nga("từ Mát-xcơ-va đến sông Hằng"), từ Đre-xđen đến gặp A-lếch-xan lúc ấy ở Vin-na để làm như cố cứu vãn hòa bình một lần cuối cùng nữa. Thực ra, Nác-bon đã hoàn toàn biết rõ mệnh lệnh của Na-pô-lê-ông là phải làm chậm lại cuộc tiến công bất thần của quân Nga vào Vác-sa-va bằng cuộc thương lượng vô ích. Sứ mệnh của Nác-bon không mang lại kết quả, đó là điều tất nhiên. Trong tâm trí Na-pô-lê-ông, chiến tranh đã được định đoạt, không gì làm thay đổi được nữa. Đội quân 40 vạn người của Na-pô-lê-ông đã hành quân qua nước Phổ tiến về phía sông Ni-ê-men, và chỉ đợi lệnh là tiến vào đất Nga.

Na-pô-lê-ông đã từ Đre-xđen đến Pô-dơ-man và ở lại đó vài ngày. Giai cấp quý tộc Ba Lan đã đón tiếp Na-pô-lê-ông nồng nhiệt hơn cả năm 1807, trước hết vì lần này người Ba Lan có thể hy vọng thật sự khôi phục được nước Ba Lan theo như biên giới cũ, hoặc ít ra cũng chiếm được của Nga đất Lít-va và Bạch Nga. Vì vậy nhiệt tình của quý tộc Ba Lan đối với Na-pô-lê-ông có thể tự do cởi mở không chút ngại ngùng thớ lợ.

Nhưng tình hình nôn nóng, dễ nổi giận, lại đang tập trung tất cả tâm trí vào những vấn đề chiến tranh nên ông hoàng đế không hài lòng lắm khi thấy bọn tiểu quý tộc Ba Lan ăn mặc chải chuốt tóc sấy điểm tô son phấn, đến tỏ lòng trung thành sùng bái đối với mình Na-pô-lê-ông nói cho họ biết rằng ông ta muốn thấy họ đi ủng kỵ mã, đeo kiếm bên sườn, noi gương tổ tiên họ khi quân Tác-ta và Cô-dắc tiến vào đất nước, vì mọi người đang sống trong thời buổi đòi hỏi phải vũ trang từ đầu đến chân và bàn tay sẵn sàng đặt trên đốc kiếm. Na-pô-lê-ông đã nói như vậy với bọn quý tộc tiếp đón ông ta ở Pô-dơ-nan, vào ngày 28 tháng 5 năm 1812 do Goóc-dép-xki, tổng giám mục địa phận, chủ trì. Bọn quý tộc Ba lan vội vã hiểu lời phát biểu ấy như một lời chúc tụng. Na-pô-lê-ông không bao giờ tỏ ra sắc sảo về mặt xã giao đặc biệt là khi đang đi chiến dịch.

Từ Pô-dơ-man, Na-pô-lê-ông đi đến Toóc -nơ rồi từ Toóc-nơ đi Đan-xích lưu lại đây bốn ngày để điều động thêm nhiều đơn vị bộ đội mới, từ Đan-xích, Na-pô-lê-ông đi Cơ-ni-xbe, ở lại đó năm hôm (từ 12 đến 17 tháng 6) và dùng toàn bộ thời gian ấy để giải quyết việc quản lý bộ đội và việc tổ chức tiếp tế. ngày 20 tháng 6 Na-pô-lê-ông đến Gum-bin-men ông đã hạ nhật lệnh cho toàn quân. "Hỡi các binh sĩ! Cuộc chiến tranh Ba Lan lần thứ hai đã bắt đầu. Cuộc chiến tranh thứ nhất đã kết thúc ở Phrít-lan và ở Tin-dít; ở Tin-dít, nước Nga đã thề liên minh mãi mãi với nước Pháp và sẽ chiến tranh với nước Anh. Ngày nay họ bội ước; họ không muốn giải thích chút gì về hành động kỳ quặc của họ, họ muốn quốc huy của đế quốc Pháp không vượt qua sông Ranh để họ tùy ý muốn làm gì những bạn đồng minh của chúng ta ở đó thì làm. Nước Nga đã bị số mệnh lôi cuốn và định mệnh của họ sẽ đến với họ. Họ tưởng chúng ta bạc nhược rồi chăng?

Chúng ta không còn là những binh sĩ Au-xtéc-lít nữa chăng? Nước Nga đặt chúng ta vào thế hoặc chịu ô nhục thanh danh hoặc phải chiến tranh: con đường chúng ta chọn đã rõ ràng. Chúng ta hãy tiến lên , hãy vượt qua sông Ni-ê-men và tiến hành chiến tranh ngay trên đất nước họ. Cuộc chiến tranh Ba Lan thứ hai này sẽ đem lại vinh quang cho quân đội Pháp. Những hòa ước mà chúng ta sẽ ký sẽ mang trong bản thân chúng sự bảo đảm; chúng ta sẽ chấm dứt cái ảnh hưởng bi thảm mà nước Nga dội vào trong công việc của châu Âu từ năm mười năm nay".

Lời tuyên bố của Na-pô-lê-ông được coi là lời tuyên chiến chính thức.

Hai ngày sau, trong đêm 24 tháng 6 năm 1812 (12 tháng 6 theo lịch cũ) Na-pô-lê-ông ra lệnh vượt sông Ni-ê-men và 300 kỵ binh thuộc trung đoàn Ba Lan thứ 13 là những kẻ đầu tiên vượt sông. Ngày hôm ấy và trong những ngày tiếp theo, toàn bộ cận vệ cũ và mới, rồi đến quân kỵ binh của Muy-ra và đằng sau là các thống chế dẫn đầu các quân đoàn của họ đã nối đuôi nhau vô cùng vô tận sang bờ phía sông Ni-ê-men đến tận chân trời, quân Pháp không còn trông thấy một bóng người. "Trước mặt chúng tôi là sa mạc, đất màu nâu và vàng nhạt, cây cỏ úa cằn và những cánh rừng xa xôi tít tận chân trời". Một trong số những người còn sống sót sau chiến dịch đã kể lại như vậy và quang cảnh đã như một điềm chẳng lành.

Na-pô-lê-ông không nhận thấy một dấu hiệu gì như thế cả. Bao giờ cũng vậy, khi đi chinh chiến Na-pô-lê-ông hoạt bát, nhanh nhẹn hơn thường ngày rất nhiều. Chiến dịch vĩ đại nhất của Na-pô-lê-ông từ trước đến giờ bắt đầu, và cứ theo cách chuẩn bị của Na-pô-lê-ông, ta có thể cho rằng Na-pô-lê-ông hiểu rất rõ điều đó. Có thể đây là chiến dịch cuối cùng ở châu Âu và là chiến dịch đầu tiên ở châu á của Na-pô-lê-ông; cũng có thể là năm nay Na-pô-lê-ông buộc phải kết thúc chiến dịch ở Xmô-len và để lại đến năm sau mới tiến hành nốt (Mát-xcơ-va và Pê-téc-bua) Na-pô-lê-ông nói đến xứ ấn Độ và sông Hằng, với các thống chế thì Na-pô-lê-ông nói đến việc đóng bản doanh nghỉ quân ở Xmô-len.

Xung quanh có các tướng tá và một đoàn tùy tùng đông nườm nượp, đi trước là đội kỵ binh của Muy-ra, Na-pô-lê-ông thẳng tiến đến sông Vin-na, không gặp một sức kháng cự nào.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3