Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Napoleon Bonaparte - Chương 15

Chương XV

Chiến dịch nước pháp và sự thoái vị lần thứ nhất của Napoleon 1814

Trong năm 1814, cũng như trong suốt cuộc đấu tranh của Napoleon với Châu Âu năm 1813, Napoleon chỉ huy hoàn toàn trông cậy vào lực lượng vũ trang. Tuy nhiên Napoleonn cũng nhân thấy rằng, sau trận Lai-xích và trước ngày quân Liên minh xâm lược nước Pháp thì không thể hành động như hồi tháng 7 và tháng 8 năm 1813 được nữa, hồi Napoleon cố tình phá hoại hội nghị Pra-ha. Ngoài nước Pháp ra, lúc bấy giờ người ta còn đồng ý để lại cho Napoleon tất cả những đất đai đã chiếm được, trừ vùng I-ly-ri, các thành phố đồng minh thương nghiệp ở miền tây-bắc nước Đức và một vài vị trí ở nước Đức cùng với tất cả các danh vị và quyền đặc lợi, trừ danh vị và quyền lợi của người bảo hộ Liên bang sông Ranh. Nhưng Napoleon đã phá vỡ các cuộc đàm phán, những mong thanh toán gọn khối Liên minh bằng một trận đánh. Những điều kiện mà hiện nay người ta đưa ra với Napoleon chắc chắn là tệ hơn, Nhưng Napoleon biết rằng nông dân và thợ thuyền, tư sản thương nghiệp và công nghiệp và tầng lợp công chức đông đảo mà Napoleon đã tạo nên, và điều quan trọng nhất là bộ tư lệnh tối cao của quân đội đứng đầu là các thống chế, nói tóm lại, toàn thể nhân dân bao gồm mọi giai cấp, trừ một số rất ít trường hợp ngoại lệ, đều đã mệt lả vì chiến tranh và khao khát hoà bình. Cho nên Napoleon không trắng trợn từ chối cuộc đàm phán do Xanh E-nhăng chuyển đạt, đồng thời còn làm ra vẻ mong muốn hoà bình, nhưng Napoleon đã kéo dài công việc trong gần hai tháng trời (kể từ ngày 15 tháng 11 năm 1813, ngày Napoleon nhận được những điều kiện giảng hoà). Không phải vô cớ mà Napoleon hy vọng quân Liên minh sẽ vi phạm những điều kiện do chính họ đã đưa ra và như vậy họ sẽ phải chịu trách nhiệm về việc chiến tranh tiếp diễn. Napoleon biết rằng trừ nước áo ra thì không một nước nào hiện đang chiến tranh với ông lại mong muốn triều đại của ông tồn tại lâu dài và đặc biệt là nước Anh ắt sẽ không hài lòng chừng nào tỉnh Ăng-ve còn nằm trong tay ông. Nhưng, theo những điều kiện từ Phrăng-pho gửi đến cho Napoleon thì toàn bộ nước Bỉ (chứ không riêng gì tỉnh Ăng-ve) vẫn sẽ tiếp tục nằm trong đế quốc Pháp. Napoleon còn biết rằng càng làm trì trệ công việc thì càng tạo cơ hội tốt cho Cát-tưn-rít, bộ trưởng Bộ ngoại giao Anh, bác bỏ những điều kiệm mà Thượng nghị sĩ A-béc-đin đã ưng thuận ở Phrăng-pho hồi đầu tháng 11, dưới áp lực của Mét-te-ních. Nhưng trong khi chờ đợi, Napoleon cần phải làm ra vẻ rằng hiện nay ông ta không hề gây trở ngại gì cho cuộc đàm phán hoà bình và nếu như Napoleon có trưng binh một lần nữa thì không phải để chiến tranh mà chỉ để làm hậu thuẫn cho thiện chí hoà bình của ông ta. "Tôi không phản đối gì việc lập lại hoà bình - đó là lời của Napoleon trong bài diễn văn khai mạc khoá họp của Thượng nghị viện ngày 19 tháng 12 năm 1813 - Tôi rất hiểu và rất thông cảm với quan niệm của người Pháp, tôi nói người Pháp bởi vì không một người Pháp nào muốn đổi danh dự lấy hoà bình. Rất tiếc tôi phải đòi hỏi ở nhân dân hào hiệp này những hy sinh mới; nhưng những hy sinh ấy đều do những quyền lợi cao cả và quý báu nhất của họ đòi hỏi. Tôi đã phải tăng cường quân đội của tôi bằng nhiều cuộc động viên mới; các quốc gia chỉ có thể yên ổn thương thuyết bằng cách tung hết lực lượng của mình ra". Rõ ràng Napoleon không muốn hoà bình. "Sao cho những thế hệ mai sau đừng nói về chúng ta rằng: Họ đã hy sinh những quyền lợi căn bản của đất nước; họ đã phục tùng những quyền lực mà từ bốn thế kỷ nay nước Anh đã không bắt nổi nước Pháp phải theo". Diễn từ của Napoleon kết thúc như vậy để đáp lại cuộc đàm phán hoà bình của các cường quốc đã khai mạc từ hơn một tháng nay. Tháng 1 năm 1814, 11 vạn tân binh được gọi nhập ngũ. Một cuộc động viên mới được quyết định. Napoleon phái một số Thượng nghị sĩ khắp nước Pháp để động viên nhiệt tình của các cấp chính quyền địa phương trong việc tuyển quân và thu các thứ thuế thường lệ và bất thường để nuôi quân đội. Ngay từ tháng 1 năm 1814, người ta được tin rằng cuối cùng quân đội địch đã vượt qua sông Ranh và làn sóng xâm lược đã tràn vào An-đát và Phăng-xơ Công-tê, rằng Oen-linh-tơn đã vượt qua rặng Pi-rê-nê và đang tiên vào miền Nam nước Pháp... "Tôi không sợ phải thú nhận việc đó, - đó là lời hoàng đế nói với các Thượng nghị sĩ được phái đi các tỉnh - tôi đã chiến tranh quá nhiều , tôi đã có những dự án lớn lao, tôi đã muốn bảo đảm cho nước Pháp quyền bá chủ trên thế giới. Tôi đã nhầm, những dự án đó không tương xứng với lực lượng dân số của dân chúng nước ta. Đáng lẽ phải gọi toàn dân nhập ngũ, và tôi đã nhận thấy được điều đó, nhưng những yêu cầu cả tiến bộ xã hội và cả sự thuần hoá phong tục đã không cho phép biến cả một quốc gia thành toàn dân vi binh". Nếu các Thượng nghị sĩ không muốn mất khẩu khiếu trong suốt thời gian trị vì của Napoleon thì ắt họ đã có thể trả lời ông hoàng đế rằng hoàng đế đã quá khiêm tốn và rõ ràng là hoàng đế đã biến cả nước thành binh lính, trừ đàn bà, con trẻ và người già. "Tôi phải chịu lỗi vì quá tin vào vận hội của tôi, và tôi sẽ chịu... tôi mắc sai lầm thì chính tôi phải chịu - Hoàng đế nói tiếp - chứ không phải là nước Pháp. Nước Pháp không mắc sai lầm, nước Pháp đã không tiếc cho tôi máu, đã không từ chối một sự hy sinh nào đối với tôi...". Napoleon coi việc ký kết hoà bình là một sự hy sinh mà cá nhân ông phải chịu. Napoleon nói: "Còn tôi, tôi chỉ dành lại cho tôi cái vinh dự là phải can đảm phi thường, tức là can đảm từ bỏ cái tham vọng cao quý nhất chưa từng có, và, vì hạnh phúc của dân chúng, tôi can đảm hy sinh những dự kiến lớn lao chỉ có thể thực hiện được bằng những cố gắng mà tôi không muốn đòi hỏi nữa". Rất ít khi Napoleon nói thành thật như trong dịp này. Nhưng Napoleon không tính nhiệm gì mấy các Thượng nghị sĩ. Người ta có thể tóm tắt ý kiến của Napoleon về các Thượng nghị sĩ như thế này: hôm nay là nô lệ, ngày mai là kẻ phản bội. Napoleon không còn nghi ngờ gì nữa về sự phản bội của Tan-lây-răng. Vừa mới trở về đến Pa-ri sau trận Lai-xích vào tháng 11 năm 1813, trong một cuộc đại trào, Napoleon đã dừng lại trước mặt Tan-lây-răng, lớn tiếng hỏi: "Ông đến đây làm gì? Tôi biết là ông tin rằng ông sẽ làm thủ lĩnh nếu như vừa rồi tôi chết đi. Hãy coi chừng, thưa ông, chống lại quyền lực của tôi, không được đâu. Xin báo để ông biết rằng nếu tôi ốm nguy kịch thì ông sẽ chết trước tôi!". Tuy vậy, Napoleon cũng không cho xử bắn Tan-lây-răng, như đã có lúc con cáo già ấy lo sợ, mà tháng 1 năm 1814, Napoleon lại còn yêu cầu Tan-lây-răng cùng đi với Cô-lanh-cua để tiến hành đàm phán với quân Liên minh, và đã giơ nắm đấm doạ khi Tan-lây-răng từ chối. Napoleon không còn tin Phu-sê, cũng như các thống chế của ông ta; ông ta chỉ còn tin vào binh lính, nhưng chỉ tin các cựu chiến binh, chứ không phải những binh lính chưa đến tuổi thành niên mà, trong hai năm sau cùng, ông ta đã bức họ phải lìa bỏ gia đình. Song số cựu chiến binh chẳng còn là bao: ở vùng thôn quê La Mã, trên cáo nguyên Ma-đrít, ở những vùng lân cận Giê-ruy-da-lem, trên con đường từ Mát-xcơ-va về đến sông Bê-rê-di-na, trên khắp cánh đồng Lai-xích, xương cốt của họ còn phơi trắng ngổn ngang. Napoleon đã phải cấp tốc gọi về những người còn sống sót trong số những đám quân cũ ở Tây Ban Nha, ở Hà Lan và ở ý. Tuy nhiên, Napoleon vẫn muốn chiến tranh, không muốn nói đến hoà bình. Vả lại, sau hai tháng lần lữa và sau khi đã chà đạp lên đất nước Pháp thì uân Liên minh, tin vào việc nước Pháp đã mệt mỏi rã rời và vào tỷ lệ đảo ngũ ngày càng nhiều trong các tầng lớp binh lính mới gọi nhập ngũ của quân đội Pháp, đã xác định trong tư tưởng rằng sẽ chỉ để lại cho Napoleon những đường biên giới cũ của nước Pháp vào năm 1790, nghĩa là không bao gồm nước Bỉ, nước Hà Lan, xứ Xa-voa và tản ngạn sông Ranh chiếm được từ thời kỳ cách mạng. Như vậy là vẫn còn ít hơn so với những đề nghị hồi tháng 11 năm 1813, nhưng lần này phe Liên minh đều đồng ý, kể cả thượng nghị sĩ Cát-tun-rit, người đã thân chinh đến tận tổng hành dinh của quân Liên minh. Hội nghị hoà bình đã họp ở Sa-ti-ông, nhưng các cuộc đàm phán đã không mang lại kết quả gì. "Trước bản đề nghị nhục nhã mà ông đã gửi cho tôi, tôi bị kích động đến nỗi thấy rằng dù chỉ đặt tôi vào cái thế mà người ta đã đề nghị với ông cũng đã là mất hết danh dự rồi...". Napoleon viết như vậy cho Cô-lanh-cua, đại diện của ông ta ở hội nghị, khi Cô-lanh-cua báo cho Napoleon biết đo là sự hy vọng cuối cùng để giữ được ngai vàng và ngăn ngừa sự phục hưng của dòng họ Buốc-bông được quân đội Liên minh giúp đỡ. "Lúc nào ông cũng nói đến bọn Buốc-bông. chẳng thà tôi đành thấy bọn Buốc-bông phục hưng ở nước Pháp nhưng là tôi phải chịu nhận những đề nghị nhục nhã mà ông gửi". Chiến tranh, chiến tranh phải định đoạt tất cả. hội nghị giải tán, không làm nên được trò gì, nhưng cũng đã ở vào giai đoạn giữa cuộc chiến tranh tuyệt vọng của Napoleon chống khối Liên minh. Đêm 24 rạng ngày 25 tháng 1 năm 1814, Napoleon lên đường chinh chiến. Ông giao quyền nhiếp chính cho vợ là Ma-ri Lu-i-dơ. Trường hợp hoàng đế chết thì đứa con trai của hoàng đế, ông vua nhỏ thành Rôm, lên ba tuổi, sẽ được đặt lên ngôi ngay, và Ma-ri Lu-i-dơ vẫn giữ quyền nhiếp chính. Trong đời mình, Napoleon chưa hề yêu ai như đứa trẻ này. Những người biết rõ hoàng đế đã không thể ngờ được rằng hoàng đế lại có thể quyến luyến với đứa bé đến như vậy, hơn với bất cứ ai. Khi hoàng đế ngồi làm việc trong phòng của mình, bên cạnh lò sưởi, đang viết hoặc đọc sách, đứa bé không rời khỏi đầu gối của hoàng đế, đứa bé không muốn rời khỏi gian phòng và đòi bố phải chơi lính chì với nó, Mê-nê-ven, một trong những biệt thư riêng của Napoleon đã kể lại như vậy. So với tất cả mọi người ở trong triều, chú bé này là người duy nhất không e sợ hoàng đế chút nào và chú ta cảm thấy mình hoàn toàn làm chủ trong phòng làm việc của hoàng đế. Suốt cả ngày 24 tháng , Napoleon ngồi trong phòng làm việc, bận giải quyết gấp các công việc khẩn cấp trướng khi lên đường đi đánh trận quyết định này, cuộc đọ gươm đáng sợ với toàn thể Châu Âu đứng lên chống Na. Chú bé với con ngựa gỗ vẫn quẩn quanh bên bố như thường lệ, và cuối cùng lấy làm khó chịu khi thấy bố miệt mài trên đống giấy tờ, nó kéo áo bố để bắt phải chú ý tới nó. Hoàng đế nhấc bỗng đứa con tung lên không rồi lại bắt lấy để nô đùa với nó. Thích thú, chú vua nhỏ thành Rôm cuống quýt hôn bố. Tối đến, người ta ẵm nó đi ngủ. Vào hồi ba giờ sáng, người vú, đêm ấy đến phiên trực trong phòng của thái tử, bất chợt thấy Napoleon "rón rén bước vào", còn Napoleon thì không biết người vú đang nhìn mình. Napoleon đến đứng bên cạnh cái nôi của đứa con đang ngủ say sưa, chăm chú ngắm nghía hồi lâu. Lát sau, Napoleon đã lên xe và đến với quân đội. Từ đó, không bao giờ còn gặp lại đứa con trai của ông ta nữa.

Việc huấn luyện tân binh chưa xong, việc trưng binh vẫn tiếp tục, hoàng đé và các thống chế mới chỉ có 4 vạn 7 nghìn quân sẵn sàng chiến đấu được, còn Liên minh đã dàn ra 23 vạn quân và một số quân gần bằng thế nữa đang cấp tốc kéo đến tăng cường trên nhiều ngả đường khác nhau. Hầu hết các thống chế, kể cả Nây, đều ngã lòng. Napoleon là người duy nhất còn đầy hăng say và khí thế, và ông ta vẫn cố gắng truyền lại cho các thống chế tinh thần lạc quan ấy. "Napoleon tỏ ra cương nghị và như trẻ lại", những người đọc chứng kiến đã kể lại như vậy. Đến Vít-tơ-ri ngày hôm trước thì ngày hôm sau, 26 tháng 1, Napoleon cho tập trung hết lực lượng và đã đánh bật được Bluy-khe ra khỏi Xanh Đi-di-ê. Từ Xanh Đi-di-ê, sau khi đã quan sá được hành động của quân Phổ, Napoleon tiến đánh quân Phổ và đánh quân đoàn Nga của ốt-xren Xắc-ken. Ngày 31 tháng 1, ở Biên, Napoleon đã đánh thắng một trận mới vô cùng gay go, và trận này đã khôi phục tinh thần cho binh sĩ, lúc đo đang bạc nhược lên rất nhiều. Bluy-khe bị đánh bại, vội vã lui về Ba xuya Ô-bơ, nơi mà chủ lực quân của Svác-xen-be đã đến tập trung. Quân Liên minh điều động một khối 12 vạn 2 nghìn quân ở khoảng giữa Sô-mông và Ba Xuya Ô-bơ. Trong tay chỉ còn hơn 3 vạn quân, nhưng Napoleon quyết tâm nghênh chiến, không lui. Trận Rô-ti-e đã diễn ra từ tinh mơ ngày 1 tháng 1, kéo dài đến 10 giờ. Sau đó, Napoleon vượt sông Ô-bơ không bị địch truy kích và tới Tơ-roay vào ngày 3 tháng 2. ở Rô-ti-e, quân Pháp có thể tin rằng mình sắp thắng lợi hoàn toàn; thắng lợi của Napoleon trong việc chống lại được những lợc lượng đông gấp bốn, gấp năm lần thật vô cùng to lớn. Nhưng không phải vì thế mà tình hình không còn cực kỳ nguy hiểm, quân đội nhận được viện binh rất ít và rất chậm. Nây, Mắc-đô-nan, Béc-ti-ê, Mác-mông đều cho rằng biện pháp duy nhất để cứu vãn ngai vàng là đàm phán hoà bình và khi hội nghị Sa-ti-ông bị thất bại thì họ tỏ ra buồn bực. Nhưng nghị lực của Napoleon ngày càng lớn mạnh song song với sự hiểm nghèo. Ngay từ năm 1812, các thống chế đã nhận xét thấy ở Napoleon có những biểu hiện trì trệ, mệt mỏi, hình như thiên tài quân sự của Napoleon bị giảm sút. Nhưng vào tháng 2 và tháng 3 năm 1814, các thống chế không còn tin vào con mắt của mình nữa và thấy trước mặt họ vẫn là tướng Bô-na-pác, người anh hùng trẻ tuổi ở ý và ở Ai Cập tựa hồ như Napoleon đã trút bỏ được cái gánh nặng của 15 năm trị vì, 15 năm chiến tranh đẫm máu, 15 năm cai rị một cách độc đoán cái đế quốc rộng lớn của ông và Châu Âu chư hầu. Napoleon giữ vững tinh thần cho các thống chế và binh lính, làm yên lòng cho các bộ trưởng còn lại ở Pa-ri. Ngày 10 tháng 2, sau vài cuộc hành quân mau lẹ, Napoleon tiến công vào quân đoàn On-su-phi0ép đóng ở Săm-pô-be và đánh cho nó thất bại tan tành. Hơn 1 nghìn 5 năm trăm quân Nga bị giết chết, bị bắt làm tù binh chừng 3 nghìn, trong đo có cả viên tướng chỉ huy, số còn lại bỏ chạy. Chiều tối, Napoleon nói với các sĩ quan thân cận: "Nếu ngày mai ta cũng gặp may mắn như hôm nay thì 15 ngày nữa, ta sẽ đánh bật quân địch về đến sông Ranh, và từ sông Ranh đến sông Vi-xtuyn chỉ còn một bước chân".

Ngày hôm sau, Napoleon tiến từ Săm-pô-be về Mông-mi-ray, nơi quân Nga và quân Phổ đang trú quân. Trận Mông-mi-ray diễn ra ngày 11 tháng 2, đã kết thúc bằng một thắng lợi mới và rực rỡ của Na. Trong số 2 vạn quân chiến đấu dưới cờ của Liên minh thì họ bị tổn thất gần 8 nghìn người, còn Napoleon mất chưa đầy 1 nghìn người. Quân Liên minh vội vã rút khỏi chiến trường. hoàng đế lập tức tiến về Sa-tô Ti-e-ri, ở đó còn khoảng 1 vạn 8 nghìn quân Phổ và 1 vạn quân Nga. Sau này, Napoleon nói là mình đã lại tìm thấy đôi hài trong chiến dịch nước ý. Những nhà bình luận quân sự đánh giá chiến dịch nước Pháp năm 1814 như một trong những chiến dịch đặc sắc nhất của thiên hùng ca Napoleon và là một chiến dịch trong đo thiên tài chiến lượng của hoàng đế đã lên tới điểm tột cùng. Trận Sa-tô Ti-e-ri (ngày 12 tháng 2) là một chiến thắng mới của Na. Nếu Mắc-đo-nan hành quân không mắc phải sai lầm và chậm trễ thì có lẽ quân Liên minh đã bị tiêu diệt.

Ngày 13 tháng 2, Bluy-khe đánh và đã đuổi lui được Mác-mông nhưng ngày hôm sau, Napoleon đến ứng cứu và đã đánh bại được Bluy-khe ở Vô-săng. Trong trận này, tướng Phổ mất 9 nghìn quân. Tuy Napoleon đã nhận thêm được viện binh và quân Liên minh đã bị thua liền mấy trận nhưng tình thế của hoàng đế vẫn nguy ngập vì lực lượng của quân Liên minh đông gấp bội của Na. Nhưng những chiến thắng bất ngờ và xảy ra hàng ngày đó đã gieo hoang mang trong hàng ngũ quân đội Liên minh, đến nỗi Svác-xen-be, tổng chỉ huy quân Liên minh, ít nhất cũng là trên danh nghĩa đã phải phái một trong những sĩ quan hầu cận đến tổng hành dinh của Napoleon để đề nghị hoãn binh. Hai trận đánh mới nữa ở Mooc-măng và ở Vin-lơ-nơ cũng lại đã kết thúc có lợi cho quân Pháp và bức quân Liên minh phải tiến hành một cuộc hoãn binh bất ngờ. Napoleon đã từ chối hội kiến riêng với bá tước Pa, phái viên của Svác-xen-be nhưng đã nhận bức thư của tướng áo và không trả lời ngay. "Ta đã bắt được từ 3 đến 4 vạn tù binh, ta đã thu được 2 nghìn cỗ pháo và bắt được rất nhiều tướng lĩnh". Napoleon đã viết như vậy cho Cô-lanh-cua và tuyên bố rằng ông ta chỉ bằng lòng lập lại hoà bình với quân Liên minh với điều kiện là nước Pháp giữ nguyên được "các đường biên giới thiên nhiên" (sông Ranh, dãy núi An-pơ, dãy núi Pi-rê-nê). Napoleon từ chối đình chiến.

Ngày 18 tháng 2, một trận đánh mới lại diễn ra ở Mông-tơ-rô, ở đó quân Liên minh đã bị đánh lui, bị thiệt hại 3 nghìn người vừa bị giết vừa bị thương và 4 nghìn bị bắt làm tù binh. Theo lời của các nhà quan sát và của các ký giả, ngay cả của bên đối phương, thì trong chiến dịch năm 1814 dường như hoàn toàn tuyệt vọng ấy, tài năng của Napoleon đã trội hẳn lên. Song vì Napoleon có ít quân quá, các thống chế (Vích-to, Ô-giơ-rô) đã suy sụp đến cùng cực, phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, nên đã làm cho Napoleon không thể khuyếch trương tiệt để được những thắng lợi vừa rực rỡ vừa kỳ quan của ông. Napoleon lóng nảy khiển trách, tức giận la mắng các tướng tá của mình, thúc ép họ hành động: "Cái lý do mà ông đưa ra nghèo nàn lắm, Ô-giơ-rô ạ. Tôi đã tiêu diệt 8 vạn quân địch bằng những tiểu đoàn tân binh không có bạo dạn và vừa mới mặc quần áo... Nếu sáu chục tuổi đời của ông đã đè nặng lên ông thì ông hãy thôi đi, đừng chỉ huy nữa". "Hoàng đế nhất định không muốn hiểu rằng tất cả những người dưới quyền của hoàng đế không phải là những Na", một trong những tướng lĩnh của Napoleon viết trong tập hồi ký như vậy. Sau khi đã nhóm họp hội đồng quân sự. Svác-xen-be thỉnh thị ý kiến hoàng đế A-lếch-xan, vua nước Phổ, hoàng đế nước áo, và ông đã quyết định đình chiến vói Napoleon một lần nữa. Để tiến hành việc này, người ta cử hoàng thân Lit-sơ-en-xrai, người đứng đầu một trong những lệnh tộc có tiếng tăm của nước áo, mang theo những đề nghị mới đến gặp Na. Hiển nhiên là quân Liên minh rất lo lắng và một số trong bọn họ đã muốn giải quyết thật sớm công việc bằng cách ký một điều ước hoà giải. Napoleon không từ chối tiếp nhận phái viên của Liên minh. Bằng những lời ẽ rất nhã nhặn, Lít-sơ-en-xtai cam kết với Napoleon rằng Liên minh thật sự mong muốn hoà bình và không muốn phục hưng dòng họ Buốc-bông. tuy nhiên, cuộc đàm thoại đã không mang lại kết quả gì.

Với những thắng lợi rực rỡ đến cực điểm, lúc bấy giờ Napoleon cho rằng mình đã tiêu diệt được gân một nửa quân số của Liên minh (8 vạn trong số 20 vạn) nên ông đã ỷ vào ưu thế thuyệt đôi về thiên tài quân sự của mình, cái thiên tài 00ã giúp ông đánh một kẻ địch vô cùng mạnh mẽ phải thất bại liên tiếp. Từ Pa-ri, Tan-lây-răng và đồng loã, từ lâu đã có những mối liên lạc bí mật rất chặt chẽ với quân Liên minh để chuẩn bị cho dòng họ Buốc-bông trở lại. Đối với bọ này, phe Liên minh giữ thái độ hết sức dè dặt và chính ngay kẻ thù không đội trời chung với Na, như A-lếch-xan chẳng hạn, lại ưng để ông vua nhỏ thành Rôm lên ngôi, miễn là Napoleon thoái vị . Nhưng lúc này người ta không bàn đến chuyện thoái vị nữa. Người ta biết rằng một tên quý tộc cũ người Pháp, nam tước vùng Gu-hô, quê quán ở Tơ-roay, đã gửi lên A-lếch-xan bản kiến nghị ủng hộ dòng họ Buốc-bông. A-lếch-xan trả lời là quân Liên minh chưa hề có quyết định gì về việc thay thế triều đại Napoleon bằng triều đại Buốc-bông và khuyên những kẻ ký kiến nghị (không phải chỉ có một mình Gu-ho) nên tránh những cuộc vận động nguy hiểm như vậy. Vài ngày sau khi Napoleon tiến vào Tơ-roay thì Gu-hô bị bắt, bị đưa ra toà án binh và bị xử bắn. Sau này, A-lếch-xan lấy làm lạ rằng không hề thấy xuất hiện ở những vùng nông thôn nước Pháp ý muốn lật đổ Na. Trái lại, ở vùng núi Vốt-giơ, vùng Lo-ren, vùng núi Giuy-ra, chính nông dân đã bắt đầu tiến công vào những binh lính Liên minh đi rớt lại sau, và biểu thị rõ rệt mối căm hờn đối với kẻ xâm lược. Những sự việc ấy xảy ra một phần là do nông dân phản ứng chống lại những vụ cướp bóc của quân Liên minh cũng như vì họ lo sợ lại phải chịu đựng dòng họ Buốc-bông được đưa về bằng "những xe vân tải của nước ngoài" và việc lập lại những luật lệ phong kiến. Napoleon đã nhanh chóng cảm thấy điều đó. "Cần phải dùng lại phương pháp công kích và cách giải quyết vấn đề trong năm 1793" của ông ta. Napoleon viết như vậy cho các thống chế. Nhưng, mặc dầu thất bại, quân Liên minh vẫn không ngã lòng. Rất nhiều quyền lợi bị đe doạ. Một loạt chiến thắng kỳ diệu, mà Napoleon liên tiếp thu được vào lúc tình thế Napoleon dường như tuyệt vọng, đã dẫn họ đến chỗ lo âu tự hỏi rằng rồi đây sự tình sẽ ra sao nếu con người ấy, con người mà từ lâu tất cả bọn họ đã phải coi là nhà chỉ huy lỗi lạc nhất của lịch sử thế giới, vẫn còn ngồi trên ngai vàng, khôi phục được sức lực và hùng cường trờ lại? Lúc ấy, một hoặc hai năm nữa, ai sẽ là kẻ đi tới đích. Vào thượng tuần tháng 3, hoàng đế đã tập hợp được hơn 7 vạn 5 nghìn người; ông tách ra 4 vạn quân để bám sát hoạt động của Svác-xen-be đang rút lui, còn lại 3 vạn 5 nghìn quân, Napoleon ném truy kích Bluy-khe. Viên quan cai trị khu Xoát-xông đã nộp thành phố cho Bluy-khe, chỉ nhờ sai lầm ấy của Bluy-khe mới thoát khỏi bị tiêu diệt. (1. Tức là năm Pô-ná-pác chỉ huy quân đội cộng hoà anh dũng đè bẹp cuộc nổi dậy của bọn bảo hoàng ở Yu-lông - ND). Nhưng sau khi tránh khỏi bị bắt. Bluy-khe đã không thể lẩn tránh giao chiến: ngày 7 tháng 3, Napoleon đã đuổi kịp và đánh bại Bluy-khe ở Cra-on; sau khi bị thất bại nặng nề, Bluy-khe chạy trốn vào La-ông; ở đó, Napoleon đã cố sức để đánh bật Bluy-khe ra như vô hiệu (vào ngày 9, 10 tháng 3). Tuy vậy, ít lâu sau, hoàng đế cũng đuổi được Bluy-khe ra khỏi đấy, mặc dầu không tiêu diệt gọn được như đã dự định. U-đi-nô và Mắc-đo-nan, được hoàng đế giao cho 4 vạn quân để bám chắc Svác-xen-be đã phải tháo chạy vào vùng Prô-vanh. Ngày 9 tháng 3, đại diện của các cường quốc Liên minh đã ký ở Sô-mông một giao ước cùng nhau cam kết trước hết là sẽ buộc Napoleon phải thu nước Pháp trở về những đường biên giới như trước năm 1792, giải phóng hoàn toàn nước Hà Lan, nước ý, nước Tây Ban Nha, nước Thuỵ Sĩ, tất cả các quốc gia Đức, và sẽ không xếp khí giới chừng nào mục đích trên còn chưa thực hiện được; ngoài ra, nước Nga, nước Phổ và nước áo cam kết mỗi nước sẽ cung cấp 15 vạn quân, còn nước Anh cung cấp quân Liên minh mỗi năm một khoản viện trợ là5 triệu đồng bảng Anh trong suốt thời gian chiến tranh. Quân Liên minh cũng không thể phỏng đoán được đến bao giờ và làm thế nào để bẻ gãy được sự kháng cự tuyệt vọng của Na, người mà hiện nay cũng như trước đây không bao giờ muốn nghe nói đến biên giới cũ.

Trong thời gian này, các thống chế của Napoleon gặp hết rủi ro này đến rủi ro khác. ở phía nam, quân đội Anh của Oen-linh-tơn tiến về Booc-đô, sau khi đã đánh lui được các thống chế Xun và Xuy-sê. Khuyếch trương chiến quả. Svác-xen-be tiếp tục đánh Mắc-đô-nan và U-đi-nô. Không để cho quân đội và chính mình có thời gian nghỉ ngơi sau trận La-ông. Napoleon lao vào đánh quân đoàn Nga, Phổ đang chiếm đóng ở Rem của viên tướng công tước Xanh Pri, một kẻ lưu vong người Pháp chạy sang phục vụ nước Nga. Trận Rem (ngày 13 tháng 3) đã kết thúc bằng cuộc chạy dài của quân Liên minh, với một nửa số quân bị mất và Xanh Pri chết trận. Nhưng những chiến thắng mới ấy không thể làm thay đổi gì tình thế, vì quân Liên minh đã kiên quyết không nhân nhượng, và Napoleon cũng kiên quyết không chấp nhận những điều kiện của phe Liên minh và thà mất hết, kể cả ngai vàng, còn hơn chịu để đế quốc phải thu hẹp lại trong những đường biên giới cũ. Khi Cô-lanh-cua, theo lệnh của Na, tuyên bố với các đại biểu Anh, Nga, Phổ và áo họp ở hội nghị Sa-ti-ông rằng Napoleon dứt khoát gạt bỏ những đề nghị của họ, và đòi tả ngạn sông Ranh cùng với Cô-lô-nhơ và May-ăng, Ăng-ve và Phlăng-đrơ, Xa-voa và Ni-xơ vẫn nằm trong biên giới của đế quốc như trước đây, thì cuộc đàm phán cũng bị tan vỡ. Vượt qua phòng tuyến của Napoleon và các vị trí tiền tiêu của quân Nga, bá tước Vi-tơ-ron, tay sai của buyên Buốc-bông và mật phái của Tan-lây-răng, đã từ Pa-ri đến bản doanh của quân Liên minh ngày 17 tháng 3 và được A-lếch-xan tiếp đón ngay. Y đem đến cho A-lêch-xan tin tức và ý kiến của Tan-lây-răng cho rằng quân Liên minh phải tiến gấp về Pa-ri chứ không nên đuổi theo Na; Vi-tơ-ron còn nói chắc rằng ở Pa-ri người ta đang chờ quân Liên minh, và khi họ tới, người ta có thể sẽ tuyên bố ngay sự truất ngôi hoàng đế của Napoleon và sự lên ngôi của Lu-i XVIII (như lâu nay bá tước xứ Prô-văng vẫn tự xưng) để phục hưng dòng họ Buốc-bông). Nhưng Vi-tơ-ron đã hoảng hốt rụng rời khi phát hiện được rằng mặc dầu A-lếch-xan rất mong muốn Napoleon sụp đổ, song lại cho rằng quân Liên minh tuyệt đối không nên can thiệp vào sự lựa chọn người kế nghiệp Na, và Nga hoàng lại đã coi nền cộng hoà như một giải pháp tốt đẹp. Vi-tơ-ron không còn tin ở hai tai của hắn nữa. "Lạy chúa, rồi chúng ta sẽ đi đến đâu?". Vi-tơ-ron thốt lên như vậy khi báo cáo lại cuộc gặp gỡ. Hình như A-lếch-xan đã bị cái thực tế sau đây đập mạnh vào óc: những sự phản kháng ở Pháp bắt đầu mang tính chất một cuộc kháng chiến của nước Pháp sau Cách mạng chống lại quân đội nước ngoài kéo vào để lập lại chế độ xã hội cũ và phục hưng dòng họ Buốc-bông, và hình như hiểu rằng tình thế này sẽ củng cố vị trí của Napoleon đến mức nào, một con người luôn luôn đáng sợ và luôn luôn chiến thắng, nên A-lếch-xan đã không muốn đặt nước Pháp, và nhất là "đám dân đen" của nước Pháp đứng trước hai con đường: Napoleon hay là bọn Buốc-bông. A-lếch-xan đã đặt họ đứng trước hai con đường khác: Napoleon hay chế độ cộng hoà. Đó là một mánh lới tinh vi, nhưng khối óc chật chội của kẻ nịnh thần chính thống và tên lưu vong Vi-tơ-ron không thể nào hiểu được điều đó nên hắn đã sững sờ kinh ngạc ki phát hiện ra cái chủ nghĩa Cộng hoà Pháp của Sa hoàng của toàn thể các quốc gia Nga. A-lếch-xan luôn luôn xác định rằng bọn Buốc-bông và những tên Vi-tơ-ron tuyệt chẳng hiểu chút gì về tình trạng tư tưởng ở Pháp, nhưng ông ta cũng chú ý đến lời khuyên của Tan-lây-răng do Vi-tơ-ron đem lại cùng lúc với một bức thư không ký tên và cố ý viết ngoằn ngoèo như một người tập viết. Sợ bị mất đầu, vì Vi-tơ-ron có thể bị cảnh binh của Napoleon bắt dữ ở dọc đường, và mặc dầu chữ viết khác đi và sai văn phạm, cảnh binh vẫn có thể truy ra được, nên Tan-lây-răng đã khẩn khoản khuyên A-lếch-xan và phe Liên minh tiến quân về Pa-ri, dù có phải bỏ Napoleon còn chưa bị đánh quỵ và ở hai bên sườn. Nguy cơ không phải từ trong bản chất của tên phản bội quỷ quyệt Tan-lây-răng mà ra, song lại ở chỗ hắn đã hoàn toàn biết rõ tình trạng dao động và hoang mang đang bao trùm lên Pa-ri, từ dân chúng đến quân đội.

Ngày 20 tháng 3, trận ác-xít-xuya Ô-bơ đã diễn ra giữa Napoleon lúc đó ở gần 3 vạn quân với quân Liên minh do Svác-xen-be chỉ huy lúc đầu giao chiến có ngót 11 vạn quân và sau này cuối trận đánh đã điều động tới gần 9 vạn. Mặc dầu Napoleon đã giành phần thắng và thực tế đã đánh lui được quân địch trên nhiều điểm, nhưng kết quả trận đánh vẫn chưa rõ rệt: Napoleon không truy kích Svác-xen-be, đã vượt qua sông Ô-bơ và phá cầu. Trong trận này, Napoleon mất 3 nghìn người, quân Liên minh mất 9 nghìn, nhưng cả lần này nữa, Napoleon đã không thể tiêu diệt được quân Liên minh. Quân Liên minh kinh sợ một cuộc chiến đấu dân tộc, một cuộc dấy lên của toàn dân Pháp như cuộc chiến tranh trong thời kỳ Cách mạng anh hùng đã cứu nước Pháp thoát khỏi cuộc xâm lược của nước ngoài và sự phục hưng của triều đại Buốc-bông... Nhưng A-lếch-xan, Phri-đrích, Vin-hen, Phran-xơ, Svác-xen-be và Mét-te-ních hẳn sẽ yên tâm nếu họ được nghe câu chuyện giữa Napoleon và tướng Xê-bát-xti-a-ni sau trận ác-xit-xuya Ô-bơ. "Này, tướng quân, tình hình này tướng quân bảo sao?". "Hạ thần cho rằng chắc hẳn hoàng thượng còn nhiều nguồn dự trữ khác mà hạ thần không biết tới". "Chỉ có thế thôi đấy, chẳng còn gì nữa đâu". "Vậy sao hoàng thượng không nghĩ đến việc kích động quốc dân đứng lên". "ảo tưởng, thật là ảo tưởng nếu vay mượn kinh nghiệm của cuộc chiến tranh Tay Ban Nha và của cuộc Cách mạng Pháp, nếu kích động nhân dân của cái nước mà cách mạng đã thủ tiêu bọn quyền quý và bọ tăng lữ, mà chính bản thân tôi thì lại là thủ tiêu cách mạng. Napoleon đã thấu suốt sự thể: đã thừa sức kiên trì trong việc thủ tiêu. Mọi dấu tích của cách mạng, thì bây giờ đây, trong cuộc chiến đấu sống mái để giữ lấy Pa-ri này, dẫu cho Napoleon có muốn chăng nữa cũng không thể kêu gọi được sự giúp đỡ của cuộc Cách mạng Pháp mà trước kia ông ta đã chà đạp và bóp nghẹt được. Cuộc nói chuyện trên đây giữa Napoleon và tướng Xê-bát-xti-a-ni xảy ra ba ngày sau cuộc hội đàm giữa A-lếch-xan và Vi-tơ-ron: Napoleon coi việc động viên quần chúng đông đảo nổi dậy với tinh thần, khí thế như năm 1792 - mà kết thúc là sự tuyên bố thành lập nền cộng hoà - là ảo tưởng; còn như A-lếch-xan, kẻ thù không đội trời chung của ông, thì đúng là đang muốn tước bỏ mọi chỗ dựa của Napoleon ở trong nhân dân Pháp bằng cách khơi động, vẽ ra trước mắt họ sự phục hưng chế độ cộng hoà.

Sau trận ác-xit-xuya Ô-bơ, Napoleon định đánh vào hậu phương của quân địch để cắt đứt liên lạc của họ với sông Ranh, nhưng quân Liên minh đã quyết tâm tiến thẳng về Pa-ri. Những bức thư của hoàng hậu Ma-ri Lu-i-dơ và của bộ trưởng Bộ công an Xa-va-ri viết cho Na, bị quân Cô-dắc chặn bắt được, đã làm cho. A-lếch-xan tin chắc rằng ở Pa-ri người ta không hy vọng gì vào cuộc kháng toàn dân và nếu quân Liên minh vào được thủ đô thì sẽ kết thúc được chiến tranh, sẽ quyết định luôn cả sự sụp đổ của Na. Quân Liên minh đi được đến bước quyết định ấy là nhờ có Pốt-dô đi Boóc-gô, người đảo Coóc; Boóc-gô là kẻ vốn có mối thù với Napoleon từ lâu, và chính vì thế nên đã được A-lếch-xan tin cậy.

Sau trận ác-xit-xuya Ô-bơ, khi quân Liên minh được tin là Napoleon định cắt đường liên lạc của họ, thì Boóc-gô tuyên bố: "Mục tiêu của chiến tranh là ở Pải. Chừng nào các ngài còn nghĩ đến giao chiến thì các ngài còn bị đánh bại, vì bao giờ Napoleon cũng nghênh chiến hơn các ngài, và vi binh lính của Na, mặc dầu bất mãn nhưng do danh dự thôi thúc, họ sẽ hy sinh đến người cuối cùng ở bên cạnh Na. Dẫu quyền lực quân sự của Napoleon có bị phá tan, Napoleon vẫn vĩ đại, rất vĩ đại nữa kia, và dẫu thiên tài của Napoleon có bị đánh đổ, song vẫn vĩ đại hơn các ngài. Nhưng quyền lực chính trị của Napoleon thì đã bị thủ tiêu. Thời thế đã thay đổi. Nền chuyên chế quân sự được thừa nhận là một công lao sau ngày Cách mạng, nhưng kết quả của nó đã bị lên án từ lâu và hoàn toàn bị mất tín nhiệm... Phải tìm cách chấm dứt chiến tranh bằng chính trị, chứ không phải bằng quân sự, và muốn thế thì ngay khi địch có một chỗ hở nào đó có thể thọc qua được, và các ngài hãy lợi dụng ngay chỗ đó, cấp tốc kéo về Pa-ri, dùng ngón tay khẽ đụng vào Pa-ri, chỉ cần dùng ngón tay thôi, là kẻ khổng lồ ấy sẽ bị đổ nhào. Các ngài sẽ bẻ gãy được thanh kiếm mà các ngài không thể nào tước nổi được của hắn ta". Pốt-đô đi Bốc-gô tin chắc rằng nhân dân đã quên bẵng dòng họ Buốc-bông, như hắn đã nói với khối Liên minh, vả lại chính khối Liên minh cũng đã nhận định như vậy. Phe Liên minh đồng ý với Boóc-gô về điểm cho rằng sau khi Napoleon đã bị lật đổ thì dòng họ Buốc-bông sẽ trở thành "có khả năng". thấy có khả năng thanh toán được Napoleon mà không phải trở lại cái vấn đề cộng hoà vô cùng khó chịu, A-lếch-xan cho là không cần thiết phải nói tới nền cộng hoà nữa. Quân Liên minh quyết định hành động mạo hiểm. Lúc này Napoleon đang đi xa, cũng đúng là để đánh vụ hồi vào sau lưng quân Liên minh nhằm kìm chân họ lại không cho tiến lại gần Pa-ri. L-uôi dụng sự đi xa ấy của Napoleon và tin tưởng vào bọn phản bội sẽ nộp kinh thành trước khi đích thân ông hoàng đế về được đến nơi, nên quân Liên minh đã quyết định tiến thẳng đến Pa-ri. Đường về Pa-ri do hai thống chế Mác-mông và Moóc-chi-ê cùng với hai tướng Pắc-hốt và A-mây án ngữ: cả thảy có hai vạn rưởi quân. Napoleon đã cùng với quân chủ lực tiến xa về phía đông. Ngày 25 tháng 3, thắng trận ớ Phe Săm-pơ-noa, quân Liên minh đã đẩy lùi được hai thống chế trên đường về Pa-ri và 10 vạn quân Liên minh đã xuất hiện ở ngoại vi thủ đô. Ngày 29 tháng 3, hoàng hậu Ma-ri Lu-i-dơ rời Pa-ri đi Bloa cùng với chú vua nhỏ thành Rôm. Để phòng giữ Pa-ri, quân Pháp bố trí khoảng 4 vạn quân. Khủng khiếp đè nặng kinh thành, tinh thần quân đội bạc nhượng. A-lếch-xan muốn tránh được một cuộc đổ máu dưới chân thành Pa-ri giả bộ đóng vai một kẻ chiến thắng đại lượng. "Thiếu lực lượng phòng giữ và thiếu người thủ lĩnh vĩ đại, Pa-ri không thể kháng cự được; tôi tin tưởng sâu sắc như vậy", đó là lời của Sa hoàng nói với Oóc-lốp trong lúc trao cho óc-lốp tờ thiếp trắng để đình chỉ trận đánh mỗi khi thấy hé ra hy vọng thủ đô Pháp sẽ đầu hàng không chiến đấu. Trận đánh ác liệt diễn ra nhiều giờ liền; quân Liên minh đã hao tổn 9 nghìn người, trong đó có chừng 6 nghìn quân Nga, nhưng rã rời vì lo sợ bị thất bại và bị Tan-lây-răng thúc đẩy nên ngày 30 tháng 3, vào hồi 5 giờ chiều, thống chế Mac-mông đã đầu hàng.

Napoleon nhận được tin quân Liên minh đánh bất ngờ vào Pa-ri giữa lúc ông ta đang giao chiến ở khoảng giữa Xanh Đi-đi-ê và Ba-xuya Ông-bơ. "Thật là một trận thất bại hoàn toàn. Và chưa bao giờ tôi ngờ được rằng tướng tá của quân Liên minh lại có thể làm được việc đó!". Napoleon nói như vậy vào ngày 27 tháng 3, khi người ta báo cho ông tin ấy. Những lời khen ngợi ấy, trước hết, là lời của một nhà chiến lược trong người Na. Napoleon cùng với bộ đội cấp tốc quay về Pa-ri. Về đến Phông-ten-nơ-blô đêm 30 tháng 3, Napoleon được tin trận đánh vừa kết thúc và Pa-ri đã đầu hàng. Cũng như bất cứ bao giờ, Napoleon vẫn đầy cương nghị và kiên quyết. Sau khi năm được tình hình của sự biến, Napoleon im lặng mười năm phút, rồi trình bày cho Cô-lanh-cua và các tướng tá bên cạnh ông biết kế hoạch mới, Cô-lanh-cua về Pa-ri để nhân danh Napoleon giảng hoà với A-lếch-xan và quân Liên minh, với những điều kiện như hội nghị Sa-ti-ông đã đề ra. Cô-lanh-cua phải làm sao tìm đủ mọi cớ để đi đi lại lại giữa Pa-ri và Phông-ten-nơ-blô nhằm kéo dài thời gian ra ba ngày, thời gian cân thiết để Napoleon có thể điều động mọi lực lượng sẵn có từ vùng Xanh Đi-đi-ê về, sau đó sẽ tống cổ quân Liên minh ra khỏi Pa-ri. Cô-lanh-cua ấp úng hỏi rằng tại sao không thể đem lại cho phe Liên minh một hoà ước thật sự, không phải là một thủ đoạn chiến tranh. "Không, không ! - Hoàng đế ngắt lời - Không thể bị ê chề! Không thể hoà bình nhục nhã! Đây là vấn đề thanh danh của nước Pháp, vinh dự của nước Pháp! Trong trận chiến đấu cuối cùng, chỉ có gươm đao, gươm đao phải quyết định điều đó!..." Cô-lanh-cua lại đi ngay Pa-ri, còn Napoleon lại dốc hết tâm lực để chuẩn bị gấp rút cho trận đánh, trong ba, bốn hôm nữa sẽ diễn ra, theo dự kiến của ông ta. Chủ yếu Napoleon cho rằng trong thời gian ngắn ngủi ấy, quân Liên minh không thể tiến hành được một cuộc vận động chính trị quyết định nào có thể làm mất tinh thần và lôi kéo quần chúng đang do dự ngả về phía họ. Chính vì vậy mà Napoleon đã bày ra màn kịch đàm phán này và còn chịu nhận cả những điều kiện mà trước đây hai tuần Napoleon đã miệt thị bác bỏ. Nhưng tình thế đã hoàn toàn không cứu vãn được nữa. Bọn bảo hoàng vui mừng đón chào các vua chúa phe Liên minh tiến vào Pa-ri, đông đảo quần chúng nhân dân giữ thái độ lạnh nhạt và chịu khuất phục, tất cả những điều đó nói lên rằng thủ đô sẽ chấp nhận cái chính phủ mà người ta sẽ đặt ra cho họ. Trong một bản tuyên bố, bọn vua chúa Liên minh nói rằng bọn họ séc không đàm phán với Na, họ sẽ công nhận chính phủ và chính thể nào mà dân tộc Pháp ưng thuận lựa chọn. Như vậy là cuộc đàm phán của Cô-lanh-cua với quân Liên minh đã không mang lại chút kết quả gì. A-lếch-xan nói trắng ra với Cô-lanh-cua rằng nước Pháp đã quá chán ghét Na, đã quá mệt mỏi vì ông ta. Svac-xen-be nhắc lại bằng một giọng chua chát rằng Napoleon đã làm rung chuyển cả thế giới trong 18 năm trời và không một ai có thể sống yên ổn được với Na; người ta đã không ngừng đem lại cho ông ta hoà bình, bằng cách công nhận đế quốc của ông ta nhưng ông ta ko muốn nhượng bộ chút gì; bây giờ thì cũng đã quá muộn rồi. Trong lúc nói như vậy, Svac-xen-be không biết rằng ngay cả lúc ấy Ná vẫn không muốn nhân nhượng một chút gì và đã cử Cô-lanh-cua đến chỉ là cướp lấy ba ngày cho bộ đội của ông ta kịp về tới. Khi quay về với Na, Cô-lanh-cua thấy tình hình như sau: quân đội đang kéo về tập trung dần dần: ông hoàng đế tính đến ngày 5 tháng 4 sẽ có trong tay 7 vạn quân và sẽ cầm đầu đoàn quân đó tiến về Pa-ri. Sáng ngày 4, Napoleon đi duyệt đội ngũ. hoàng đế nói: "Hỡi các binh sĩ, quân thù đã chiếm của chúng ta ba biên trấn, chúng đã tới làm chủ Pa-ri. Phải tống cổ chúng đi! Những tên Pháp gian, những tên lưu vong, mà xưa kia chúng ta đã nhu nhược không trừng trị, đã cấu kết với nước Anh và đã trương cờ trắng. Những kẻ hèn hạ đó! Chúng sẽ phải đền tội một cách thích đáng. chúng ta hãy thề thắng trận hoặc là chết, hãy thề rửa nhục cho tôi quốc và quân đội chúng ta". Binh sĩ hô lớn: "Xin thề!". Nhưng sau khi duyệt binh, quay về lâu đài thì ở đó hoàng đế thấy một tình hình tư tưởng hoàn toàn khác. Các thống chế U-đi-nô, Nây, Măc-đo-nan, Bec-ti-ê, công tước Bat-xa-nô đứng trước Napoleon với vẻ rầu rĩ lặng lẽ và không ai dám nói một lời. Napoleon gặng hỏi. Họ trả lời rằng họ không còn hy vọng chiến thắng nữa, rằng toàn thể nhân dân Pa-ri, không phân biệt chính kiến, đều run sợ khi biết hoàng đế chuẩn bị công kích quân Liên đã có ở trong thủ đô; như vậy, cuộc tiến công đó có nghĩa là thủ tiêu dân chúng và thành phố, bởi vì quân Liên minh tất sẽ đốt cháy Pa-ri để trả thù cho Mat-xcơ-va trước đây, và sẽ gặp khó khăn trong việc chỉ huy quân lính chiến đấu giữa cảnh hoang tàn của Pa-ri. "Các người đi ra - Napoleon nói - tôi sẽ gọi và sẽ nói cho các người rõ ý định của tôi". Hoàng đế chỉ giữ lại Cô-lanh-cua, Bec-ti-ê và công tước Bat-xa-nô và ông tức tực phàn nàn về tinh thần do dự và bạc nhượng của các thống chế, về sự thiếu tận tuỵ của họ đối với hoàng đế. Sau vài phút, hoàng đế tuyên bố với các thống chế rằng ông sẽ thoái vị, nhường ngôi cho con là chú vua nhỏ thành Rôm, trao quyền nhiếp chính cho hoàng hậu Ma-ri Lu-i-dơ, và nếu quân Liên minh ưng thuận ký hoà ước với điều kiện như vậy thì chiến tranh sẽ kết thúc; ông sẽ cử Cô-lanh-cua đến Pa-ri, mang theo những kiến nghị đó, để thương lượng với quân Liên minh.

Rồi Napoleon đọc cho các thống chế nghe bản tuyên bố mà ông vừa mới thảo xong: "Các cường quốc Liên minh đã tuyên bố hoàng đế Napoleon là trở lực duy nhất cho việc lập lại hoà bình ở Châu Âu; trung thành với những lời thề của mình, hoàng đế Na. tuyên bố rằng: Vì lợi ích của Tổ quốc gắn liền với quyền lợi của con hoàng đế, với quyền chấp chính của hoàng hậu và với việc duy trì luật pháp của đế chế, hoàng đế sẵn sàng thoái vị, rời bỏ nước Pháp và nếu cần cả cuộc đời nữa". Các thống chế nhiệt liệt tán thành bản tuyên bố ấy. Sau khi đọc lại, hoàng đế cầm bút nhưng trước khi ký đã nói: "Này, các ông hay tin ở tôi, sáng mai chúng ta sẽ đi và sẽ còn đánh bọn nó!". Nhưng các thống chế im lặng. Không một ai hưởng ứng những lời nói ấy. Napoleon ký, rồi giao văn kiện cho một đoàn đại biểu gồm Cô-lanh-cua, Nây, Măc-đo-nan. Bọn họ liền đi Pa-ri ngay. Cũng trong lúc đó, biết bao biến cố đã xảy ra ở Pa-ri, Tan-lây-răng nhóm họp cấp tốc một bộ phận của Thượng nghị viện - gồm những kẻ được Tan-lây-răng tin cậy - đã biểu quyết truất ngôi dòng họ Bô-na-pác và lập lại dòng họ Buốc-bông và biến cố nghiêm trọng hơn nữa là Mắc-mông phản bội hoàng đế, đã cùng với quân đoàn của y rút về Véc-xây, như vậy là y đã chạy sang hàng ngũ Tan-lây-răng và "chính phủ lâm thời" do Tan-lây-răng điều khiển. Thoạt tiên, A-lếch-xan do dự: cả A-lếch-xan lẫn ông hoàng đế Phan-xơ đều không phản đối gì lắm việc chú bé "Napoleon đệ nhị" lên ngôi, nhưng bọn bảo hoàng đứng vây quanh bọn vua chúa Liên minh đã năn nỉ cố sao cho những đề nghị của Napoleon bị bác bỏ. Nhưng rồi họ đã không do dự nữa khi nhận được tin Mác-mông phản bội. Sự phản bội của các lực lượng chủ lực, do Napoleon trực tiếp chỉ huy đã làm cho Napoleon không thể tiến về Pa-ri được nữa, và phe Liên minh đã quyết định trao ngai vàng cho dòng họ Buốc-bông. Khi Cô-lanh-cua từ giã Sa hoàng trở về, A-lếch-xan nói rằng: "Ngài hãy khuyên nhủ hoàng đế của ngài nên tuân theo số mệnh". Để một lần nữa tỏ lòng khâm phục "con người vĩ đại", A-lếch-xan nói tiếp: "Tôi sẽ làm tất cả những điều có thể làm được vì danh dự của Na". Trước khi Cô-lanh-cua đi. phe Liên minh yêu cầu Cô-lanh-cua cố nói sao cho hoàng đế thoái vị không điều kiện: người ta hứa với Cô-lanh-cua rằng sẽ giữ danh hiệu hoàng đế cho Napoleon và giao cho ông ta toàn quyền sở hữu đảo En-bơ, đồng thời họ nài nẫm về bản tuyên bố thoái vị được ký càng sớm càng hay. Phe Liên minh và bọn bảo hoàng do Tan-lây-răng cầm đầu lúc này Tan-lây-răng đã ngang nhiên đứng về phía quân Liên minh đều lo sợ trước một cuộc nội chiến có thể xảy ra và trước việc số đông quần chúng binh sĩ vẫn tuyệt đối trung thành với Na. Chỉ có thể diệt trừ được những sự rối loạn khi bản thân ông hoàng đế ấy chính thức tuyên bố thoái vị. Lúc này nghị quyết của Thượng nghị viện chẳng có một chút giá trị gì về mặt tinh thần: người ta coi các Thượng nghị sĩ như những kẻ tôi tớ của Na, họ đã phản bội người chủ của họ không một chút do dự để đi hầu hạ một người chủ khác. Khi nói chuyện với A-lếch-xan, Nây đã thốt lên: "Cái Thượng nghị viện khốn kiếp ấy, đáng lẽ nó có thể làm cho chúng ta tránh được mọi đau khổ bằng cách bề bỉ như thế nào để chống lại khát vọng xâm lược của Na; cái Thượng nghị viên khốn kiếp ấy, nó luôn luôn chịu vâng theo ý chí của con người mà ngày hôm nay nó gọi là bạo chúa, thế thì cái Thượng nghị viện ấy có quyền gì lên tiếng vào lúc này?. Nó đã nín khít cần phải nói, vậy thì hiện nay ai cho phép nó được nói trong khi tất cả đều bắt nó phải câm đi". Chỉ Na, đích thân Na, nói một lời mới có thể chấm dứt được tình trạng lưỡng nan nặng nề này, và có thể giải được lời thề khi xưa cho binh lính, sĩ quan, tướng lĩnh và viên chức của Na. Đó là ý nghĩ của những người Pháp thuộc bất cứ đảng phái nào cũng như của phe Liên minh.

Tối ngày 5 tháng 4, Cô-lanh-cua, Nây và Mắc-đô-nan từ Pa-ri về đến Phông-ten-nơ-blô. Sau khi báo cáo với Napoleon về những cuộc bàn bạc với A-lếch-xan và phe Liên minh, Cô-lanh-cua, Nây và Mắc-đo-nan khuyên Napoleon nên chịu theo tình thế; Napoleon nói rằng ông vẫn còn có một đạo quân, binh lính vẫn trung thành với ông. "Vả lại rồi khắc biết!... Mai đây!". Sau khi mọi người ra, Napoleon cho gọi Cô-lanh-cua tới. "Cô-lanh-cua ạ, người đời, chao ôi, người đời!... Napoleon kêu lên như vậy trong cuộc chuyện trò kéo dài suốt đêm ấy. Các thống chế của tôi đi theo con đường của Mác-mông, rồi họ sẽ lấy làm hổ thẹn, vì khi nói đến Mác-mông lòng họ đầy giận giữ, nhưng họ cũng rất đáng giận bởi họ đã thả mình lao trên con đường danh lợi! Họ rất muốn được giữ nguyên chức vị dưới triều đại Buốc-bông mà không bị ô danh như Mác-mông". Napoleon đã nói rất nhiều về việc Mác-mông phản bội ông ta trong giờ phút quyết định ấy. "Tên khốn kiếp không biết cái gì đang đợi chờ nó: tên tuổi của nó sẽ bị ô nhục. Tôi không nghĩ đến tôi nữa, ông hãy tin như vậy, sự nghiệp của tôi đã hết hoặc sắp hết rồi. Vả lại, khi lòng người đã chán tôi và hướng về người khác, liệu còn thích thú gì nữa mà trị vì? Tôi nghĩ đến nước Pháp... Chà! Nếu bọn đớn hèn ấy không bỏ tôi, thì chỉ trong bốn tiếng đồng hồ là tôi sẽ khôi phục được thanh danh, ông hãy tin là thế, bởi vì với vị trí hiện nay của quân Liên minh, sau lưng chúng là Pa-ri và trước mặt chúng là tôi chúng nhất định bị tiêu diệt. Để thoát khỏi nguy cơ đó, bọn chúng buộc phải rút khỏi Pa-ri và sẽ không bao giờ trở lại được nữa. Thằng m,, khốn khiếp ấy đã phá hoại cái kết quả tốt đẹp đó, nếu không, nhất định là chúng ta cách để vươn dậy trong khi kéo dài chiến tranh. Tôi được tin rằng ở, khắp mọi nơi, nông đân vùng Lo-ren, Săm-pa-nhơ, Buốc-gơ-nhơ chọc tiết những quân địch đi lẻ. Hơn nữa, bọn B,, hiện đã về, có trời biết được cái gì sẽ đi theo chúng nó. Chúng nó là cái gì? Là hoà bình đối với nước ngoài, nhưng chiến tranh ở trong ước. Một năm nữa rồi ông thấy bọn chúng sẽ làm được những gì cho đất nước. Nhưng, bây giờ đây lại cần một cái gì khác chứ không phải tôi. Tên tuổi, hình ảnh, thanh kiếm của tôi đã gây sợ hãi. Đành phải chịu. Tôi sẽ gọi các thống chế đến, và ông sẽ thấy bọn họ vui mừng khi được tôi gỡ cho họ khỏi chỗ bối rối và cho phép họ làm như m,, mà vẫn giữ trọn được danh dự". Đêm ấy, Na-pô-lê-ông thổ lộ với Cô-lanh-cua tất cả những điều mà chắc chắn là ông đã ngẫm nghĩ từ lâu; trong đó, điều nổi bật lên cự kỳ rõ rệt là sự mệt mỏi kinh khủng, chưa từng có của đất nước đang không sao chịu đựng được nữa cái triều đại đẫm máu, cái trò nướng sinh mạng không dứt, những cuộc tàn sát rùng rợn, những sự hiến dâng bao nhiêu thế hệ hy sinh cho mục đích không thể hiểu được. "Tôi muốn giữ vững cho nước Pháp là một đế quốc hoàn cầu", Na-pô-lê-ông đã thành thật thú nhận như vậy vào năm 1814; lúc ấy, ông ta không biết rằng những thế hệ mai sau sẽ được chứng kiến một trường phái những nhà sử học yêu nước Pháp cố công gắng sức chứng minh rằng Na-pô-lê-ông suốt đời không đánh ai, mà chỉ là để tự vệ; nếu Na-pô-lê-ông đã đến Viên, Mi-lan, Ma-drit, Béc-lin, Mát-xcơ-va thì duy nhất chỉ là bảo vệ "biên giới thiên nhiên" của nước Pháp, và đến sông Mát-xcơ-va là để "bảo vệ" sông Ranh. Song chính Na-pô-lê-ông lại không nghĩ ra được lời giải thích đó. Như vậy, n,, còn thành thật hơn nhiều. Ông ta cũng không biết được con số tổng kê chính xác về các cuộc chiến tranh của mình; mãi mới đây, sau khi tìm kiếm trong toàn bộ những tài liệu lưu trữ chính thức và những tư liệu khác, An-be May-ni-ê mới xác định được, theo thống kê của ông, số công dân Pháp bị chết và bị mất tích trong các trận đánh và cách chiến dịch dưới thời Na-pô-lê-ông đã lên tới trên 1 triệu người (47 vạn người 1 nghìn người bị giết chính thức ghi chép trong sổ sách và 53 vạn người mất tích hẳn). Đó là không kể số người bị thương nặng, bị tàn phế, không chết ngay ở chiến trường, mà ít lâu sau mới chết trong các viện quân y vì các vết thương của họ. Những con tính của May-ni-ê không bao gồm toàn đế quốc Na-pô-lê-ông, chỉ bao gồm : nước Pháp cũ" những "quận cũ", nghĩa là không phải toàn bộ đất đai do Na-pô-lê-ông trị vì kể từ ngày 18 tháng Sương mù (bởi vì không tính nước Bỉ, xứ Pi-ê-mông, và những đất đai khác mà Cách mạng và bản thân n,, đã chiếm được trước ngày ông ta làm đảo chính), chỉ tính có nước Pháp trong phạm vi những đường biên giới vào năm 1799. Ngoài ra, cũng còn chưa tính đến tất cả các cuộc chiến tranh mà Na-pô-lê-ông đã tiến hành từ năm 1800 (nói một cách khác là còn gác ra ngoài những con số thiệt hại trong chiến dịch đầu tiên ở ý vào năm 1796-1797, trong cuộc chiến tranh ở Ai Cập và ở Xi-ri).

Như vậy là với dân số 26 triệu người, kể cả đàn bà và trẻ con, "các quận cũ" đã mất hơn 1 triệu người trong các cuộc chiến tranh của Na-pô-lê-ông. Na-pô-lê-ông không thể biết được điều đó một cách chính xác như vậy, tuy nhiên Na-pô-lê-ông cũng thấy được những làng mạc bị thưa thớt bởi những cuộc trưng binh, cũng thấy được những bãi chiến trường của vô số trận giao tranh của mình. Đôi lúc, chính bản thân Na-pô-lê-ông cũng thấy bồn chồn lo lắng và ông ta cố gắng an ủi người khác bằng cách vạch ra cho họ thấy binh lính trong quân đội Pháp, tức là tất cả những người lính Đức, Thuỵ Điển, ý, Bỉ, hà Lan, ba Lan, I-ly-ri, v.v. đã bị tiêu diệt nhiều hơn lính Pháp. nhưng sự tổn thất ba hoặc bố triệu người ngoại quốc, chiến đấu trong quân đội Na-pô-lê-ông, là một sự an ủi chẳng có giá trị gì đối với sự tổn thất một triệu người Pháp "chính cống". Với Na-pô-lê-ông, hàng triệu quân địch bị giết, bị mất tích, bị tàn phá đã chẳng đáng để ông nói đến bao giờ. Trong suốt đêm dài ấy, đêm Na-pô-lê-ông đi đi lại lại trong những căn phòng của lâu đài Phông-ten-nơ-blô nguy nga và tẻ ngắt đó, đối diện Cô-lanh-cua, làm một cuộc tổng kết, Na-pô-lê-ông chỉ rút ra một kết luận chủ yếu sau đây : Na-pô-lê-ông đã làm cho nước Pháp bị mệt mỏi suy nhược, đất nước đang sức cùng lực kiệt; chắc chắn bọ Buốc-bông chẳng làm nổi trò trống gì và sẽ không ai làm được việc hơn Na-pô-lê-ông là được. Trong những ngày tháng 4 ấy, người ta báo cho Na-pô-lê-ông biết rằng nếu như các nhà buôn ở Pa-ri và giai cấp tư sản không nhiệt tình đón tiếp quân Liên minh bằng giới quý tộc bảo hoàng thì họ cũng đã lớn tiếng nói rằng họ bị chiến tranh tàn phá và xô đẩy đến bước đường cùng. Có thể nói rằng đêm ấy Na-pô-lê-ông không ngủ. Bình minh ngày mồng 6 tháng 4 hé rạng; Na-pô-lê-ông cho gọi các thống chế đến và nói rằng : "Xin các vị cứ yên tâm. Cả các vị và cả quân đội, sẽ không ai phải đổ máu nữa. Tôi ưng thuận thoái vị không điều kiện. Tôi đã những muốn vì các vị cũng như gia đình tôi mà trao quyền thừa kế cho con trai tôi. Tôi thiết tưởng cái kết cục như vậy sẽ có lợi cho các ngài nhiều hơn là cho tôi, vì hẳn là các ngài sẽ được sống dưới một chính thể thích hợp với gốc xuất thân, với tình cảm và lợi ích của các ngài. Điều đó có thể làm được, nhưng một sự phản bội bất cính đã cướp mất của các ngài cái hoàn cảnh sống mà tôi mong mỏi đem lại cho các ngài. Đáng lẽ chúng ta có thể làm được nhiều việc khác nữa, chúng ta có thể khôi phục được nước Pháp, nếu quân đoàn thứ 6 (Mác-mông) không phản bội. Nhưng sự việc đã khác hẳn rồi. Tôi đành tuân theo số phận của tôi, các ngài hãy tuân theo số phận của các ngài. Các ngài hãy cam chịu sống dưới triều đại Buốc-bông và phục vụ trung thành bọn chúng... Các ngài mong mỏi được nghỉ ngơi, thì để những linh cảm của tôi thành sự thật! Thế hệ chúng ta được sinh ra không phải để nghỉ ngơi. cảnh hoà bình mà các ngài ao ước sẽ giết chết nhiều người trong các ngài nằm trên nhung đệm hơn là cảnh chiến tranh dầm mưa dãi tuyết. Rồi Na-pô-lê-ông cầm lấy tờ giấy và đọc cho các thống chế nghe : "Khi các cường quốc Liên minh đã tuyên bố hoàng đế Na-pô-lê-ông là trở lực duy nhất cho việc hoà bình lại ở châu Âu, thì hoàng đế Na-pô-lê-ông, trung thành với lời thề của mình, tuyên bố rằng hoàng đế và những người thừa kế của hoàng đế sẽ từ bỏ ngai vàng nước Pháp và nước ý, và vì lợi ích của nước Pháp, hoàng đế sẵn sàng hy sinh cá nhân, cho đến cả tính mạng của mình". Hoàng đế ngồi vào bàn và ký tên. Các thống chế cảm động và hôn tay ông và tíu tít tung ra hàng tràng những lời xu nịnh như họ đã từng làm trong suốt thời gian ông hoàng đế ấy trị vì. Cô-lanh cùng với hai thống chế đem ngay văn kiện ấy tới Pa-ri. A-lếch-xan và nghe Liên minh vô cùng lo lắng đợi chờ kết cục. Khi đã nắm được bản tuyên bố thoái vị trong tay họ vui mừng khôn xiết. A-lếch-xan ưng chuẩn đảo En-bơ sẽ hoàn toàn thuộc chủ quyền của Na-pô-lê-ông, và con trai Na-pô-lê-ông, ông vua nhỏ thành Rôm, cùng với Ma-ri Lu-i-dơ sẽ được cấp những đất đai gọi là những vương hầu độc lập ở ý. Tất cả đã xong xuôi.

Lúc này, Na-pô-lê-ông lại bị lôi cuốn vào cái ý nghĩ chắc hẳn đã nhiều lần ám ảnh ông trong suốt thời gian chiến dịch năm 1814, một chiến dịch vô cùng chói lọi về phương diện chiến lược, nhưng thực tế chỉ là một công trình truyệt vọng. Năm 1813, các thống chế, tướng lĩnh, sĩ quan, cần vụ và ngay cả binh lính đội cận vệ đều nhận thấy rằng ông hoàng đế đã liều mạng, tình thế đòi hỏi ông nhưng thực ra những trường hợp liều mạng ấy hoàn toàn vô ích, chứ không như trong các cuộc chiến tranh trước kia, ở cầu ác-côn năm 1796, hoặc ở bãi tha ma Ai-lau năm 1807.

Như chúng tôi đã nói, vào năm 1813, sau cái chết của Đuy-rốc, hoàng đế ngồi lặng lẽ một chốc trên một rễ cây, không nhúc nhích và như một tấm bia làm mồi cho những mảnh đạn đại bác đang tung toé quanh mình. Năm 1814, những hành động khác thường ấy lại thấy diễn ra nhiều hơn và không còn ai là người không hiểu ý nghĩa của chúng nữa. Rõ nhất là trong trận ác-xít xuya Ô-bơ ngày 20 tháng 3, khi nn, lại một lần nữa đi tới cái địa điểm mà chính Na-pô-lê-ông đã hạ lệnh cho binh sĩ rút lui vì không thể giữ được nữa, thì tướng éc-xen-man đã lao tới Na-pô-lê-ông để ngăn lại, nhưng thống chế Xê ba-xti-a-ni nói với hoàng đế éc-xen-man : "Để mặc hoàng đế. Ông không biết là hoàng đế đã có dụng ý sao, hoàng đế muốn kết liễu đời mình". Nhưng chẳng một làn đạn nào, một quả đạn đại bác nào muốn chạm vào hoàng đế.' Na-pô-lê-ông luôn luôn thấy rằng tự tử là biểu hiện của sự yếu đuối và hèn nhát, và trong trận ác-xit xuya Ô-bơ, cũng như trước đây, trong trường hợp tương tự vào năm 1813 và năm 1814, trong khi đi tìm cái chết bằng một sự tự tử biến hình, không tự tay mình kết liễu lấy cuộc đời thì hiển nhiên là Na-pô-lê-ông đã tự dối mình.

Nhưng ngày 11 tháng 4 năm 1814, tức là năm ngày sau khi Na-pô-lê-ông thoái vị, trong khi ở lâu đài Phông-ten-nơ-blô, người ta đang sửa soạn cho n,, đi ra đảo En-bơ thì sau khi cáo từ Cô-lanh-cua, người mà Na-pô-lê-ông dành nhiều thời gian để gặp gỡ trong những ngày cuối cùng đó, ông đã lui về phòng riêng của mình. Sau này người ta phát hiện những đồ dùng cần thiết khi đi chiến dịch mà ông ta luôn luôn đem theo bên mình. ở Phông-ten-nơ-blô, Na-pô-lê-ông phải cầu cứu đến nó và ông đã uống hết ống thuốc phiện. Những cơn đau đớn khủng khiếp đã dằn vặt ông dữ dội. Do linh tính báo trước điềm xấu, Cô-lanh-cua vào phòng của hoàng đế và tưởng rằng hoàng đế bất thần bị bệnh, đã định chạy vội đi tìm viên thầy thuốc riêng của hoàng đế, nhưng Na-pô-lê-ông yêu cầu Cô-lanh-cua đừng gọi ai cả và cũng lại đã giận dữ ra lệnh cấm Cô-lanh-cua làm việc ấy. Những cơn co giật mỗi lúc một ác liệt thêm, đến nỗi Cô-lanh-cua phải bỏ đi và đánh thức bác sĩ Y-ăng, người đã pha chế thuốc phiện cho hoàng đế sau trận Ma-lôi-a-rô-xla-vét. Nhìn thấy ống thuốc trên mặt bàn, bác sĩ hiểu ngay. Napoleon bắt đầu phàn nàn rằng thuốc độc quá yếu hoặc đã hả hơi, và nghiêm nghị đòi viên bác sĩ phải cho ngay một liều khác. Bác sĩ Y-ăng vội vàng rời căn phòng, vừa thề rằng sẽ không bao giờ phạm vào một tội lỗi như vậy lần thứ hai. Những cơn đau của Na-pô-lê-ông kéo dài trong vài giờ vì Na-pô-lê-ông không chịu uống thuốc giải độc. Na-pô-lê-ông nghiêm khắc yêu cầu giữ kín sự việc đã xảy ra. Sau nhiều cơ quằn quại khủng khiếp, Na-pô-lê-ông buột miệng nói : "Cái chết thật là khó, mà ở ngoài chiến trường thì lại dễ quá. Chao ôi! Sao tôi lại đã không chết ở ác-xit xuya ÔÄbơ". Thuốc độc không có năng lực giết người; từ đó Na-pô-lê-ông không quay lại ý định tự tử nữa và cũng không bao giờ nhắc lại việc đó. Việc chuẩn bị để lên đường đã xong. Theo những điều kiện đã quy định với quân Liên minh, ông hoàng đế được đem theo ra đảo En-bơ mọt tiểu đoàn trong đội cựu cận về. Ngày 20 tháng 4 năm 1814, tất cả đã sẵn sàng. Đoàn xe đưa Na-pô-lê-ông, một số nhân viên tuỳ tùng của ông ta và các uỷ viên của các cường quốc Liên minh đi theo hoàng đế ra đảo En-bơ, đã đậu thành hàng ở chân tường lâu đài. Na-pô-lê-ông muốn từ biệt đội cận vệ của ông. Đội cận vệ cũng đã đứng thành hàng ngũ ở trong sân chính lâu đài, một cái sân rộng lớn mà những nhà du lịch khi đến thăm quan Phông-ten-nơ-blô đều biết tiếng và nó đã được gọi là "sân vĩnh biệt". Đội cựu cận vệ cùng các sĩ quan và các tướng lĩnh xếp thành đội hình chiến đấu ở phía trước, đội cận vệ mới ở phía sau. Khi hoàng đế hiện ra, người cầm cờ hạ lá cờ của đội cựu cận vệ xuống chân hoàng đế. "Hỡi các binh sĩ trong đội cựu cận vệ của ta, xin vĩnh biệt các người. Từ hai mươi năm nay, ta thường xuyên cùng các người đi trên con đường của vinh dự và chiến công. Trong những ngày cuối cùng này, cũng như trong những ngày cường thịt trước kia của chúng ta, các người đã luôn luôn là mực thước của lòng dũng cảm và lòng trung nghĩa. Với những người như các người thì mục đích của chúng ta không thể nào thất bại được... nhưng biết đâu đó chẳng đã là nội chiến. Bởi vậy ta phải hy sinh mọi quyền lợi của chúng ta cho lợi ích của Tổ quốc. Ta đi. Các người, các bạn thân thiết của ta, hãy tiếp tục phục vụ nước Pháp... Xin vĩnh biệt các bạn! Ta những muốn ghì chặt tất cả các bạn vào lòng ta; nhưng thôi, đành hôn lá cờ của các bạn". Napoleon không thể nói được hơn nữa. Tiếng ông đã tắc nghẹn. Ông ôm hôn người cầm lá cờ, rồi bước nhanh lên xe. Đoàn xe chuyển bánh giữa những tiếng hô "hoàng đế muôn năm!". Nhiều binh lính cận vệ khóc nức nở. Thuật lại cảnh tượng ấy, báo chí Anh viết: "Thiên anh hùng ca, vĩ đại nhất của lịch sử thế giới đã chấm dứt: "Napoleon đã từ giã đội cận vệ của ông". Nhưng thực tế, thiên anh hùng ca hai mươi năm trời đó, bắt đầu từ tháng 12 năm 1793 ở Tu-lông đến tháng 4 năm 1814 ở Phông-ten-nơ-blô, chưa phải đã hoàn toàn chấm dứt. Napoleon hẳn còn làm cho thế giới không ngờ tới được, cái thế giới từ hai mươi năm qua dường như đã từng học thuộc chữ ngờ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3