Dream man - Chương 14 phần 2
Anh mỉm cười khi trông thấy bữa ăn đang chờ mình. “Bánh quế,” anh nói một cách biết ơn. “Anh đang tưởng là ngũ cốc cơ.”
Nàng cười. “Đó là thứ em thường ăn.”
“Anh thường tóm lấy một cái bán rán (doughnut), hay một cái bánh quy ăn sẵn.” Anh ngồi xuống và bắt đầu ăn với sự thích thú rành rành. Nàng chắt lưỡi một cách quở trách. “Toàn là ba mớ đồ béo và cholesterol.”
“Đó là những gì Trammell nói.”
“Hai anh đã là đồng sự được bao lâu rồi?” Nàng đã không ở gần Trammell nhiều lắm, nhưng nàng thích anh ta. Anh ta làm nàng nhớ tới một con báo, lanh lẹ và đẹp lạ, với cùng một sức mạnh mềm dẻo và nguy hiểm như thế.
“Chín năm. Bọn anh cùng chung một xe tuần tra với nhau trước khi đỗ làm thám tử, cùng một lúc.” Dane tiếp tục cần mẫn ăn bánh quế với sự hưởng ứng rõ ràng.
“Thế còn lâu hơn phần lớn các cuộc hôn nhân đấy.”
Anh cười toe toét. “Ừ, nhưng nếu anh phải ngủ với hắn, thì nó sẽ không tồn tại nổi lấy một ngày.”
“Anh đã bao giờ kết hôn chưa?” Nàng cắn môi ngay khi câu hỏi thành tiếng. Sự riêng tư của chính nàng đã được đặt ở một vị trí quan trọng gần hết cả đời nàng đến nỗi nàng hiếm khi hỏi bất kì một câu hỏi cá nhân nào. “Thôi. Quên em vừa hỏi đi.”
“Tại sao?” anh nhún vai. “Anh không quan tâm chuyện em đã hỏi. Anh chưa từng kết hôn, chưa từng đính hôn.” Anh hắng giọng, rõ ràng cảm thấy điều đó cần phải giải thích một chút. “Nhưng anh là đàn ông trăm phần trăm[1].”
“Em thấy rồi,” nàng nói cộc lốc.
[1] Heterosexual: người có khuynh hướng tình dục bình thường, trái ngược với homo-sexual: người có khuynh hướng tình dục đồng giới.
Anh cười toe, ánh mắt nâu di chuyển ấm áp khắp người nàng. “Để em ghi lại nhé, anh ba mươi tư tuổi. Hai cụ nhà anh sống ở Fort Lauderdale, và anh có ba anh trai và hai chị em gái, tất cả đều đã kết hôn và góp phần làm tăng dân số. Trong vòng năm người bọn họ, anh có mười tám đứa cháu trai gái, tuổi từ hai cho đến mười chín. Khi bọn anh tập trung lại trong các kì nghỉ thì nhà như là sở thú ấy. Mọi người đều sống ở Florida, mặc dù rải rác khắp trong bang. Anh cũng có cô dì chú bác và anh em họ, nhưng không mật thiết lắm.” Anh nhìn nàng cẩn trọng khi liệt kê thành phần gia đình mình, biết rằng ai đó đã sống như Marlie hẳn phải thấy chỉ ý nghĩ về tất cả từng đó họ hàng cũng đáng ngại. Anh chưa từng muốn mang bất kì một người bạn gái nào vào trong cuộc sống riêng tư của anh, nhưng với nàng mọi chuyện đều khác. Anh vẫn còn chưa quyết định khác như thế nào, nhưng anh chấp nhận là nó đã khác.
Marlie cố tưởng tượng một gia đình rộng lớn như thế, nhưng không thể. Nàng đã luôn bị buộc phải giữ các mối quan hệ ở một mức độ tối thiểu nhất, và mặc dù trong vòng sáu năm qua sự giới hạn đó đã không còn cần thiết nữa, nhưng nàng vẫn bám lấy nó, miễn cưỡng để bản thân mình trở nên yếu đuối theo bất kì cách nào.
“Mẹ em đã mất trong một vụ hoả hoạn khi em ba tuổi,” nàng nói. “Sét đánh trúng vào nhà. Em không nhớ bất kì điều gì về nó ngoại trừ một tiếng rắc lớn, lớn hơn bất kì điều gì anh có thể tưởng tưởng được, và thậm chí không khí dường như cũng bị rã ra. Một ánh sáng trắng loá làm loà mọi thứ. Một người hàng xóm đã đưa em ra khỏi ngôi nhà, và em chỉ bị bỏng nhẹ. Mẹ em đã ở trong phần bị đánh trực tiếp của căn nhà.”
“Những cơn bão hẳn là làm em lo sợ,” anh bình luận.
“Đáng lẽ là thế, nhưng không. Em chưa bao giờ sợ hãi chúng, thậm chí ngay sau đó cũng không.” Nàng đã ăn đủ chỗ bánh quế nàng muốn, vì thế nàng đặt dĩa xuống và cầm cốc cà phê lên. “Sét đã làm vài chuyện thú vị. Ts. Ewell có lý thuyết cho rằng điện tích khổng lồ của nó bằng cách nào đó đã thay thế hay tăng cường hoạt động sóng não bình thường của em, khiến em nhạy cảm hơn với các năng lượng điện do người khác phát ra. Trước đây có thể là em bình thường, nhưng sau đó em trở nên khó tính, dễ dàng nổi cáu hơn.”
“Có lẽ vì em đã mất mẹ.”
“Có thể. Ai mà biết được? Có thể em đã có khả năng từ trước, nhưng đơn giản là chưa đủ lớn để tự thể hiện được. Từ những gì em được kể, mẹ em là một kiểu người lặng lẽ, điềm đạm, vì thế có thể sự hiện diện của bà đã làm em bình tâm. Dù thế nào đi nữa, ba em gặp khó khăn trong việc nuôi nấng em. Ông càng bối rối và tức giận, thì em càng cảm nhận được nó. Em không biết cách nào để ngăn ông ở ngoài. Cả hai chúng em đều là những người rất khốn khổ.
“Em là tên quái nhân trong khu vực đó. Khi em bắt đầu đi học em chẳng có người bạn nào, nhưng với em thế cũng được bởi vì như thế sẽ quá kiệt sức. Rồi em tìm được một đứa bé nào đó đã đi lạc mất, và việc đó lên báo, và Ts.Ewell tìm tới nói chuyện với ba em. Em tới viện để được kiểm tra, thích sự yên bình và tĩnh lặng ở đó, và ở lại. Cả ba em và em đều nhẹ nhõm.”
“Giờ ông ở đâu?” Dane hỏi.
“Mất rồi. Ông đến thăm em thường xuyên trong một thời gian, nhưng cả hai chúng em đều không thoải mái. Những chuyến viếng thăm thưa dần và thưa dần. Ông tái hôn khi em mười bốn tuổi, em nghĩ vậy, và chuyển tới Nam Dakota. Em chỉ gặp vợ ông một lần. Bà ấy cũng tử tế, nhưng rất khó chịu với em. Bà ấy có hai đứa con từ cuộc hôn nhân trước, nhưng bà và Ba không có thêm đứa nào. Ông mất vì một cú đột quỵ khi em hai mươi tuổi.”
“Không có họ hàng nào khác sao?”
“Vài ông chú bà dì, và vài anh em họ em chưa từng gặp.”
Nàng đã thực sự cô đơn kể từ khi còn là một đứa trẻ, anh nghĩ. Không nựng nịu, không ôm ấp. Không có những buổi ngủ lang thú vị với bạn bè trong những năm niên thiếu. Anh tự hỏi liệu nàng có bao giờ thực sự là trẻ con hay không, liệu nàng có từng vui chơi không. Có lẽ là không. Có cái gì đó rất chín chắn trong con người Marlie, một sự trưởng thành về tâm tưởng vượt xa tuổi tác của nàng. Nhưng bất chấp tuổi thơ không bình thường và một kiểu sống khắc khổ cần thiết, nàng vẫn bình thường đến mức kinh ngạc. Người ta có thể hiểu cho bất kì một tính cách lập dị nào của nàng dựa vào hoàn cảnh lớn lên, nhưng nàng chẳng hề có lấy một thói quen kì quặc hay quái gở.
Trừ khi anh tính tới việc góp nhặt những làn sóng suy nghĩ của một tên sát nhân hàng loạt.
Anh nhìn vào đồng hồ và hớp ngụm cà phê cuối cùng. “Anh phải đi, cưng à. Đồ ăn ngon lắm. Tối nay chúng ta ăn gì?”
Vừa **** cười, vừa hi vọng và hoàn toàn hoảng sợ vì rõ ràng anh định ở lại với nàng đêm nữa, tất cả những gì nàng có thể làm chỉ là bắt đầu cười. “Anh chỉ vừa mới ăn xong bữa sáng,” nàng nói giữa những tiếng cười khúc khích.
Anh véo cằm nàng. “Thậm chí cả ở trong Rubaiyat[2], ông già Omar cũng nhắc tới thức ăn đầu tiên.”
“Em tưởng rượu đầu tiên chứ.”
“Cho chúng ta biết ối điều về ông ta, phải không nào?” anh nháy mắt với nàng và vào trong phòng ngủ để mặc nốt quần áo, và Marlie bắt đầu dọn bàn. Nàng cảm thấy choáng váng. Anh sẽ quay lại đêm nay.
[2] Rubaiyat of Omar Khayman: tuyển tập thơ Rubai (Ba Tư) do Edward FitzGerald dịch.
Nàng tự hỏi anh thường thu xếp những cuộc tình của mình như thế nào. Anh có hài lòng với việc thỉnh thoảng chia sẻ một đêm với nhau, có lẽ chỉ vào cuối tuần không? Hay anh sẽ tới mỗi đêm, dành thời gian với nàng, làm tình với nàng, rồi về nhà mình? Nàng không biết phải trông mong điều gì. Có một bầu không khí mãn nguyện bao quanh anh khiến nàng nghĩ anh cực kì hài lòng với những gặt hái của bản thân trong cuối tuần này, nhưng có lẽ đó chỉ là sự thoả mãn dục tình. Nàng không đủ kinh nghiệm để chỉ ra sự khác biệt, đó là nếu có khác biệt. Bất chấp sự tử tế, dịu dàng, thậm chí là đam mê của anh, bất chấp thực tế nàng đã phải lòng anh quá đỗi, nàng nhận ra nàng thực sự chẳng biết gì về anh.
Anh đang khoác bao súng lên vai khi bước ra khỏi phòng ngủ. “Anh quên là anh không mang áo khoác tới đây,” anh nói, cau mày. “Anh sẽ phải ghé qua nhà để lấy một cái, vì thế anh phải đi thôi.” Anh cúi xuống để hôn nàng. “Tạm biệt cưng. Anh không biết sẽ mất bao lâu.”
Nàng đặt hai tay lên ngực anh và nhón chân lên cho một nụ hôn khác. “Em phải đi mua thực phẩm, nếu anh muốn ăn cái gì đó. Nếu em không có ở đây, thì em sẽ ở cửa hàng.”
Anh vòng tay quanh người nàng và nhấc nàng tới gần hơn, buộc hông nàng dựa vào anh. Miệng anh đặt lên miệng nàng một nụ hôn mạnh và ngấu nghiến đến nỗi nàng lả đi trong tay anh, run rẩy vì vui thích. Bàn tay anh tìm kiếm ngực nàng, và vuốt ve giữa hai chân nàng. Anh ép nàng dựa lưng vào tủ bếp và nhanh chóng nâng nàng lên trên mặt tủ, ấn hông anh vào giữa hai đùi mở rộng của nàng. Nàng bám lấy đôi vai rộng của anh, cảm thấy bao súng bằng da bên dưới bàn tay mình.
Anh kéo miệng mình ra với một tiếng rên rẩm. “Lạy Chúa toàn năng. Chúng ta không thể làm chuyện này. Anh không có thời gian.” Mồ hôi lấp lánh trên trán anh, và mắt anh đã có cái nhìn sụp mí, chăm chú gần như khiến nàng cầu xin anh ở lại. Nhưng hơn tất cả mọi người nàng biết cái giá của trách nhiệm, và nàng ép mình thả anh ra.
“Đi đi,” nàng nói. “Nào.”
Anh lùi lại, nhăn nhó khi với tay chỉnh trang quần áo. “Anh sẽ về ngay khi có thể, nhưng sẽ mất vài tiếng. Em có chìa khoá nhà dự trữ không?”
“Có, tất nhiên.”
“Đưa anh một cái.”
Không có chút dè dặt hay không chắc nào dành cho anh, nàng nghĩ khi nàng nhảy xuống khỏi mặt tủ bếp và nhanh chóng đi tìm túi xách. Nàng đưa cho anh chiếc chìa khoá dự phòng, và anh trượt nó vào trong chùm chìa khóa của mình. Anh bắt đầu đưa tay tới chỗ nàng, cho một nụ hôn khác, nhưng anh dừng lại kịp lúc. “Để sau,” anh nói, nháy mắt với nàng, và hướng ra cửa.
Khi anh đã đi, Marlie sụp xuống ghế sô pha và cố đánh giá lại cuộc sống của nàng. Nàng cảnh giác, thậm chí sợ hãi, với việc đang xảy ra, nhưng không gì trên đời này có thể ngăn nàng khỏi việc trải nghiệm điều này. Lần đầu tiên trong đời, nàng đang yêu, và việc đó thật tuyệt vời.
*
Trước sự ngạc nhiên của Dane, cảnh sát trưởng cũng có mặt trong cuộc họp. Rodger Champlin cao, tóc trắng, và gù vì quá nhiều năm ngồi sau bàn giấy, tuy nhiên ông là một cảnh sát đã đi lên suốt các bậc cấp và ông có bốn mươi năm kinh nghiệm trong ngành. Ông là một con chó già thông minh đã trụ lại thành công song song với cơn lũ những công nghệ mới trong công việc của cảnh sát, thay vì bướng bỉnh bám víu vào những phương cách cũ đã học được trong thời trai trẻ.
Văn phòng chật hẹp của Bonness không đủ lớn để chứa tất cả mọi người, vì vậy họ vào trong một phòng họp và đóng cửa. Ivan cũng ở đó, khuôn mặt nhăn nheo và đôi mắt vằn máu của ông ta chứng tỏ ông ta đã thức suốt đêm. Tất cả các thám tử đều ở đó, phần lớn bọn họ rõ ràng là bối rối vì cuộc họp sáng Chủ nhật này, đặc biệt là một cuộc họp lại dính tới cả cảnh sát trưởng.
Bonness đang uống cà phê như thể đó là tất cả những gì ông ta cần để sống. Từ cái nhìn của ông ta, trông có vẻ ông ta cũng không ngủ được mấy, nếu có ngủ chút nào, và bàn tay đang cầm cốc cà phê của ông ta khẽ rung vì bị quá tải ca phê in.
Mọi người đều cầm cốc cà phê của mình vào ngồi vào chỗ. Dane quyết định đứng, và dựa vào tường.
Bonness nhìn xuống những tấm giấy trên bàn trước mặt ông ta, và thở dài. Rõ ràng ông ta không muốn phải bắt đầu, như thể chính thức nói ra những từ ấy sẽ làm cho nó thật hơn.
“Mọi người, chúng ta có rắc rối lớn,” ông ta nói. “Chúng ta chỉ có hai vụ để so sánh, nhưng những điểm tương đồng rất đáng chú ý đến nỗi chúng tôi khá chắc chắn là chúng ta đang có một tên sát nhân hàng loạt hoạt động tại Orlando.”
Sự im lặng chết chóc tràn ngập căn phòng khi các thám tử trao đổi ánh mắt với nhau.
“Chúng ta đã được cảnh báo với khả năng đó,” ông ta nói, không hề đi vào chi tiết, “đó là lý do tại sao chúng ta có thể phát hiện ra nó sớm như vậy.” Ông ta chuyển một vài tờ giấy cho thám tử ngồi bên tay phải, Mac Stroud. “Lấy một tờ và phát cho mọi người. Đây là hồ sơ vụ Nadine Vinick và Jacqueline Sheets. Đọc kĩ càng cả hai vụ. Bà Vinick đã bị giết hôm thứ Sáu tuần trước, Bà Sheets đã bị giết hôm thứ Sáu vừa qua.”
“Vậy chúng ta có gì?” Mac hỏi.
Bonness nhìn vào Ivan Schaffer. “Không có gì,” Ivan nói cộc lốc. “Không có cái chết tiệt gì cả. Không dấu vân tay; hắn mang găng. Không tinh trùng, mặc dù những dấu vết bầm tím ngoài âm đạo ở cả hai người phụ nữ chỉ ra rằng họ đã bị cưỡng đoạt. Hoặc hắn đã dùng bao cao su hoặc dùng ngoại vật. Tôi cũng không tìm thấy bất kì một sợi tóc nào. Không dấu chân, không sợi vải quần áo, không nhân chứng. Chúng ta chẳng có gì cả.”
“Hãy để tôi hiểu mọi chuyện nhé,” Cảnh sát trưởng Champlin nói. Đôi mắt ông ta xoáy vào đám đông. “Nghĩa là tôi sẽ phải kể cho thị trưởng có một tên sát nhân hàng loạt đang hoạt động trong thành phố, và chúng ta không có đến một mảy may bằng chứng về hắn? Đó là nếu, bằng một cách kì diệu nào đó, chúng ta có thể sờ tay được vào hắn, chúng ta sẽ không thể buộc tội hắn với hai vụ án mạng này?”
“Đúng là vậy đấy,” Ivan nói.
“Làm thế nào các cậu chắc chắn là cùng một gã như thế? Mới có hai vụ giết người, và những vụ đâm chém không bất bình thường đến thế -“
“Hai vụ chém chết người mà hoàn toàn không có một bằng chứng nào để lại ư?” Dane chen vào. “Cả hai vụ đều tình cờ vào đêm ngày thứ Sáu, gần như cùng một giờ. Cả hai vụ đều được thực hiện từ một con dao trong bếp của nạn nhân, và cả hai lần hung khí đều bị bỏ lại. Đó là cùng một gã.” Anh không nhắc tới Marlie, và anh cá là Bonness cũng sẽ không nhắc. Không sớm thì muộn nàng cũng sẽ bị mang vào vụ này, nhưng anh muốn việc đó để sau, khi đúng thời điểm và mọi chuyện trong tầm kiểm soát của anh.
“Có liên hệ nào giữa các nạn nhân không?” Mac hỏi.
Dane nhìn vào Freddie và Worley, những người đang xử lý hồ sơ vụ án Jackie Sheets. Freddie lắc đầu. “Chúng tôi vẫn cần nói chuyện với vài người nữa, nhưng cho đến giờ chúng tôi không tìm được bất kì một mối liên hệ nào cả. Họ trông không giống nhau, họ không sống cùng một khu. Bà Vinick là một bà nội trợ, bà Sheets là một thư kí pháp lý. Họ không thường tới cùng một nơi. Theo những gì chúng tôi đã tìm hiểu được tới giờ, họ chưa từng gặp nhau.”
“Chúng ta có thể lấy một bản danh sách ở công ty điện thoại ghi lại những cuộc gọi đi từ cả hai căn nhà, và so sánh chúng. Có thể chúng ta sẽ gặp may và họ có vài số điện thoại chung,” Trammell nói. “Và luôn có những thứ thú vị ở trong các sọt rác nữa.”
“Và chúng tôi cần lấy bản sao các hoá đơn đã huỷ của họ ở ngân hàng.” Dane viết ghi chú cho mình. “Cả các bản sao của các hoá đơn thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có một sợi dây liên kết. Luôn có một sợi dây liên kết.”
“Tôi muốn hoãn việc thông báo với thị trưởng trong một hoặc hai ngày,” cảnh sát trưởng nói, lườm vào tất cả bọn họ. “Cho tới khi các cậu tìm được một bằng chứng chắc chắn để trông tôi không đến nỗi ngớ ngẩn như bây giờ.”
“Bản thân việc hoàn toàn thiếu bằng chứng pháp y đã là một điểm đặc trưng,” Dane chỉ ra. “Tôi nghĩ chúng ta nên đưa việc này cho FBI phân tích.”
Đúng như anh đã trông đợi, khuôn mặt cảnh sát trưởng trở nên chua chat. “Bọn Cục (Cục điều tra liên bang – FBI) đáng nguyền rủa,” ông ta quát. “Cậu đang nói là chúng ta không đủ tốt để tự mình xử lý hả, Hollister?”
Dane nhún vai. Tất cả cớm đều ghen tị với phạm vi thẩm quyền của họ, và không ai, đặc biệt là lớp người cũ, thích mang Cục vào bất kì chuyện gì. Không chóng thì chày những gã liên bang luôn giành trọn công trạng. “Đơn vị hỗ trợ điều tra chuyên về lĩnh vực này, và tôi nói rằng chúng ta cần mọi sự giúp đỡ có thể có. Tôi không cần phải chứng minh cần của tôi to hơn của bọn họ.”
“Với cậu nói thì dễ,” Freddie lạnh nhạt nhận xét. “Nhưng còn tôi thì sao?”
“Còn chúng tôi thì sao?” Worley nói ngay bằng một giọng ai oán.
Căn phòng dậy lên những tiếng cười và vài câu nhận xét tục tĩu. Bonness đỏ mặt trước sự thiếu chín chắn, nhưng cũng không ngăn mình cười được. Dane nháy mắt với Freddie, và chị nháy mắt lại.
“Nếu tất cả các cậu đã xong với vụ so sánh chiều dài – hay thiếu chiều dài,” cảnh sát trưởng nói, cao giọng lên, “có lẽ chúng ta có thể trở lại công việc. Okay, có thể chúng ta sẽ đưa vụ này lên FBI. Nhưng không cho tới khi tôi bảo vậy, và không cho tới khi tôi nói chuyện với thị trưởng. Hiểu rõ chưa? Hãy tìm hết mọi khả năng khác trước đã.”
“Chúng ta không có thời gian để chờ đợi lâu. Chỉ còn năm ngày nữa là lại tới một ngày thứ Sáu khác.”
“Tôi biết hôm nay là ngày gì trong tuần,” cảnh sát trưởng quát. “Tôi sẽ nói chuyện với ông ấy vào chiều thứ Ba, và đó là sớm nhất có thể rồi. Mọi người, thế có nghĩa là các cậu có hai ngày để tìm ra cái gì đó, vì thế tôi đề nghị các cậu vào việc đi.”