Đường Bác Hồ Đi Cứu Nước - Chương 07

« Tháng 7-1942, Bác lại đi ra ngoài, với mục đích gặp Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc. Nhưng danh nghĩa thì Bác là đại biểu của hai đoàn thể Việt Nam độc lập đồng minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam phân hội, đi gặp Tưởng Giới Thạch. Lúc đó Bác bắt đầu dùng tên Hồ Chí Minh. Bác có tấm danh thiếp giữa in Hồ Chí Minh, một bên in tân văn ký giả, một bên in Việt Nam Hoa kiều. Từ Lam Sơn lên Pắc Bó hơn 50 cây số, Bác đi ban ngày. Anh Lê Quảng Ba làm giao thông cho Bác đi trước. Bác ăn mặc quần áo Nùng, cầm gậy giả làm người mù đi sau. Mắt Bác nhấp nháy luôn, hệt như người mù. Trước khi đi, Bác còn viết nhiều bài báo để lại giao cho anh Đồng đăng dần.

Ra khỏi biên giới thì lấy một đồng chí Trung Quốc đi với Bác. Đồng chí đó không có giấy tờ gì, bị khám xét rồi bị bắt, và Bác cũng bị bắt theo. Đồng chí đó bị giam cùng một chỗ với Bác, rồi bị chết ở trong tù. Có lần đồng chí Cáp ở trong nước đi liên lạc, nghe người ta nói «người đi với Ông đó chết rồi » lại nghe ra « Ông đã chết rồi», vội vã chạy về khóc lóc. Đoàn thể ta rất hoảng, nhưng không tin Bác có thể chết, nên cho đi nghe ngóng lại, mới vỡ nhẽ là tin sai. Bác bị bắt hơn một năm. Trong tù, Bác vẫn tìm cách gửi được thư về. Thư viết bằng nước cơm lên rìa những tờ báo. Về bôi canh-ky-dốt vào thì chữ nổi lên. Thư nào cũng dặn dò đừng vì Bác bị bắt mà để bê trễ công việc. Bác báo tin Bác vẫn khỏe để an ủi anh em, khuyên gặp khó khăn thì kiên quyết vượt khó khăn mà làm. Cuối bức thư bao giờ cũng có một bài thơ, đầy tin tưởng lạc quan.

Trong đời hoạt động của Bác, lần bị bọn Tưởng bắt là lần Bác khổ nhất. Bọn Tưởng giải Bác đi hết nhà tù này đến nhà tù khác. Bác phải chịu đựng mọi nỗi gian nguy của chế độ nhà tù đen tối nhất, đến nỗi chân Bác yếu đi, mắt Bác mờ đi. Nhưng trí Bác vẫn sáng, lòng Bác không sờn. Tay trói, cổ xiềng, dầm mưa giãi nắng, Bác vẫn lạc quan, tin tưởng ở cách mạng thắng lợi. Chính trong thời gian này, Bác đã làm tập thơ « Nhật ký trong tù » rất quý báu cho chúng ta ngày nay.

Ở nhà thì các đồng chí lo ngày lo đêm. Bác sa vào tay một bọn ngu xuẩn và hung ác, làm sao cho được an toàn ? Rất có thể là Bác giàu kinh nghiệm đấu tranh, bọn chúng không làm gì nổi, nhưng cũng rất có thể là chúng sợ Bác mà tìm cách ám hại Bác. Trong nước liền chủ trương vận động quần chúng cứu quốc và các Việt kiều ở hải ngoại đòi bọn Tưởng phải trả lại tự do cho «nhà cách mạng chống phát xít lão thành» của ta.

Quả nhiên chúng không hại được Bác, nhưng chúng đã giải Bác đi như thế trong hơn 80 ngày. Giam giữ Bác 14 tháng trời trải qua gần 30 nhà tù của Tưởng.

Tới Liễu Châu chúng phải trả tự do nhưng lại quản chế Bác. Ở đó Trương Phát Khuê lại lập Việt Nam cách mạng đồng minh hội. Bác cũng gia nhập Hội để công khai hoạt động cho cách mạng.

Lúc ở tù cũng như ở giam lỏng, Bác không ngừng hoạt động cho cách mạng một phút nào. Bác lợi dụng điều kiện cụ thể, viết các bài đăng trong báo chí của Đệ tứ chiến khu để phổ biến tình hình trong nước. Bác quyết tâm khắc phục những bệnh tật mà chế độ nhà tù đã để lại trong cơ thể Bác. Bác tập leo núi để chữa chân tê thấp, tập nhìn bóng tối để chữa mắt mờ. Ý chí quyết làm cho cách mạng Việt Nam thắng lợi đã giúp Bác thắng bệnh tật.

Ít lâu sau, thoát sự quản chế ở Liễu-Châu. Bác trở về Pắc Bó. Lúc đó là tháng 9-1944...»[1]

*

* *

«... Trong khi nhân dân Liên-xô anh em đang dốc hết lực lượng vào cuộc kháng chiến thần thánh, khi phát-xít Nhật - Pháp đang hoành hành ở Việt Nam, khi đồng bào ta đang quằn quại dưới hai ách áp bức, khi công việc Đảng và Mặt trận Việt Minh đang nhanh chóng lan rộng ăn sâu vào quần chúng nhân dân - mà mình thì phải nằm còng queo trong một phòng giam của bọn phản động Trung Quốc, sót ruột biết bao! Đây không phải là một trại giam chính cống, mà chỉ là một « cấm bế thất» - một phòng giam nhỏ ngay bên cạnh đội cảnh vệ của tướng Trương Phát Khuê. Chỉ một mình Bác bị nhốt ở đó. Lâu lâu mới có một vài sĩ quan Quốc dân đảng bị phạt vào ở đó năm, bảy ngày. Bác lợi dụng những dịp đó để học tiếng «quan».

Bác gây được cảm tình với vài người lính gác. Mỗi bữa ăn xong còn thừa rau bí luộc, họ đưa cho Bác để «cải thiện sinh hoạt» phần nào. Điều tốt nhất là mỗi ngày họ bí mật quẳng vào cho Bác một tờ Liễu Châu nhật báo, đó là món ăn tinh thần. Nhờ đó mà Bác theo dõi được tin tức chiến sự.

Tháng hai 1943, xem thấy tin: Sau hơn sáu tháng chiến đấu vô cùng anh dũng, Hồng quân đã đại thẳng ở Sta-lin-grát, suýt đụng đầu vào kèo phòng giam, Bác tự bảo nhất định phải ăn mừng cuộc thắng lợi này. Trong túi chỉ còn vẻn vẹn 1 đồng bạc, Bác đưa tuốt cả số tiền đó nhờ người lính gác mua giùm cho ít kẹo và « dàu chả quầy » (mua 1 đồng chỉ được 5 hào, đó là quy chế của nhà giam), để làm một bữa tiệc. Sau khi phấn khởi hô khe khẽ mấy khẩu hiệu: Đảng Bôn-sơ-vích muôn năm! Hồng quân muôn năm! Liên-xô thắng lợi muôn năm! Bác ngồi xuống một mình « chén tạc chén thù » rất đàng hoàng vui vẻ. Từ đó về sau, mỗi tin tức Liên-xô thắng lợi là một món quà tinh thần từ phương xa đến để an ủi Bác. Mười mấy tháng bị nhốt trong cái phòng u ám và quạnh hiu, một hình một bóng, không được nói chuyện với ai, không có việc gì làm. Muốn «du lịch» thì đi dọc chỉ năm bước, đi ngang bốn bước. Đề «tiêu khiển» ngày giờ, chỉ còn cách nghêu ngao, vắn tắt ghi lại sinh hoạt của người ở tù cho khuây khỏa thế thôi, phải thơ phú gì đâu...

Khi được thả ra, mắt Bác nhìn kém, chân bước không được, Bác quyết tâm tập đi, mỗi ngày mười bước, dù đau mà phải bò, phải lết, cũng phải được mười bước mới thôi. Cuối cùng Bác chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đến đỉnh núi, Bác cao hứng làm một bài thơ chữ Hán như sau:

«Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,

Giang tâm như cánh lĩnh vô trần.

Bồi hồi độc bộ Tây-phong-lĩnh,

Nam vọng trùng dương ức cố nhân.»

Bác chỉ nhớ bài thơ đó. Chúng tôi cố hết sức chỉ tạm dịch như thế này:

«Mây ôm núi, núi ôm mây,

Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng.

Bùi ngùi dạo đỉnh Tây-phong,

Trông về cố quốc, chạnh lòng nhớ ai! ».[2]

*

* *

« Mùa xuân năm 1943 gia đình chúng tôi ở Quế Lâm (Quảng Tây - Trung Quốc) bỗng một hôm chị tôi nhận được một lá thư nhỏ từ trong nước gửi qua:

Dược Lan !

Lão đồng chí tên Hồ Chí Minh, người cao gầy, trán rộng, mắt sáng bị mất tích ở biên giới có lẽ đang nằm trong nhà tù Quốc dân đảng...

Nghe đọc thư mẹ tôi nói ngay: Mẹ chưa nghe tên đồng chí Hồ Chí Minh bao giờ, nhưng với đặc điểm được kể trong thư mẹ đoán chắc đây là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Thế rồi mẹ tôi và chị tôi cùng nhau bàn cách đi tìm lão đồng chí Hồ Chí Minh.

Thế rồi trong suốt mấy tuần lễ liền, chị tôi tìm cách làm quen với bọn lính và sau đó đã khéo léo nhờ được một tên đặc vụ Quốc dân đảng giúp đỡ, chị tôi đã đi đến tất cả các nhà tù của Quốc dân đảng ở Quế Lâm mà vẫn chưa tìm được tăm hơi gì.

Mẹ tôi đã bí mật báo tin cho một số cơ sở trong tỉnh Quảng Tây để cử người đi tìm.

Sau đó một thời gian có người đến tin cho mẹ tôi biết cụ Hồ Chí Minh đang ở Liễu Châu. Mẹ tôi lập tức đi ngay lên Liễu Châu để tìm gặp Người.

Với chuyến đi đó mẹ tôi đã khẳng định được người mang tên Hồ Chí Minh hiện nay chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc tiếng tăm lừng lẫy trước đây. Mẹ tôi đã báo cáo với Người về việc ở nhà đang ra sức tìm kiếm Người...

Chuyến đi thăm Người lần thứ hai, chị tôi đi cùng với mẹ tôi và mãi đến chuyến đi thứ ba ở lại Liễu Châu lâu hơn, mẹ tôi mới cho tôi đi theo. Năm đó tôi vừa tròn mười hai tuổi.

Đến Liễu Châu mẹ tôi dẫn tôi đến một căn phòng khá rộng giữa để một bàn dài, hai bên là hai chiếc giường cá nhân. Mẹ tôi vừa bước vào cửa mọi người đều đứng dậy chào đón hết sức niềm nở. Mọi người đều nói với nhau bằng tiếng Trung Quốc, song quan sát kỹ tôi đã nhận ra ngay, tất cả đều là người Việt.

Tôi đang cố tìm xem trong số những người ngồi đó ai là cụ Hồ Chí Minh, thì bỗng từ ngoài cửa bước vào một ông cụ người cao, gầy, vừng trán rộng, đôi mắt sáng, dưới cầm điểm một chòm râu thưa rất đẹp. Người nở một nụ cười vô cùng hiền hậu nhìn tôi và kéo tôi vào lòng hỏi chuyện. Tôi thấy ông cụ là người đẹp nhất ở đây và tôi tin chắc rằng đây là cụ Hồ Chí Minh mà mẹ tôi đã nói đến.

Tôi đã đoán đúng. Cụ già đẹp nhất ấy chính là Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

Mẹ con chúng tôi ở lại Liễu Châu một thời gian, thỉnh thoảng lại được gặp Bác ở khu nhà này hoặc theo mẹ đến tận nơi Bác ở.

Đó là một căn gác hẹp. Bên trong có đặt một cái giường con, trên có một chiếc chăn mỏng, kê sát cạnh giường là chiếc bàn làm việc. Trên bàn để mấy cuốn sách. Bác leo cái thang gỗ lên xuống rất nhanh nhẹn. Bác thường mặc bộ quần áo đã bạc màu nhưng sạch sẽ và lành lặn. Bác thường đi chân không, có một đôi giầy dạ cũ nhưng khi cần thiết Bác mới dùng. Một buổi trưa tôi đến với Bác thấy cái quần len mỏng màu xám duy nhất của Bác đã rách ở hai đầu gối, tôi đòi Bác cho mạng lại. Tôi ngồi từ trưa đến chiều mạng rất cẩn thận, tôi sung sướng được Bác khen. Và chính trong buổi trưa hôm đó tôi được Bác hỏi chuyện:

- Trong các môn học cháu thích nhất môn gì?

Tôi trả lời:

- Cháu thích âm nhạc và mơ ước được học âm nhạc.

Bác gật đầu và kể chuyện các nhạc sĩ Bét-tô-ven, Sô-panh cho tôi nghe. Tôi không ngờ rằng cái mơ ước xa vời của con bé lưu lạc như tôi lúc đó, nhờ có Bác nên đến nay đã thành sự thật.

Hồi đó Bác xưng với chị em tôi là chú với cháu. Chị tôi không dám hỏi, bảo tôi hỏi Bác:

- Tại sao cụ lại xưng chú với cháu?

Bác cười và trả lời giản dị:

- Tại vì chú ít tuổi hơn thầy cháu.

Tôi tròn xoe mắt ngước nhìn Bác, Bác cười như xua nỗi thắc mắc ngây thơ của tôi.

Hồi ấy Bác xanh gầy, răng bị rụng nhiều chiếc, mắt nhìn cũng bị kém đi, đấy chính là thời gian sau khi Bác bị bắt và bị giam cầm trong nhiều nhà tù của bọn Quốc dân đảng. Để lấy lại sức khỏe, ngày nào Bác cũng dậy từ sáng tinh mơ: leo núi, tập thể dục, tập nhìn xa để luyện mắt và bơi lội, trăm ngày như một kể cả những ngày mùa đông giá rét ở Liễu Châu.

Đến thăm nơi Bác ở tận mắt nhìn thấy ngọn núi và dòng sông cách nhà Bác không xa mà sau này tôi đã được gặp lại trong bài thơ «Mới ra tù», «Tập leo núi» của Bác:

«Bồi hồi dạo bước Tây-phong-lĩnh

Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa».

Hồi bấy giờ tôi còn trẻ con quá, được Bác chiều tôi làm tình làm tội Bác, hỏi Bác đủ điều. Tôi đòi Bác dạy Thái cực quyền, dạy tôi nói «Chào đồng chí» bằng tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp. Có hôm được Bác dắt đi chơi ở một phố vắng, Bác mua cháo quẩy và sữa đậu nành cho tôi ăn, mặc dầu đời sống vật chất của Bác lúc bấy giờ còn rất thiếu thốn.

Chị tôi kể lại: Bữa ăn của Bác chỉ có mấy bát cơm gạo lứt (gạo xay chưa giã) với xì dầu loại rẻ tiền. Tuy vậy bữa cơm nào Bác cũng cố gắng ăn đúng ba bát để bảo đảm sức khỏe. Hôm nào đi ăn cơm Bác cũng nhớ mang theo một lọ ớt khô.

Thấy sinh hoạt của Bác quá ư thiếu thốn mẹ tôi đem biếu Bác một ít thứ lặt vặt, nhưng nài ép thế nào Bác cũng không nhận. Thế mà không hiểu tự đâu Bác lại biết tôi thiếu một cái áo đồng phục học sinh.

Bác bắt tôi nhất định phải nhận số tiền mà Bác dành dụm được để tôi may áo trong khi chiếc khăn mặt của Bác đã rách, Bác chưa dám bỏ nó đi để mua chiếc khác.

Đầu năm 1944, giặc Nhật sắp tràn xuống Liễu Châu. Bác cùng một số đồng chí chuẩn bị về nước hoạt động. Mẹ tôi và chị tôi xin Bác được về cùng, song Bác khuyên ráng chờ một thời gian nữa vì lúc bấy giờ chị tôi đang bị bệnh lao phổi, cần có thời gian và điều kiện đề điều trị.

Trong bữa cơm liên hoan chia tay, tôi kính tặng Bác một chiếc khăn nhỏ, một chiếc bút chì xanh đỏ và một chiếc thước nhựa. Bác chỉ nhận thước và bút chì...»[3]

Trở lại Côn Minh

«Cuối năm 1944, Hồ Chủ tịch từ trong nước có việc sang Côn Minh. Bác sống ở nhà tôi trong mấy tháng. Mãi mãi sau này tôi còn nhớ những ngày được gặp Bác lần ấy. Bây giờ ngồi kể lại, tôi cứ bồi hồi như đang nâng niu trong tay vật gì thiêng liêng quý báu lắm, chỉ sợ sểnh tay không giữ được trọn vẹn. Tôi chỉ sợ nhớ không được hết, ghi không được đúng hình ảnh Bác trong những ngày đầy ánh sáng ấy của đời tôi.

Bác tới vào một buổi chiều mùa đông. Cảm giác đầu tiên của tôi là thấy Bác gầy quá. Đôi mắt Bác vẫn trong sáng, hiền từ như thế, nhưng đôi gò má của Bác cao lên. Da Bác không được đỏ đắn, tóc Bác đã bạc nhiều... Bác mặc một bộ quần áo nhuộm chàm phai màu; trời rét, Bác khoác thêm một cái áo bông ngắn sờn vai. Lúc tới, Bác đi đất, đầu đội một cái mũ vải cũng nhuộm chàm.

Nhà tôi là một tiệm cà-phê. Hồi ấy tôi chưa được tổ chức, mới còn là một cảm tình, nhà tôi là một cơ sở hoạt động của Đảng ở Côn Minh. Tôi thu xếp mời Bác nghỉ trong một căn buồng trên gác, một căn buồng chật hẹp, chỉ để kê một cái giường Bác nằm và một cái bàn Bác làm việc, nhưng có một khung của sổ. Thu xếp xong chỗ nghỉ cho Bác, chúng tôi soạn lại hành lý của Bác. Việc này phải nhờ mấy anh cùng đi với Bác - anh Phùng Thế Tài và một đồng chí thiểu số lúc ấy tên là Minh. Thực ra cũng chẳng có gì mà soạn. Hay nói cho đúng, những thứ Bác mang theo đều nên bỏ, nên thay cả kể từ cái khăn mặt đến cái ống đựng thịt muối. Cái khăn mặt của Bác nhuộm chàm bạc thếch đã rách gần hết. Đôi giầy của Bác mang theo càng rách hơn, Bác đi đến nỗi lòi cả chân ra. Còn ống thịt muối? Hai anh Phùng Thế Tài và Minh ngày ấy còn rất trẻ. Các anh mở nắp ống thịt muối ra, lắc đầu kể lại cho chúng tôi nghe về « món thịt », vì thực tình đến chín phần muối mới có một phần thịt. Dọc đường vượt biên giới, mỗi ngày đi bộ, đến nơi phải nấu ăn, người nấu niêu cơm, người đi hái rau rừng, muối ấy và vài miếng thịt bỏ vào nấu canh. Ăn được nhiều, ít, Bác vẫn theo kịp hai anh đường trường, dốc núi. Hành lý của Bác, đáng kể nhất là ống thịt muối ấy. Nhưng cả ống thịt muối, chúng tôi cũng muốn bỏ đi, khi nào Bác về sẽ làm ống khác.

Bác không cho làm thế, không cho vứt bỏ thứ gì cả, Bác bảo: đồng bào, các đồng chí ở nhà còn khổ, những thứ ấy còn dùng được nhất là ống thịt muối, không nên phí phạm. Cùng lắm Bác mới cho mua đôi giầy vải. Lúc nhà tôi đi mua, Bác còn dặn mua đôi ít tiền bằng vải thường thôi. Chiếc khăn mặt mua về, Bác lại đem nhuộm xanh, còn đôi giầy vải, Bác phê bình nhà tôi đã mua một đôi loại kha khá.

Đường xa lâu ngày, lại lội suối, leo núi, Bác tới nơi thì mệt. Bác không cho đưa đi bệnh viện, sợ có những việc bất trắc. Bác chỉ cho nhà tôi mua vài ống thuốc tiêm; rồi hàng ngày tiêm cho Bác. Cũng may sao, chỉ một tuần sau, Bác bình phục và bắt tay vào công việc.

Thời gian Bác lưu lại Côn Minh khoảng gần ba tháng. Suốt ba tháng ấy, sinh hoạt hàng ngày của Bác rất nền nếp, đều đặn. Chúng tôi bảo nhau có thể cứ xem lúc nào Bác làm gì là biết mấy giờ, không cần phải xem đồng hồ.

Ngoại ô Côn Minh có những con mương dẫn nước vào ruộng, hai bên bờ mương trồng những rặng thông dài, cao vút. Hàng ngày, Bác dậy từ năm giờ sáng, ra đấy tập thể dục. Bác chạy mãi dọc theo rặng thông, lượt trở về, Bác vừa đi vừa thở... Đến bảy giờ, hôm nào Bác cũng xuống giúp đỡ cửa hàng. Cửa hàng của tôi thường đông khách nhất vào buổi sáng, mấy anh em tôi tất bật không kịp, Bác xuống đứng đỡ ở tủ bánh mì, bán giúp chúng tôi cho đến lúc thưa khách. Khách mua bánh mì hàng ngày, lâu dần đến quen mặt, họ xì xào với nhau: « không biết Vương Minh Phương tìm đâu được người cha già phúc hậu thế».

Thấy Bác gầy quá, chúng tôi muốn chăm lo thức ăn hàng ngày cho Bác, nhưng Bác chả ăn gì. Mỗi sáng, nồi sữa tươi đun lại, nhà tôi hớt lấy váng múc một cốc Bác xơi. Bác dần dần khỏe ra, chúng tối rất sung sướng nhìn cánh tay Bác rắn chắc. Anh Minh cùng đi với Bác kể chuyện lại có thời kỳ Bác luyện võ, Bác đẽo một hòn đá tròn vừa tay nắm, cứ thế hàng ngày Bác bóp hòn đá trong tay thật mạnh như muốn bóp vỡ ra, đôi khi cả trong lúc làm việc... Những ngày ở Côn Minh, Bác không còn luyện tay nắm đá nữa, nhưng nhìn cánh tay Bác, chúng tôi rất mừng.

Trong thời gian này, nhiều lần Bác và chúng tôi dậy từ bốn giờ sáng. Bác nói chuyện về tình hình, Bác dạy dỗ chúng tôi về đạo đức cách mạng, Bác tiếp xúc với kiều bào, với chính khách; Bác chơi đùa với các cháu thiếu nhi. Có những cháu, Bác chỉ gặp một lượt, nhưng ba năm sau, một lần gặp tôi, Bác còn nhớ tên, hỏi xem cháu đã lớn từng nào.

Những ngày rảnh việc, chúng tôi mời Bác đi thăm phong cảnh Côn Minh. Đi xa hàng hơn mười cây số, Bác vẫn đi bộ, từ chối cả ô-tô hàng, cả xe ngựa. Có lần chúng tôi mời Bác đi thăm chùa Hoa cách Côn Minh bốn cây số; ở đây có ngôi chùa cổ, có cả khu vườn rộng mấy mẫu đất, trồng đủ hàng trăm thứ hoa, mùa nở rộ, rực rỡ như cánh tiên. Lại có lần chúng tôi mời Bác đi thăm chùa Đông, thăm Hắc Long đàm, cách Côn Minh hơn mười cây số. Đó là một cái đầm rộng người ta đồn đại rằng ngày xưa có con rồng đen xuống tắm. Ở đây cũng có ngôi chùa, lại có gốc thông cổ thụ lớn hàng bốn tay ôm, Bác nghỉ trưa tại đây, dưới gốc thông. Bác ăn cơn nắm với chúng tôi rồi Bác tìm một gốc cây có cành xòa xuống mặt đầm, ken nhau như mắt võng, Bác ngả lưng nghỉ trưa. Chúng tôi nhìn Bác nằm, bình dị lạ thường, nhưng trong sự bình dị ấy lại thấy cả một tấm gương sáng của sự rèn luyện, của một ý chí lớn toát ra từ trong từng việc rất nhỏ. Sau ngót ba tháng làm việc ở Côn Minh, Bác lại lên đường về nước, chúng tôi lại làm một ống muối thịt y như cái ống của Bác khi ra đi... » [4]

[1] Vũ Anh, «Từ Côn Minh đến Pắc Bó», trong tập «Bác Hồ», Nhà xuất bản Văn học, năm 1960.

[2] T. Lan, « Vừa đi đường vừa kể chuyện », Nhà xuất bản Sự thật, năm 1963.

[3] «Nhớ Bác»... Hồi ký của Mộ La.

[4] Tống Minh Phương. « Ở Côn Minh », trong tập «Bác Hồ », Nhà xuất bản Văn học, năm 1960.

Về Tân Trào

"Hồi ấy là tháng 5-1945. Những ngày đang rạo rực đón chờ một sự chuyển mình vĩ đại của Tổ quốc.

Chúng tôi đang ở mặt trận; bỗng có thư hỏa tốc đến báo tin là Bác sắp về và chúng tôi có nhiệm vụ đi bảo vệ đón Bác.

Tuy chưa được thấy Bác, nhưng một không khí khác hẳn ngày thường đã diễn ra sôi nổi chẳng khác nào vừa nhận được một tin đại thắng.

Riêng một số chúng tôi đã được gặp Bác lần đầu tiên từ năm 1941. Cuối năm 1942, đầu năm 1943, chúng tôi lại có dịp lên Pắc Bó (Cao Bằng) đề tìm gặp Bác; nhưng nghe tin Bác đi công tác xa nên lại không gặp. Thế là hơn bốn năm xa Bác, không lúc nào lòng chúng tôi không nhớ mong Bác.

Nay nghe tin Bác về chẳng khác nào như hạn hán gặp mưa rào. Tất cả chúng tôi ai nấy tràn ngập một niềm sung sướng không sao tả xiết.

Chúng tôi bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị đón Bác.

Nhiệm vụ chúng tôi là phải bảo vệ con đường từ cây số 31 rẽ vào chợ Chu lên Đèo Xó chợ Đồn. Chúng tôi xem kỹ bức thư, trao đổi với một số đồng chí trong đó có đồng chí Quang Trung và một vài đồng chí phụ nữ, sau đó chủ trương phục kích ở Đèo Xó, nếu giặc Nhật thọc vào là kiên quyết đánh, không cho chúng tiến vào khu vực Bác đi Tân Trào.

Chúng tôi tổ chức trinh sát khu vực đường ra chợ Chu, chia làm mấy chặng gác ở Đèo Xó, chọn sẵn địa điểm thuận lợi cho cả hai mặt công và thủ, bố trí cách phát hiện địch từ xa để kịp thời đối phó.

Trong lúc bố trí, anh em ngồi chụm nhau ai cũng thì thào bàn tán xoay quanh chuyện Bác về và chuyện bảo vệ đường đi, nhưng say sưa nhất là chuyện Bác về: mong Bác cũng có mà lo về Bác cũng có, mong vì mọi người đang khát khao được thấy Bác, vì Bác về nơi căn cứ địa thì sẽ là một thuận lợi lớn cho phong trào, còn lo vì Bác đã có tuổi mà phải đi từ xa xôi về không biết có mệt không.

Bỗng được tin Bác không đi qua Đèo Xó mà đi đường bên trong và đã đi xuống Thành Cóc. Chúng tôi liền cấp tốc rút quân về Tân Trào để kịp hôm sau đón Bác ở vùng Sơn Dương.

Chúng tôi cùng đồng chí Văn, đồng chí Song Hào và một số cán bộ nữa đến đón Bác ở đình Hồng Thái. Trong lúc chờ đợi, câu chuyện bàn tán về Bác cũng sôi nổi. Mọi người hỏi nhau Bác người như thế nào. Một số chúng tôi trước đã được gặp Bác thì cứ luôn luôn phải diễn tả lại hình dáng, cũng như đạo đức, tác phong của Bác cho anh em nghe.

Câu chuyện đang say sưa thì được tin báo là Bác sắp về tới nơi. Tất cả đều im lặng nhìn nhau hồi hộp và hướng cả về phía Bác sẽ tới.

Một lát sau thấy một toán người từ xa lại. Chúng tôi như nín thở, các cặp mắt cố hết sức tập trung để nhìn rõ Bác.

Thoạt tiên thấy mấy người đi trước, rồi đến một ông cụ dáng người cao cao, chân bước rất nhanh nhẹn, tay cầm cái ba-toong vừa đi vừa chỉ trỏ, từ xa xa đã thấy nét mặt tươi cười vui vẻ.

Trong hàng ngũ cán bộ tập trung đón Bác, có những câu thốt ra: "Đâu Bác đâu, Bác đấy phải không, có lẽ đúng ông cụ kia là Bác rồi, v.v..."

Lúc ấy đang giữa buổi trưa. Bầu trời trong sáng hẳn, cao lồng lộng; ánh nắng mới bừng lên rực rỡ chan hòa, hình ảnh của Bác càng đến gần càng nổi bật lên với khuôn mặt hồng hào, đôi mắt quắc thước sáng ngời…

Bác vừa bước tới, thì những tiếng chào mừng chúc Bác khỏe vang lên hòa cùng nhịp ngay với những lời Bác ân cần hỏi thăm chúng tôi.

Bác cùng chúng tôi tay bắt mặt mừng vô cùng cảm động. Bác nhìn suốt mọi người hỏi thăm sức khỏe và nói chuyện thân mật với chúng tôi khác nào một người cha lâu ngày xa vắng nay mới lại gặp đàn con thân yêu của mình. Tôi chú ý nhìn kỹ Bác thấy so với năm 1941 thì Bác có già hơn nhưng đặc biệt Bác vẫn vui vẻ hoạt bát như xưa, tuy đi xa về vất vả nhưng không tỏ ra có gì là mệt mỏi.

Sau khi hỏi thăm chúng tôi, Bác không quên hỏi ngay tình hình địa phương. Bác ngước mắt nhìn tứ phía núi đồi rồi hỏi chúng tôi định đặt cơ quan ở chỗ nào. Chúng tôi chỉ về phía Tân Trào báo cáo. Trong chốc lát, Bác nắm được sơ bộ tình hình địa thế rồi Bác giục chúng tôi đưa ngay Bác về nơi đóng cơ quan. Nơi ấy là xã Kim Lộng, nay là xã Tân Trào, một khu vực giáp giới giữa Tuyên Quang - Thái Nguyên, có cơ sở cách mạng tốt, địa hình, địa thế thuận lợi, phong trào quần chúng khá mạnh.

Qua những phút đầu tiên tiếp xúc với Bác, chúng tôi cảm thấy rất rõ Bác có một sức mạnh phi thường hấp dẫn lòng người. Chúng tôi bàn tán trao đổi với nhau về đạo đức tác phong của Bác cũng như về vai trò vô cùng quan trọng của Người đối với sự nghiệp cách mạng:

"Một vị lãnh tụ cách mạng lão thành, kết tinh của tinh hoa đất nước, súc tích bao nhiêu kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào cách mạng từ bốn phương trời, lại biết nhiều thứ tiếng, nhìn xa trông rộng, lãnh đạo tài tình..., chịu đựng bao nhiêu hy sinh gian khổ vượt suối băng ngàn nay mới về tới đây..."

Bác thật là vĩ đại nhưng cũng thật vô cùng giản dị.

Tuy mới gần Bác có mười mấy phút thôi, nhưng gương của Bác đã soi sáng cho chúng tôi rất nhiều, khuyến khích thêm chúng tôi làm việc không biết mệt mỏi. Ngay từ giây phút đầu, chúng tôi đã cảm thấy gần Bác được chừng nào là như được lớn lên chừng ấy, tư tưởng càng thêm phóng khoáng, tin tưởng sâu thêm ở Đảng, ở cách mạng.

So với cuộc đời hoạt động của Bác, chúng tôi càng cảm thấy mình làm cho Đảng chưa được bao nhiêu mà còn phải cố gắng nhiều hơn nữa.

Từ đình Hồng Thái về xã Tân Trào là nơi đóng cơ quan, phải đi qua con sông Đáy. Anh em bộ đội bảo vệ đã cấp tốc hành quân về trước, chuẩn bị bè mảng sẵn sàng.

Một số chúng tôi cùng đi với Bác. Khi xuống mảng, mặc dù nước sông dâng to, nhưng Bác rất nhanh nhẹn, tự nhiên, tươi cười như không có gì khó khăn cả. Trong khi Bác tỏ ra rất thạo nước, thì chúng tôi ai cũng hồi hộp lo sao cho qua sông được an toàn.

Qua sông, chúng tôi đi bộ qua làng Thia, dọc theo cánh đồng vào xóm Kim Lộng.

Đến nơi, chúng tôi bố trí Bác vào một gia đình quần chúng tốt để ở tạm.

Vào đến nhà, Bác đã hòa hợp rất nhanh với mọi người chẳng khác nào một người cùng làng bản vừa mới đi xa về, và Bác tranh thủ làm ngay công tác quần chúng. Qua sự tiếp xúc với Bác, ông chủ nhà Bác ở (nay không nhớ tên) tỏ ra rất cảm động trước đạo đức và tác phong hàng ngày của Bác, và càng có một quan niệm đúng đắn rõ ràng hơn về sự nghiệp vĩ đại của cách mạng.

Chẳng bao lâu, Bác đã thu được cảm tình sâu sâc của quảng đại quần chúng nhân dân địa phương.

Tiếng đồn đi khắp nơi: "Chẳng những bây giờ có đồng chí Văn, đồng chí Tân Hồng mà còn có ông Cụ rất thông minh tài giỏi..." Qua đó nhân dân càng tin tưởng rất sâu sắc vào cách mạng.

Sau một thời gian ngắn, công việc của Bác đã đi vào nề nếp, sự liên hệ công tác giữa Trung ương với các địa phương ngày càng tăng, do đó làm việc ở làng không tiện lắm, và bắt đầu chuyển cơ quan lên đóng ở rừng.

Khu núi rừng trùng điệp của Tân Trào xưa kia dưới thời Pháp thuộc, cũng như hàng trăm dãy núi rừng khác của đất nước, chỉ là những nơi âm u buồn vắng, không tên tuổi, nhưng từ ngày bước chân của Bác, của Đảng đã đặt tới, thì nghiễm nhiên trở thành khu núi rừng lịch sử oai nghiêm hùng vĩ, là nơi tập trung linh hồn của Tổ quốc, nơi trung tâm tỏa ánh sáng rực rỡ của Đảng đi khắp mọi nơi.

Núi rừng Tân Trào mất hẳn vẻ âm u ngậm tủi nuốt hờn mà trở nên hiên ngang cùng với sức mạnh vĩ đại của non sông đất nước đã đến giờ quật khởi.

Nhà ở của Bác là một chiếc lán nhỏ làm theo kiểu nửa sàn, giữa một khu rừng nứa ở lưng chừng đồi.

Dưới chân đồi là con đường mòn đi từ chợ Chu sang Tân Trào, cạnh đường có con suối quanh co uốn khúc.

Căn nhà nhỏ ấy chia làm hai gian nhỏ, trang trí rất giản đơn. Một bên là buồng nằm của Bác, còn một bên để một chiếc bàn nứa vừa là nơi làm việc vừa là nơi tiếp khách.

Khung cảnh sinh hoạt thật giản dị, nhưng nó là nơi chứng kiến những hoạt động vô cùng phong phú, khẩn trương của Bác trong những giờ phút sôi sục của thời kỳ tiền khởi nghĩa.

Ngoài thì giờ cần thiết cho sinh hoạt cá nhân, thời gian còn lại trong ngày, Bác bố trí rất sít sao, hầu như chẳng còn lúc nào nghỉ ngơi đối với Bác.

Bác làm việc suốt ngày, thường đến tận đêm khuya, có nhiều lúc đang ngủ cũng dậy làm việc. Có lần nửa đêm, Bác dậy, chúng tôi ở cạnh, có hỏi Bác, thì Bác nói: "Đang nghĩ được một vấn đề, phải dậy ghi lại cho khỏi quên".

Điều đó chứng tỏ Bác cẩn thận như thế nào, và ngay trong khi ngủ Bác vẫn còn luôn suy nghĩ tính toán những việc lợi dân lợi nước.

Bác chú ý phong trào chung toàn quốc, chú ý việc củng cố biên giới, củng cố căn cứ địa, củng cố đường giao thông. Bác theo dõi các mặt trận, lo cách liên lạc về xuôi cũng như mong Trung ương ở xuôi lên.

Công việc thì bừa bộn như thế mà Bác vẫn dành được thì giờ nghiên cứu, viết tài liệu sách báo. Ngoài ra Bác lại có thì giờ để tiếp khách.

Trong công việc Bác rất khẩn trương hoạt bát.

Khi tiếp xúc với nhân dân và cán bộ, tác phong của Bác thật là ân cần, cởi mở. Dù là Nùng, Tày, Mán,v.v... ai đã được gặp Bác, khi ra về đều rất kính phục và tin tưởng.

Các cụ người Tày Kim Lộng như ông Ngọc, và hai ông nữa, sau khi gặp Bác, về nói: "Cụ đã nhiều tuổi sao mà nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tài giỏi đến thế..." Những cụ người Mán, tuổi đã khá cao như cụ Hương, cụ Vượng v.v... cũng nói: "Dân Việt Nam ta quả là phúc đức bằng trời bể mới có được ông cụ đã nhiều tuổi mà còn đi hoạt động như thế này, vừa sáng suốt tài giỏi, nhiều kinh nghiệm lại vừa tốt vô cùng. Dân mình tài thật, Việt Minh nhất định thắng..."

Những lời nói mộc mạc giản dị của người nông dân thiểu số miền núi đủ nói lên lòng tin tưởng rất sâu sắc của quần chúng đối với Bác, cũng như đối với Đảng.

Có một lần, chúng tôi đang ở một mặt trận trên đường số 3, cây số 36 rẽ vào chợ Chu, bỗng có thư hỏa tốc của đồng chí Văn bảo là: "Bác mệt, tiếp được thư phải về ngay không kể ngày đêm" và phải tìm một người giỏi thuốc nam về chữa cho Bác.

Lòng chúng tôi hồi hộp lo lắng muôn phần...

Chúng tôi biết có bà Báo là một bà lang thiểu số nên mời bà đến chữa cho Bác.

Vào thăm Bác hôm ấy có tôi và anh Văn, về đến nơi thì Bác đã mệt khá nặng. Thấy Bác, chúng tôi không ai cầm được nước mắt, sự cảm xúc thật không sao tả xiết: phần thương Bác vì đã làm việc quá sức, suy nghĩ nhiều, thức khuya dậy sớm, lao động đi lại vất vả, cộng vào đó ăn uống lại kham khổ, - phần lo vì sức khỏe của Bác có liên quan tới vận mệnh của Tổ quốc, nhất là trong những giờ phút quyết định này.

Bác người tuy rất mệt, nhưng nhiệt tình làm việc của Bác thì không hề mệt mỏi.

Bác vẫn hỏi thăm tình hình phong trào chung, tình hình mặt trận, an ủi chúng tôi và chỉ thị công tác cho chúng tôi. Còn Bác thì luôn ở bên cạnh máy chữ, nhiều lúc miệng chỉ thị, tay đánh máy.

Anh Văn và tôi khuyên Bác hãy xếp công việc lại và nghỉ cho khỏe đã. Nhưng Bác nói Bác vẫn còn làm việc được.

Thấy Bác phải tiếp chuyện nhiều, ảnh hưởng đến sức khỏe, chúng tôi từ giã ra nghỉ ở ngoài làng. Lúc ra, Bác không quên dặn lại chúng tôi: "Nhà đã mua được con ba ba, mai các chú lại đây ăn cơm cùng cho vui".

Hôm sau chúng tôi về chỗ Bác ăn cơm.

Đến nơi thấy Bác vẫn làm việc như hôm qua với chiếc máy chữ bên cạnh luôn luôn hoạt động, mặc dầu bệnh chưa chuyển mấy.

Bữa cơm hôm ấy giữa Bác với chúng tôi thân mật cởi mở, chứa chan tình thương yêu giữa lãnh tụ với cán bộ. Nó đậm đà ấm cúng và cũng bổ ích qua những câu chuyện lịch sử lý thú, chuyện hoạt động ở nước ngoài, chuyện công tác thiết thực mà Bác nói cho chúng tôi nghe trong lúc ăn.

Bữa cơm đầy ý nghĩa chỉ có thể có giữa những người cộng sản hôm ấy, thật chúng tôi ghi nhớ suốt đời.

Ăn cơm xong, Bác vẫn còn say mê trò chuyện với chúng tôi, mặc dầu Bác càng nói càng mệt.

Chúng tôi mời Bác đi nghỉ, và xin phép Bác ra về...

Ra được một quãng, hai anh em chúng tôi lại bí mật lẻn vào và bê cái máy chữ của Bác giấu hẳn đi một chỗ.

Chiếc máy chữ lịch sử này gẳn liền với đời hoạt động của Bác, là phương tiện duy nhất không bao giờ rời Bác.

Hôm sau chúng tôi vào thăm Bác, Bác trách chúng tôi: "Máy của tôi lúc nào cũng phải ở bên cạnh để làm việc. Các chú cất máy làm tôi phải bó tay, có hại cho công việc chung".

Tuy vậy chúng tôi vẫn nhất định chưa đưa máy ra.

Mấy hôm sau, Bác khỏe dần. Lúc ấy chúng tôi đưa máy cho Bác. Chúng tôi rất vui mừng, Bác cũng tươi cười vui vẻ. Và lại tiếp tục làm việc như mọi ngày..." [1]

*

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3