Ếch - Chương 01

Chương 1

Tiên sinh Sugitani Yoshihito kính mến,

Chia tay đã gần một tháng nhưng những gì đã diễn ra giữa tôi và ngài trong khoảng thời gian ngài đến quê hương tôi vẫn hiển hiện trước mắt tôi. Ngài đã không quản tuổi già sức yếu vượt muôn trùng biển khơi, đến một nơi xa xôi, lạc hậu để cùng với tôi và những người yêu thích văn học tại quê tôi đàm đạo về văn học. Điều này khiến tôi vô cùng cảm động. Sáng mồng hai tết Âm lịch, tại hội trường khu chiêu đãi sở của huyện, ngài đã diễn thuyết chuyên đề “Văn học và sinh mệnh”, chúng tôi đã ghi âm toàn bộ những lời của ngài và sao chép, chỉnh lý lại, hy vọng ngài cho phép đăng tải trên tạp chí nội bộ “Tiếng ếch kêu” của Hội Liên hiệp văn học huyện để cho những ai chưa được nghe ngài nói chuyện cũng có thể lĩnh hội được vẻ đẹp của ngôn ngữ của ngài và thu lượm được nhiều điều bổ ích.

Sáng mồng một tết, tôi đã đưa ngài đến thăm người cô đã từng làm công việc sản phụ khoa hơn năm mươi năm của tôi. Tuy cô ấy nói quá nhanh và pha nhiều từ cũng như chất giọng địa phương khiến ngài khó lòng hiểu hết những gì cô ấy nói, nhưng tôi tin rằng, cô ấy đã để lại cho ngài một ấn tượng vô cùng sâu sắc. Trong buổi diễn thuyết sáng mồng hai, ngài đã lấy ví dụ rất nhiều về người cô của tôi để trình bày những quan niệm về văn học của mình. Ngài đã nói, trong trái tim và khối óc của ngài đã có hình tượng một nữ bác sĩ cùng với chiếc xe đạp lao băng băng trên mặt sông đã kết băng; hình tượng một nữ bác sĩ sau lưng đeo hòm thuốc, tay che dù, ống quần xắn cao cùng với bầy cóc nhái kết đoàn kết đội lầm lũi đi về phía trước; hình tượng một nữ bác sĩ đang bế những hài nhi, tay dính đầy máu nhưng miệng cười rất tươi; hình tượng một nữ bác sĩ miệng ngậm thuốc lá, quần áo xộc xệch, gương mặt trầm tư... Ngài nói, những hình tượng ấy có lúc lại dung hòa thành một thể thống nhất nhưng cũng có lúc lại phân ly, chẳng khác nào những bức tượng điêu khắc độc lập. Ngài đã động viên những người yêu thích văn học trong huyện chúng tôi rằng, từ những tài liệu sống động về người cô ấy của tôi, chúng tôi có thể viết được những bộ tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca, kịch... đủ sức làm người ta cảm động. Thưa tiên sinh, những lời cổ vũ của ngài đã khiến chúng tôi nhiệt tình với sáng tác hơn, rất nhiều người đã bắt tay ngay vào thử bút. Một người bạn văn của tôi ở Cung văn hóa huyện đã động bút viết một tiểu thuyết về một nữ bác sĩ nông thôn. Tôi không muốn dẫm theo bánh xe của anh ta. Mặc dù tôi hiểu về người cô hơn anh ta nhiều lần, nhưng đành phải nhường cho anh ta viết tiểu thuyết vậy. Thưa tiên sinh, tôi muốn viết một vở kịch nói về cuộc đời người cô mình. Tối mồng hai tết, trong cuộc nói chuyện giữa chúng ta bên chiếc giường đất được sấy ấm của tôi, ngài đã đánh giá rất cao tác phẩm của nhà viết kịch người Pháp Henri Becque. Những lời phân tích rất tinh tế cũng như nhãn quan độc đáo của ngài đã khiến tôi như người đang mê được thấm nhuần chân lý giác ngộ, đầu óc u tối của tôi đột nhiên đốn ngộ! Tôi cần phải viết, viết ra những kịch bản “ruồi nhặng”, “nhơ nhuốc”, dũng cảm hướng về mục tiêu trở thành một “đại kịch tác gia”. Tôi kính phục trước lời dặn dò của ngài: Đừng vội vàng, cứ thư thả, nhẫn nại giống như ếch xanh ẩn dưới lá sen chờ đợi côn trùng; nghĩ kỹ rồi hãy hạ bút, giống như sự nhanh nhẹn của ếch xanh khi chộp lấy con mồi.

Tại sân bay Thanh Đảo, trước khi chia tay để ngài lên máy bay, ngài còn nói với tôi, hy vọng tôi dùng cách viết thư kể chuyện về người cô của mình cho ngài nghe. Cuộc đời cô tuy chưa kết thúc nhưng đã có thể dùng những cụm từ như “cuồn cuộn như sóng triều”, “lên bổng xuống trầm” để hình dung. Chuyện về cô ấy quá nhiều, tôi không biết là lá thư này phải viết dài đến bao nhiêu trang. Mong ngài tha thứ, mong ngài chấp nhận. Lại nữa, tôi dập xóa liên tục, viết đến đâu thì biết đến đấy, có thể dài đến bao nhiêu thì biết bấy nhiêu. Trong thời đại vi tính mà dùng bút và giấy để viết thư đã trở thành một hoạt động xa xỉ nhưng cũng là một thứ lạc thú. Mong sao lúc đọc thư của tôi, ngài cũng cảm nhận được ở đấy một thứ lạc thú cũ kỹ.

Nhân đây cũng xin báo cho ngài hay, bố tôi vừa gọi điện cho tôi, bảo: Ngày mười lăm tháng giêng, cây mai già đã được ngài gọi là “tài hoa tung hoành” vì hình thù kỳ dị của nó đã nở những đóa hoa màu đỏ. Rất nhiều người đã đến nhà tôi để chiêm ngưỡng cây mai, cô tôi cũng có mặt. Bố tôi nói, ngày ấy tuyết rơi bời bời, mùi thơm của hoa mai tràn ngập trong hoa tuyết. Ngửi được mùi thơm ấy, đầu óc người ta cảm thấy tỉnh táo lạ lùng.

Học sinh của ngài: Khoa Đẩu

Bắc Kinh, ngày 21 tháng 3 năm 2002

1

Thưa tiên sinh,

Ở quê hương tôi có một phong tục vô cùng lâu đời là, khi đứa con được sinh ra, người ta thường đặt tên cho nó theo những bộ phận hoặc là các khí quản trên cơ thể con người. Ví dụ, thích lỗ mũi thì đặt tên là Trần Tị; quan tâm đến mắt thì đặt tên là Triệu Nhãn; thích thú với vai thì đặt tên là Tôn Kiên; rồi Ngô Đại Tràng... thôi thì đủ cả. Phong tục này sinh ra từ đâu, tôi chưa kịp thời tìm hiểu nhưng đại khái là do quan niệm tâm lý “tên xấu thì sống lâu”. Cũng có thể là do bà mẹ nghĩ rằng, con cái là một bộ phận trên cơ thể mình nên mới có tục lệ ấy. Cách đặt tên này hiện nay không còn phổ biến nữa. Những ông bố bà mẹ trẻ không còn thích thú với việc dùng cách đặt tên quái lạ như thế để đặt tên cho con mình. Lúc này, ở chỗ chúng tôi, trẻ con thường mang những cái tên vô cũng ưu nhã của các nhân vật trong phim ảnh cũng như tên của các ngôi sao nổi tiếng Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, thậm chí là Nhật Bản. Những người lỡ mang tên từ những bộ phận trên cơ thể thì tìm mọi cách để đổi tên sao cho đẹp hơn. Đương nhiên cũng có nhiều người không đổi, chẳng hạn như Trần Nhĩ, Trần Mi.

Bố của Trần Nhĩ và Trần Kiên là Trần Tị, bạn học cùng thời tiểu học, đồng thời cũng là bạn thân nhất thời niên thiếu của tôi. Năm 1960, chúng tôi cùng vào lớp một Trường tiểu học Đại Dương Lan. Đó là thời kỳ đói kém và những gì lưu ấn tượng sâu sắc nhất trong ký ức của tôi đều gắn liền với chuyện ăn. Chẳng hạn như tôi đã từng kể đến chuyện ăn than đá của mình. Nhiều người cho rằng tôi phịa chuyện một cách tùy tiện nhưng tôi có thể dùng danh nghĩa của cô tôi để thề rằng: Đó không hề là chuyện phịa mà là một chuyện có thật hoàn toàn.

Đó là một loại than đá chất lượng rất tốt do mỏ than Long Khẩu sản xuất, sáng lấp lánh, nếu phẳng một tí thì nó có thể chiếu được cả mặt người. Sau này tôi chưa bao giờ gặp lại một loại than đá nào sáng đến mức ấy. Người đánh xe trong thôn là Vương Cước đánh chiếc xe ngựa để chuyển than lên huyện lỵ. Vương Cước đầu vuông, trán dồ, miệng rộng; khi nói năng đôi mắt sáng trưng, mặt đỏ rần. Con trai ông ấy là Vương Can, con gái Vương Đảm (cũng là gan và mật!) đều là bạn học của tôi. Can và Đảm là song sinh cùng trứng nhưng Can có thân hình vô cùng cao lớn, còn Đảm lại là một đứa con gái hình như không bao giờ lớn lên được. Nói có vẻ khó nghe một tí, cô ấy là một người lùn. Người ta kháo nhau rằng, khi còn ở trong bụng mẹ, Can đã dùng sức mạnh tranh hết phần dinh dưỡng của Đảm, do nên Đảm mới trở thành hình dạng như bấy giờ. Khi Vương Cước dỡ than xuống khỏi xe cũng chính là lúc tan học, chúng tôi đứa nào cũng mang túi xách sau lưng, quây chung quanh mà cười đùa. Vương Cước dùng một chiếc xẻng thật to xúc từng xẻng than đổ xuống đất, từng hòn than xếp chồng lên nhau, tiếng kêu rào rào rất vui tai. Trên cổ Vương Cước đã lấp lóa mồ hôi. Ông ấy dừng tay nới lỏng giải thắt lưng bằng vải quấn quanh bụng. Lúc ấy, Vương Cước mới nhận ra trong đám trẻ có Can và Đảm, bèn nạt lớn: Về nhà ngay, đi cắt cỏ! Vương Đảm quay người chạy một mạch. Nó chạy, thân hình lắc lư, hầu như không có trọng tâm chẳng khác nào một đứa bé mới bắt đầu tập đi, trông rất dễ thương. Còn Vương Can thì lùi lại sau lưng bạn bè, nhưng không chịu về. Lúc nào Vương Can cũng cảm thấy rất tự hào về công việc của bố. Học sinh lúc này, dù bố có lái máy bay cũng chưa chắc đã cảm nhận được sự tự hào của Vương Can lúc ấy. Chiếc xe ngựa to đùng, khi chạy hai bánh nghiến xuống đất làm tung lên những làn bụi, kiêu hùng thay! Kéo xe là chú ngựa vốn chuyên kéo pháo kéo đạn trong quân đội, nghe đâu cũng đã từng lập nên nhiều chiến công, trên mông vẫn còn có dấu vết như bị bỏng. Phụ sức cho chú ngựa này còn có một con la, được nối với càng xe bằng một sợi dây dài. Đây là một con la đực, tính khí rất hung hãn, nghe đâu rất thích đá và cắn người. Tuy nó hung hãn thật nhưng sức khỏe của nó thật đáng nể, lại có bước chạy rất nhanh. Trong thôn cũng chỉ có mỗi một mình Vương Cước mới có thể trị được con la hung hãn này. Người trong thôn rất mê công việc của Vương Cước nhưng hễ nhìn thấy con la thì lòng ham muốn của họ bị dập tắt ngay. Con la này đã từng cắn hai đứa trẻ, một là Viên Tai (lại là quai hàm) con trai của Viên Liễm (Mặt - Mặt đẻ ra con là Quai hàm! Quá hay!), hai là Vương Đảm. Khi chiếc xe dừng lại trước nhà Vương Đảm, nó chạy đến trước đầu con la để đùa, bị con la ngọm một miếng sứt trán. Chúng tôi rất kính trọng Vương Cước. Ông ấy cao một mét chín, hai vai rất rộng, sức khỏe như trâu, cái trục lăn lúa nặng đến hai trăm cân mà chỉ đưa hai tay nắm lấy, chỉ cần “hự” một tiếng là đã đưa quá đỉnh đầu. Điều khiến chúng tôi đặc biệt kính phục là chiếc roi thần trong tay ông ấy. Khi con la nổi điên cắn sứt trán Vương Đảm, ông ấy kéo nhanh cái phanh xe rồi nhảy xuống khỏi càng xe, vung roi lên quật vun vút vào cái mông con la. Đúng là một trận đòn kinh hoàng, mỗi tiếng roi vút xuống là một lằn máu hiện ra. Ban đầu, con la còn lồng lộn quẫy đạp, nhưng sau một lát thì chỉ còn biết run rẩy chịu đòn, hai chân trước từ từ quỳ xuống đất, cái mồm dúi sâu vào đất bùn, cái mông chổng lên trời chịu trận. Sau đó, chỉ có bố Viên Liễm của Viên Tai mới dám đứng ra khuyên bảo: “Thôi nào lão Vương, tha cho nó lần này!” Lúc ấy, Vương Cước mới ngừng trận đòn phục hận. Viên Liễm là Bí thư chi bộ Đảng, là quan chức cao nhất của thôn, Vương Cước không dám không nghe lời ông ta. Sau khi con la cắn sứt trán Vương Đảm, chúng tôi chờ đợi một màn kịch vui tiếp theo nhưng sau đó thì Vương Cước không đánh con la roi nào nữa. Ông ấy vốc một nắm vôi ở đống vôi bên vệ đường ép chặt lên trán Vương Đảm rồi ôm con bé về nhà. Vương Cước không đánh con la nữa, nhưng về đến nhà lại quất vợ một roi, đá Vương Can một cái. Chúng tôi vẫn không ngừng bàn tán về con la điên có bộ lông màu tro ấy. Nó hơi gầy, để lộ cả xương sườn ra ngoài, bên cạnh hai mắt có hai hốc lõm rất sâu, chúng tôi nghĩ là có thể nhét cả một quả trứng gà vào đấy. Ánh mắt của nó trông có vẻ ưu tư, có thể rơi nước mắt khóc bất kỳ lúc nào. Chúng tôi không thể nào hiểu được một con la gầy như vậy mà lại có thể có sức khỏe tiềm tàng đến như vậy. Khi chúng tôi vừa bàn tán xôn xao vừa tiếp cận với con la, Vương Cước đã dừng xẻng, nhìn chúng tôi bằng đôi mắt rất nghiêm khắc và cảnh giác. Không đứa nào bảo đứa nào, chúng tôi đồng loạt lùi bước trước ánh mắt ấy. Đống than đá trước cửa nhà ăn của trường từ từ cao lên, than trên xe cũng đã vơi dần. Không hẹn mà tất cả chúng tôi cũng chun mũi bởi đã ngửi thấy một mùi thơm là lạ giống như mùi hương tùng đang cháy, lại vừa như mùi đậu nướng. Khứu giác nhanh nhạy khiến thị giác chúng tôi đồng loạt tập trung vào đống than lấp lánh. Công việc của Vương Cước đã xong. Ông ấy quát to ra lệnh cho ngựa và lừa kéo xe trống ra khỏi khuôn viên trường. Chúng tôi không đuổi theo chiếc xe như mọi khi, vừa cười đùa vừa tránh những làn roi của Vương Cước vì sợ vô tình trúng phải đầu. Ánh mắt chúng tôi không rời đống than và bắt đầu dò dẫm từng bước đi về phía ấy. Lão Vương, đầu bếp nhà ăn đang xách hai thùng nước nặng đang xiêu xiêu vẹo vẹo đi tới. Con gái ông ta là Vương Nhân Mỹ cũng học cùng lớp với chúng tôi, sau đó thì trở thành vợ tôi. Lúc ấy, cô ấy được mệnh danh là “đứa ít dùng khí quan”, bởi đầu bếp Vương là người có văn hóa. Ông ấy vốn là Trạm trưởng trạm chăn nuôi gia súc của công xã, nhưng vì phạm sai lầm là ăn nói không được lòng cấp trên nên bị đuổi việc, cho về làng. Ánh mắt lão Vương nhìn chúng tôi đầy vẻ nghi ngờ. Có lẽ ông ta nghi là chúng tôi sẽ xông vào nhà bếp để ăn cướp thức ăn. Do vậy, ông ta quát lớn: “Cút! Bọn thỏ con này! Ở đây không có cái cho chúng mày ăn đâu, về nhà mà bú mẹ đi!”. Đương nhiên là chúng tôi nghe thấy những lời ông ấy nói và đương nhiên là cũng có nghĩ đến lời đề nghị của ông ấy. Nhưng rõ ràng đề nghị của ông ta chẳng khác nào đang chửi chúng tôi. Chúng tôi đều là những đứa trẻ từ bảy đến tám tuổi, lẽ nào còn bú mẹ? Cho dù chúng tôi còn muốn bú đi nữa thì mẹ chúng tôi đều đang đói đến độ dở sống dở chết, vú dính vào xương, lấy đâu ra sữa để chúng tôi bú? Nhưng chẳng đứa nào thèm lý luận với lão Vương. Chúng tôi đứng trước đống than, cúi gập người xuống chẳng khác nào những nhà địa chất học phát hiện ra những khoáng thạch kỳ dị. Mũi chúng tôi hấp háy trông chẳng khác nào mũi của những con chó đã phát hiện ra thứ có thể ăn được trong đống rác bẩn. Nói đến đây, trước tiên là cần phải cảm tạ Trần Tị, sau đó là cảm tạ Vương Đảm - không biết con bé này đã quay lại từ khi nào. Đầu tiên là Trần Tị nhặt lên một thỏi than đá, đưa lên mũi hít hít, nhăn mặt cau mày như đang suy tư về một vấn đề gì đó trọng đại lắm. Mũi của thằng này vừa to vừa cao, là đối tượng để chúng tôi chọc ghẹo. Suy tư trong giây lát rồi bằng một động tác thật mạnh mẽ, nó đập mạnh thỏi than trong tay xuống một thỏi than lớn khác. Tất nhiên là thỏi than trên tay nó vỡ ra và mùi thơm lạ lạ ấy lập tức bốc lên thật mạnh. Nó nhặt lên một thỏi nhỏ, Vương Đảm cũng nhặt lên một thỏi. Trần Tị dùng lưỡi liếm liếm vào thỏi than như muốn thử mùi vị, đôi mắt đảo một vòng rồi nhìn chúng tôi. Vương Đảm cũng bắt đầu liếm, rồi cũng nhìn chúng tôi. Sau đó, hai đứa chúng nó nhìn nhau, mỉm cười rồi không hẹn mà cả hai đồng thời đưa thỏi than vào giữa hai hàm răng, cẩn thận, từ tốn cắn một miếng nhỏ, nhai nhóp nhép, sau đó lại cắn thêm miếng nữa, lớn hơn, nhai cũng mạnh hơn. Vẻ hưng phấn ngay lập tức xuất hiện trên mặt hai đứa. Cái lỗ mũi to tướng của Trần Tị đã đỏ rực lên, hai bên mồ hôi tuôn ra lấm tấm, còn cái lỗ mũi nho nhỏ của Vương Đảm lại biến thành màu đen vì đang bị bụi than bám vào. Chúng tôi mê muội vì những âm thanh nhai than giòn tan phát ra từ miệng của hai đứa, kinh ngạc nhìn chúng nuốt than vào bụng. Trần Tị và Vương Can đã nuốt than vào bụng! Chúng đã ăn than! Trần Tị hạ giọng thì thầm: “Chúng mày à, ngon lắm!”. Vương Đảm cũng kêu lên: “Anh hai! Mau ăn đi, ngon lắm!”. Trần Tị tiếp tục nhặt một thỏi nữa và lần này thì nhét hết vào miệng nhai rau ráu. Vương Đảm nhặt một thỏi đưa cho Vương Can… Chúng tôi bắt đầu học theo Trần Tị và Vương Đảm, đua nhau nhặt những thỏi than nho nhỏ, dùng răng cắn một mảnh nhỏ, từ từ thưởng thức mùi vị của nó, tuy hơi đắng chát nhưng mùi vị không đến nỗi nào. Trần Tị rất chí công vô tư nhặt lên một thỏi than thật to, nói lớn: “Chúng mày à, ăn chỗ này mới ngon!”. Vừa nói, nó vừa chỉ vào chỗ sáng lấp lánh trông giống như pha lê, màu hơi vàng của hòn than - “Chỗ này có mùi hương tùng, ngon hơn!”. Chúng tôi đã được dạy những bài học về khoa học tự nhiên nên biết được rằng, than được sinh ra từ những cánh rừng bị chôn vùi dưới đất từ nhiều thế kỷ trước. Thầy dạy những môn khoa học tự nhiên của chúng tôi là hiệu trưởng Ngô Kim Bảng. Chúng tôi không tin lời hiệu trưởng, cũng không tin những gì viết trong sách giáo khoa. Rừng có màu xanh, tại sao lại biến thành than đá có màu đen? Chúng tôi đều cho rằng, sách giáo khoa và thầy hiệu trưởng chỉ đặt điều nói vu vơ. Phát hiện ra trong than đã có mùi tùng, chúng tôi mới tin là thầy hiệu trưởng không hề lừa chúng tôi, sách giáo khoa cũng không hề nói bậy. Lớp tôi có ba mươi lăm học sinh, trừ mấy đứa con gái ra, tất cả đều có mặt lúc ấy. Mỗi đứa chúng tôi cầm một thỏi than ra sức mà cắn, nhai rau ráu. Mặt đứa nào đứa nấy đều biểu lộ một sự hưng phấn tột cùng, đồng thời cũng pha một chút thần bí. Hình như chúng tôi đang tiến hành biểu diễn một trò chơi cổ quái nào đó. Riêng Tiêu Hạ Thần (lại là môi dưới) chỉ nhặt một thỏi than cầm trên tay, lật qua lật lại xem xét mà không ăn, nét mặt biểu lộ sự khinh miệt. Nó không ăn vì nó không đói. Nó không đói vì bố nó là người trông coi kho lương thực của công xã. Đầu bếp Vương đứng há miệng nhìn chúng tôi kinh ngạc. Ông ta chạy đến, hai tay còn dính đầy bột mì. Trời ạ! Tay ông ta dính đầy bột mì! Lúc ấy, những người báo cơm tại nhà ăn của trường ngoài hiệu trưởng và giáo viên chủ nhiệm của chúng tôi ra còn có hai cán bộ công xã được biệt phái về thôn chúng tôi công tác ngắn ngày. Lão Vương kêu lên: “Các cháu! Các cháu làm gì thế? Các cháu… ăn than? Than cũng có thể ăn được sao?”. Vương Đảm đưa một cánh tay nhỏ tí đang cầm một thỏi than lên, thì thầm: “Chú Vương à, ngon lắm! Cho chú một thỏi để thưởng thức…”. Lão Vương lắc đầu, nói: “Vương Đảm, cháu là con gái mà lại theo đuôi mấy ông tướng này làm chuyện bậy bạ sao?”. Vương Đảm cắn một miếng than, nói: “Ngon thật mà chú!”. Lúc ấy trời đã sắp tối, mặt trời đã lặn ở phía chân trời phía tây. Hai vị cán bộ công xã báo cơm trong nhà ăn đang đạp xe phóng tới và cả hai đã bị chúng tôi làm cho chú ý. Lão Vương đang vung đòn gánh lên để xua chúng tôi. Vị cán bộ công xã họ Nghiêm - hình như là Phó chủ nhiệm thì phải - lên tiếng gọi lão Vương, sắc mặt trông thật khó coi, phẩy tay một cái và bước vội vào nhà ăn.

Sáng hôm sau, chúng tôi ngồi trong lớp học vừa nghe cô giáo giảng bài vừa nhâm nhi than. Miệng đứa nào cũng đen nhẻm, bột than lấm tấm. Không chỉ có con trai ăn than, mấy đứa con gai ngày hôm qua chưa kịp tham dự bữa đại tiệc ấy cũng đã bắt đầu nhâm nhi than dưới sự hướng dẫn của Vương Đảm. Con gái của đầu bếp Vương - vợ đầu của tôi - Vương Nhân Mỹ cũng ăn rất nhiệt tình. Lúc này nghĩ lại, có lẽ lúc ấy cô ấy bị viêm lợi nên khi ăn than, miệng cô ấy tóe đầy máu. Cô giáo Vu đang viết bảng, dừng tay lại nhìn chúng tôi. Đầu tiên là cô chất vấn con trai mình, tức bạn học của tôi Lý Thủ (lại là Tay): “Thủ, con đang ăn gì vậy?” - “Mẹ à, chúng con đang ăn than!”. Vương Đảm đang ngồi ở hàng ghế đầu, cầm thỏi than giơ cao lên và hét: “Cô giáo à, chúng em đang ăn than, cô có muốn thử một tí không?”. Cho dù con bé đã cố gắng gào to nhưng âm thanh thoát ra từ miệng chẳng khác nào tiếng mèo kêu. Cô giáo Vu rời khỏi bục giảng, nhận thỏi than từ tay Vương Đảm, đưa lên mũi ngửi ngửi. Lâu lắm, cô mới đưa thỏi than lại cho Vương Đảm, không nói lời nào, quay trở lại bục giảng mới lên tiếng: “Các em à, bữa nay chúng ta học bài sáu, “Quạ đen và cáo”. Quạ có được một miếng thịt, vô cùng đắc ý đậu trên cây. Cáo ở dưới đất nói với quạ: Này cô quạ ơi, tiếng hát của cô hay vô cùng. Cô vừa cất tiếng hát là cả thế giới loài chim đều phải ngậm miệng. Quạ bị những lời tán tụng của cáo làm cho mê mẩn tâm thần, há miệng định hát thì, Vù! Miếng thịt đã rơi vào mõm cáo đang chờ ở dưới”. Cô giáo Vu đọc bài và bảo chúng tôi đọc theo, những cái mồm đen nhẻm của chúng tôi vừa nhai than vừa đọc bài khóa theo cô.

Tuy là người có văn hóa nhưng do nhập gia tùy tục, cô Vu vẫn đặt tên cho con trai của mình là Thủ. Sau này, Lý Thủ đỗ rất cao vào Học viện Y khoa, sau khi tốt nghiệp thì về làm bác sĩ khoa ngoại bệnh viện huyện. Trong lúc cắt cỏ, Trần Tị đã cắt đứt cả bốn ngón tay, Lý Thủ đã nối lại cho cậu ta được ba ngón.

2

Tại sao Trần Tị lại có cái mũi to đến khác thường như vậy? Chuyện này có lẽ chỉ có mẹ cậu ta là có thể biết mà thôi.

Bố Trần Tị là Trần Ngạch (bố là Trán thì có con là Mũi!), tên tự là Thiên Đình, là người duy nhất trong thôn có hai người vợ. Trần Ngạch là người có chữ. Trước giải phóng nhà ông ta có hàng trăm mẫu ruộng tốt, lại có lò nấu rượu, làm ăn buôn bán ở Cáp Nhĩ Tân. Vợ lớn của ông ta là người trong thôn, đẻ được bốn đứa con gái. Trước ngày giải phóng một thời gian, Trần Ngạch đã bỏ trốn. Sau giải phóng, có lẽ là khoảng năm 1951, Viên Liễm mới dẫn theo hai người dân binh đến tận Đông Bắc lôi ông ta quay về. Khi chạy trốn, Trần Ngạch chỉ chạy một mình, để vợ và mấy đứa con gái ở lại, nhưng khi trở về lại mang theo một người đàn bà. Người đàn bà này có tóc vàng và đôi mắt lam, khoảng độ hơn ba mươi tuổi, họ Ngãi tên Liên. Bà ta ôm trong lòng một con chó nhỏ có bộ lông loang lổ. Bởi người đàn bà này đã kết hôn với Trần Ngạch vào thời điểm trước giải phóng nên ông ta đương nhiên có hai bà vợ một cách hợp pháp. Mấy người bần cố không lấy được vợ trong thôn rất bất mãn với Trần Ngạch vì ông ta có có tới hai vợ, đã từng nửa đùa nửa thật bảo Trần Ngạch rằng, ông ta hãy nhường bớt một bà vợ để cho họ dùng. Lúc ấy, Trần Ngạch chỉ biết méo miệng, không biết là đang cười hay đang khóc. Ban đầu, hai bà vợ của Trần Ngạch ở cùng một mái nhà, sau đó vì chửi rồi đánh nhau ầm ĩ đến nỗi chó gà cũng phải phát hoảng. Được sự đồng ý của Viên Liễm, Trần Ngạch bố trí bà vợ hai vào ở trong hai gian phòng phía chái tây của trường học. Trường học vốn là lò nấu rượu trước đây của ông ta. Hai gian phòng này cũng chính là bất động sản của ông ta. Trần Ngạch đã thỏa thuận một hiệp ước với hai bà vợ rằng, sẽ luân chuyển chỗ ở theo hình thức luân lưu. Con chó do người đàn bà tóc vàng ôm từ Cáp Nhĩ Tân về đã bị chó trong thôn cắn đến chết. Sau khi Ngãi Liên vác cái bụng thè lè đi chôn con chó không lâu thì đẻ ra Trần Tị. Do vậy mới có người nói Trần Tị là do con chó có bộ lông lốm đốm ấy đầu thai chuyển thế mà thành. Cái mũi của nó rất tinh, liệu có liên quan đến chuyện này chăng?

Ngày ấy, cô tôi đã ra thành phố để học kỹ thuật đỡ đẻ mới, trở thành người đỡ đẻ chuyện nghiệp ở quê tôi. Đó là năm 1953.

Năm 1953, dân ở quê tôi vẫn không chịu chấp nhận kiểu đỡ đẻ mới. Nguyên nhân cơ bản là cũng do mấy “lão bà bà” đơm điều đặt chuyện sau lưng. Họ nói, trẻ con được sinh ra theo kiểu mới này sẽ bị bệnh phong. Tại sao mấy “lão bà bà” lại đơm điều đặt chuyện như vậy? Đơn giản thôi, bởi vì một khi kỹ thuật đỡ đẽ mới được phổ biến, con đường tài lộc của họ cũng chấm dứt. Khi đỡ đẻ cho một đứa bé, chí ít họ cũng được ăn một bữa cơm ra trò tại nhà sản phụ, ra về còn có hai chiếc khăn vải và chục quả trứng gà xem như tiền thù lao. Nhắc đến mấy “lão bà bà “ này là cô tôi hận đến thấu xương, hận đến nghiến răng tím mặt. Cô nói, không biết có bao nhiêu đứa hài nhi, sản phụ chết trong tay của mấy “lão bà bà” này. Những gì mà cô tôi kể đã để lại ấn tượng vô cùng kinh khủng trong đầu óc chúng tôi. Mấy “lão bà bà” này lúc nào cũng để mười móng tay thật dài, đôi mắt lúc nào cũng lấp lánh một thứ ánh sáng màu xanh như lửa ma trơi, cái mồm lúc nào cũng phả ra những mùi hôi thối. Cô còn nói, họ thường dùng chày cán bột đè lên bụng sản phụ, lại còn dùng những tấm giẻ rách nhơ bẩn nhét vào miệng sản phụ trông chẳng khác nào họ sợ là đứa bé sẽ tòi ra từ miệng của người mẹ vậy. Cô nói, mấy “lão bà bà” này không có một chút kiến thức nào về giải phẫu học, về căn bản là không hiểu một tí gì về kết cấu sinh lý của phụ nữ, gặp phải những ca đẻ khó, họ thọc cả bàn tay vào trong lỗ đẻ để mà khuấy, thậm chí là cũng lúc lôi cả thai nhi và tử cung ra ngoài! Trong một khoảng thời gian dài, nếu cho phép tôi chọn lựa kẻ nào đáng hận nhất để cho một viên đạn thì tôi chẳng do dự gì mà nói: “Lão bà bà”. Sau đó, tôi mới biết là cô tôi đã quá cường điệu chuyện này để nó trở thành đáng sợ. Loại “lão bà bà” ngu muội, dã man ấy tất nhiên cũng có tồn tại thực tế. Nhưng những “lão bà bà” có kinh nghiệm, dựa vào kinh nghiệm bản thân để nhận ra những bí mật trong cơ thể người đàn bà cũng từng tồn tại. Thực ra bà nội tôi cũng là một “lão bà bà”. Bà nội tôi là một “lão bà bà” chủ trương “vô vi”( ). Bà cho rằng dưa chín thì dưa tự rụng, cho rằng một “lão bà bà” giỏi chỉ cần động viên khích lệ sản phụ, chờ cho đưa trẻ sinh ra xong, dùng kéo cắt cuống rốn, bôi lên đó chút vôi sống rồi buộc lại là xong. Nhưng bà nội tôi lại là một “lão bà bà” không được người ta hoan nghênh cho lắm. Ai ai cũng nói bà làm biếng. Hình như người ta chỉ thích những “lão bà bà” tay chân cuống cuồng, kêu réo om sòm, mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng như sản phụ, như thế họ mới yên tâm hơn.

Cô tôi là con gái của ông nội tôi. Ông nội tôi là bác sĩ trong Bát Lộ Quân. Ban đầu, ông học Trung y, sau khi tham gia quân đội thì theo học Tây y với bác sĩ Bạch Cầu Ân. Sau khi Bạch Cầu Ân hy sinh, ông nội tôi rất đau đớn, đau đớn đến độ ốm liệt giường, nghĩ rằng mình không xong rồi nên nói rất nhớ nhà, nhớ bố mẹ. Tổ chức đã phê chuẩn cho ông về nhà dưỡng bệnh. Khi ông trở về nhà, bà cố nội tôi vẫn còn sống. Vừa bước vào cổng là ông tôi đã ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng quen thuộc của cháo đậu xanh. Bà cố tôi đang nấu cháo đậu xanh, con dâu chạy tới định giúp đỡ mẹ chồng thì bị bà dùng gậy gạt sang một bên. Ông nội ngồi ở ngạch cửa chờ đợi trong lo lắng. Cô tôi nói rằng, cô vẫn còn nhớ lúc ấy, bà nội tôi bảo cô gọi “bố”. Cô không chịu gọi mà lại chạy nấp sau lưng bà.

Cô tôi nói, thuở nhỏ cô đã nghe mẹ và bà nội, tức là bà nội và bà cố của tôi nói nhiều đến bố, cuối cũng đã gặp nhưng lại cảm thấy quá đỗi lạ lẫm. Cô nói: “Ông nội các cháu ngồi ở ngạch cửa, sắc mặt vàng võ, đầu tóc dài và rối bù, rận bò lổm ngổm trên cổ, mặc chiếc áo bông cũ đến độ bông lòi cả ra ngoài”. Cô nói, bà nội của cô, tức là bà cố của tôi vừa thổi lửa vừa khóc. Cháo đậu xanh đã chín. Ông nội đói đến độ không kịp để cho nguội, vừa thổi vừa húp sồn sột. Bà nội cô nói: “Con trai ơi, từ từ thôi, đừng vội, trong nồi hãy còn!”. Cô tôi nói, hai tay ông nội tôi run lắm. Húp xong một bát, lại thêm một bát nữa, xong bát thứ hai thì tay ông không còn run nữa. Mồ hôi chảy tràn trên mặt, trên cổ ông, nước mắt ông cũng đã bắt đầu ứa ra nhưng gương mặt đã có chút huyết sắc. Cô tôi nói, cô nghe thấy những tiếng òng ọc vang lên từ trong bụng ông nội, hình như những húp cháo đang bắt đầu quẫy động trong đó. Một tiếng đồng hồ sau, ông nội đi vào nhà xí, bên ngoài chỉ nghe những âm thanh khó nghe kéo dài, cô nói, hình như ruột non ruột già của ông nội đã tuồn cả ra ngoài. Sau đó thì ông nội tôi cũng dần dần trở lại bình thường. Hai tháng sau, tinh thần lẫn sức lực đều có thể so sánh với rồng với hổ.

Tôi nói với cô rằng, tôi cũng đã từng đọc được nhũng chuyện tương tự như vậy trong “Nho lâm ngoại sử”. Cô hỏi: “Nho lâm ngoại sử” là cái gì? Tôi bảo, đó là một tác phẩm văn học cổ điển. Cô trừng mắt nhìn tôi, nói: “Ngay cả trong tác phẩm văn học cũng có chuyện này thì cháu còn nghi ngờ cái nỗi gì?”

Sau khi thoát khỏi cơn bệnh, ông nội định trở lại núi Thái Hành để tìm bộ đội. Bà cố nói: “Con trai à, mẹ không còn sống được mấy ngày nữa. Con chờ mẹ đi trước rồi con hãy đi”. Bà nội là con dâu nên không tiện nói gì, chỉ bảo cô tôi nói. Cô nói: “Bố à, mẹ con nói, bố đi tìm bộ đội cũng được. Nhưng trước khi đi hãy để lại cho mẹ thêm một đứa em trai nữa”.

Lúc ấy, người của Bát Lộ Quân ở khu Giảo Đông đã tìm đến nhà, động viên ông nội gia nhập vào đơn vị họ. Ông nội là đệ tử của Bạch Cầu Ân nên cũng khá nổi tiếng. Ông nói: “Tôi là người của quân khu Phổ Sát”. Người của quân khu Giảo Đông nói: “Đều là người của Đảng Cộng sản, làm việc chỗ nào mà chẳng giống nhau? Ở chỗ chúng tôi còn đang thiếu những người như ông. Lão Vạn à, cho dù thế nào, chúng tôi cũng giữ anh cho bằng được. Tư lệnh Hứa đã nói, nếu dùng kiệu tám người khiêng mà không mời được anh thì cứ dùng dây thừng mà trói lại. Tiên binh hậu lễ, lão đây sẽ đặt đại tiệc để mời anh ta”. Như thế, ông nội đành phải ở lại Giảo Đông, trở thành người sáng lập nên bệnh viện dưới lòng đất của Bát Lộ Quân Tây Hải.

Đúng là bệnh viện này nằm sâu dưới lòng đất, địa đạo thông với phòng, phòng thông với địa đạo, có phòng khử độc, phòng điều trị, phòng mổ, phòng nghỉ dưỡng… Những di tích này vẫn còn bảo tồn cho đến bây giờ tại thôn Chúc Gia, thị trấn Vu Thoản, thành phố Lai Châu. Bà Vương Tú Lan lúc này đã tám mươi tám tuổi, ngày ấy từng làm y tá dưới quyền của ông nội lúc này vẫn còn rất khỏe kể, có mấy gian nhà nghỉ dưỡng có lỗ thông hơi thông với giếng nước. Lần ấy, một cô gái trẻ ra giếng múc nước, không hiểu vì sao gàu nước của mình bị mắc cứng giữa lưng chừng giếng, cúi đầu nhìn xuống giếng mới thấy một anh chàng thương binh Bát Lộ Quân trẻ măng đang ló mặt ra khỏi thành giếng nhăn răng cười làm mặt khỉ với cô ta.

Những y thuật cao siêu của ông nội nhanh chóng được lan truyền trong toàn quân khu Giảo Đông. Mảnh đạn trong vai của tư lệnh Hứa là do ông nội tôi mổ lấy ra. Còn vợ chính ủy Lê thì bị một ca đẻ khó cũng do ông tôi mổ, cả mẹ con đều bình an. Ngay cả tư lệnh quân đội Nhật đóng ở thành Bình Độ là Sugitani cũng nghe đến tiếng tăm của ông. Ông ta xuất quân càn quét, đang ngồi trên lưng con ngựa Đại Dương thì bị vướng phải mìn, con ngựa ngã nhào. Ông ta bỏ ngựa chạy thục mạng. Ông tôi đã cứu chữa cho con ngựa mạnh khỏe trở lại như xưa và nó trở thành con ngựa của đoàn trưởng Hạ. Con ngựa này nhớ chủ cũ nên chỉ một thời gian ngắn đã cắn đứt dây thừng chạy về thành Bình Độ. Sugitani thấy con ngựa quý quay lại thì vừa mừng vừa kinh ngạc, ra lệnh cho Hán gian bí mật thăm dò mới biết là Bát Lộ Quân đã lập một bệnh viện dưới lòng đất ngay trước mắt ông ta. Bệnh viện trưởng là thần y Vạn Lục Phủ, người đã từng chữa trị cho con tuấn mã của ông ta. Tư lệnh Sugitani vốn xuất thân là bác sĩ nên rất tôn trọng lương y, muốn chiêu hàng ông nội tôi. Do vậy Sugitani đã học theo quỷ kế trong “Tam Quốc diễn nghĩa”( ), bí mật sai người đến làng tôi bắt bà cố, bà nội và cô tôi đưa về thành Bình Độ để làm con tin, rồi sau đó sai người đem một lá thư đến trao tận tay ông nội tôi.

Ông nội tôi là một đảng viên Cộng sản có ý chí vô cùng kiên định, xem xong lá thư của Sugitani thì vò viên lại và vất đi. Chính ủy của bệnh viện đã nhặt lá thư đó và trình lên quân khu. Tư lệnh Hứa và chính ủy Lê cùng viết một lá thư gửi cho tư lệnh Sugitani, phẫn nộ mắng ông này là tiểu nhân. Trong thư nói, nếu Sugitani dám động đến một sợi lông ba người thân của Vạn Lục Phủ thì quân khu Giảo Đông sẽ tập hợp lực lượng toàn quân khu để san thành Bình Độ thành bình địa.

Cô tôi nói, cô và bà cố, bà nội tôi sống trong thành Bình Độ được ba tháng, có cái ăn có cái uống, không bị ức hiếp gì. Cô nói, tư lệnh Sugitani là một bạch diện thư sinh, đeo một đôi kính có gọng màu trắng, có bộ ria hình chữ bát, dáng vẻ rất phong lưu, nói tiếng Trung rất lưu loát. Ông ấy gọi bà cố tôi là bác, gọi bà nội tôi là phu nhân và cô tôi là cháu. Cô tôi nói, cô không có ấn tượng xấu với vị tư lệnh này. Đương nhiên, đó cũng chỉ là những lời mà cô tôi nói với người nhà. Với người ngoài, cô không nói như thế. Với người ngoài, cô nói cô và bà nội, bà cố bị người Nhật hành hạ đủ điều, dùng mọi cách để uy hiếp nhưng cả ba đều không hề dao động.

Thưa tiên sinh,

Chuyện về ông nội tôi kể đến ba ngày ba đêm vẫn không hết. Nếu có điều kiện thời gian, tôi sẽ tiếp tục kể với ngài. Nhưng cái chết của ông nội thì tôi không thể không kể ra đây. Cô tôi nói, ông nội tôi bị quân địch thổi hơi độc xuống địa đạo mà chết trong khi đang mổ cho thương binh. Tài liệu lịch sử của huyện cũng ghi như vậy. Nhưng cũng có người thầm thì với nhau rằng, ông nội giắt bên hông tám quả lựu đạn, một mình cưỡi la đến thành Bình Độ, muốn biến thành anh hùng cứu con gái, vợ và mẹ, nhưng không may rơi vào trận địa mìn liên hoàn của dân quân Triệu Gia Câu mà chết. Tuyên truyền tin tức này là người họ Tiêu, tên là Thượng Thần. Ông này từng làm nhân viên cứu thương tại bệnh viện Tây Hải. Ông này tính tình rất cổ quái, nóng lạnh bất thường, sau giải phóng làm nhân viên bảo quản kho lương thực của công xã, nhân vì phát minh ra một loại thuốc độc diệt chuột vô cùng hữu hiệu nên báo chí thi nhau đưa tin. Cái tên Thần vốn có nghĩa là “môi trên” được đổi thành Thuần. Sau đó người ta mới phát hiện ra rằng, trong thành phần chủ yếu của loại thuốc diệt chuột ấy, ông ta đã dùng một chất nông dược kịch độc mà nhà nước đã nghiêm cấm sử dụng. Ông này với cô tôi có một mối thù thâm căn cố đế, cho nên những gì ông ta nói chỉ là chuyện đơm đặt. Ông ta nói với tôi: “Ông nội mày không nghe mệnh lệnh của tổ chức, không lo lắng cho thương binh, muốn theo đuổi chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Để có đủ can đảm làm chuyện ấy, ông ấy đã uống sạch hai lít rượu sắn, say đến độ không biết trời đất gì nữa, do vậy mới vướng vào trận địa mìn của dân quân”. Tiêu Thượng Thần nhe đôi hàm răng vàng như nghệ ra, nói với tôi bằng một giọng hết sức hoan hỉ: “Sau đó người ta dùng đến hai chiếc sọt mới đưa được ông ấy và con lừa ra khỏi trận địa, trong sọt có tay người và cẳng la, có ruột người và ruột la không phân biệt được, người ta đành lòng phải vất tất cả vào chúng một cái quan tài. Gỗ quan tài rất tốt, là gỗ lan trưng dụng của một nhà giàu”. Khi tôi đem những lời của lão Tiêu kể lại với cô, đôi mắt cô trợn tròn vo, nghiến răng mím lợi nói: “Rồi sẽ có một ngày, chính tay cô sẽ lột da lão tạp chủng này!”

Cô tôi lúc nào cũng nói: “Cháu à, cháu có thể không tin bất cứ cái gì, nhưng cháu phải tin một điều, ông nội là anh hùng kháng Nhật, là liệt sĩ cách mạng! Trên núi Anh Linh có mộ của ông. Trong Nhà tưởng niệm liệt sĩ vẫn còn trưng bày con dao mổ và đôi giày của ông. Đó là đôi giày anh hùng, là đôi giày mà bác sĩ Bạch Cầu Ân trước khi chết đã tặng lại cho ông”.

3

Thưa tiên sinh,

Tôi bận bịu với những chuyện có liên quan đến ông nội chẳng qua cũng chỉ là những lời dẫn để kể về cô tôi.

Cô sinh ngày 13 tháng 6 năm 1937, theo âm lịch thì đó là ngày 5 tháng 5, nhũ danh là Đoan Dương, còn tên đi học là Vạn Tâm. Tên của cô là do ông nội đặt, vừa tôn trọng tập tục của quê hương nhưng đồng thời cũng có ý tứ rất sâu xa. Sau khi ông nội hy sinh, Quân khu Giảo Đông dựa vào những tin tức nội tuyến tìm mọi cách cứu bà cố, bà nội và cô ra khỏi cảnh cá chậu chim lồng trong lòng địch. Thế là bà cố, bà nội và cô được đưa ra khu giải phóng. Ở đó cô học trường Tiểu học Kháng Nhật. Bà nội được nhận vào xưởng may quân trang quân dụng, chuyên may giày. Sau giải phóng, con cái liệt sĩ như cô tôi có rất nhiều cơ hội để bay nhảy cao hơn, xa hơn. Nhưng bà nội không đành lòng từ bỏ quê hương chôn nhau cắt rốn nên cô không nỡ rời bà. Lãnh đạo trên huyện hỏi cô thích làm công việc gì, cô nói muốn kế thừa sự nghiệp của bố. Do vậy họ đã bố trí cô vào học Học viện Y học của quân khu. Cô tốt nghiệp học viện khi mới mười sáu tuổi, nhận công việc tại Phòng Y tế thị trấn. Cục Vệ sinh huyện mở lớp bồi dưỡng kỹ thuật sinh đẻ mới, Phòng Y tế đã cử cô tham dự lớp học. Từ đó, cô bắt đầu có duyên nợ với cái công việc thần thánh này. Ngày 4 tháng 4 năm 1953, cô đỡ đẻ hài nhi đầu tiên cho đến tết năm ngoái, cô đã thừa nhận là không dưới mười nghìn đứa trẻ đã được ra đời qua bàn tay của cô, nếu trong lúc sinh mà có ai đó phụ giúp thì cứ hai đứa tính thành một. Đây là câu chính miệng cô nói với tôi. Tôi tính, mười nghìn đứa trẻ có lẽ là nói hơi quá, nhưng bảy đến tám nghìn thì nhất định là có thực. Cô cũng đã có bảy người học trò, trong đó có một người có biệt danh là “Tiểu sư tử”, đầu tóc bồng bềnh, mũi tẹt miệng vuông, trên mặt lốm đốm tàn hương, là người cực kỳ sùng bái cô tôi. Nếu cô bảo “Tiểu sư tử” đi giết người, e rằng ngay lập tức cô ấy sẽ xách dao đi ngay, cơ bản là không hỏi nguyên nhân và cách thức.

Ở trước tôi đã từng nói, mùa xuân năm 1953 ở quê tôi, phụ nữ vẫn còn rất e ngại với kỹ thuật sinh đẻ mới, thêm vào đó là những lời đơm đặt của các “lão bà bà”. Lúc ấy, cô tôi chỉ mới mười bảy nhưng vì đã có những thử thách từ nhỏ, lại xuất thân từ một gia đình vô cùng xán lạn huy hoàng nên đã trở thành một nhân vật có ảnh hưởng vô cùng lớn lao ở vùng Đông Bắc Cao Mật, trở thành một người trọng yếu trong mắt mọi người. Đương nhiên, cô tôi cũng có một dung nhan không hề tầm thường. Không nói đầu tóc, không nói khuôn mặt, không nói mũi cũng không nói đôi mắt, chỉ nói đến hàm răng. Quê tôi là vùng khí hậu có chứa nhiều khí flo, do vậy từ trẻ đến già đều có hàm răng xấu xí và đen đúa. Khi còn bé, cô tôi đã sống ở khu giải phóng Giảo Đông trong một thời gian dài, uống nước suối trong rừng, lại học được thói quen đánh răng ở Bát Lộ Quân. Có lẽ vì những nguyên nhân ấy nên đôi hàm răng cô không hề bị sâu, bị đen. Nói tóm lại là, cô tôi có một bộ răng mà tất cả chúng tôi, nhất là phái nữ ngày đêm mơ ước.

Đứa trẻ đầu tiên do cô tôi đỡ đẻ là Trần Tị. Cô thấy tiếc nuối vô cùng về chuyện này. Cô nghĩ, đứa trẻ đầu tiên qua tay mình phải là hậu duệ của cách mạng, không ngờ là nghiệt súc của địa chủ. Nhưng để kịp thời tuyên truyền phương pháp đẻ mới, xóa bỏ cách đỡ đẻ cũ, cô không có thời gian để nghĩ ngợi thêm về vấn đề này nữa.

Nghe tin Ngãi Liên đang chuyển bụng, cô tôi phóng lên xe đạp - xe đạp lúc ấy vẫn còn hiếm lắm - đeo hòm thuốc, đạp như bay về thôn. Từ Phòng Y tế huyện về đến thôn là năm cây số, không biết nhờ vào đâu mà cô chỉ mất có mười phút. Lúc ấy, vợ bí thư chi bộ thôn Viên Liễm đang giặt giũ ở bờ sông Giảo Hà. Bà ta chính mắt trông thấy cô tôi đạp xe phóng vèo qua chiếc cầu đá rất hẹp bắc ngang dòng sông. Một con chó đang thơ thẩn trên cầu thất kinh hồn vía nhảy tõm xuống nước.

Khi cô tôi xách chiếc hòm xông thẳng vào phòng Ngãi Liên thì “lão bà bà” Điền Quế Hoa, người trong thôn đã có mặt ở đó. Đây là một bà già mồm nhọn cổ ngắn, lúc ấy đã hơn sáu mươi, đến lúc này e rằng xương thịt đã hóa thành bùn đất, A Di Đà Phật! Điền Quế Hoa thuộc loại “bà bà” tích cực can dự vào sản phụ. Khi cô tôi xuất hiện ở cửa thì thấy bà ta đang ngồi trên bụng Ngãi Liên, dùng hết sức bình sinh đè lên cái bụng cao vổng ấy. Bà già này bị bệnh viêm phế quản mạn tính, tiếng khò khè nặng nhọc của bà ta hòa lẫn với tiếng kêu rú thảm thiết như tiếng lợn bị chọc tiết của sản phụ hòa lẫn với nhau khiến không khí trong phòng trở nên bi tráng và thê lương. Địa chủ Trần Ngạch quỳ ở một góc tường, cúi đầu lạy liên tục (không biết ông ta lạy cái gì), lạy nhiệt tình đến độ đầu cứ đập binh binh vào tường, miệng rì rầm tụng niệm những lời hàm hồ không rõ là kinh gì.

Tôi đã đến nhà Trần Tị nhiều lần nên rất thông thuộc cách cấu trúc trong nhà cậu ta. Đây là hai gian phòng ở phía chái tây, cửa mở về phía mặt trời lặn, trần rất thấp, diện tích cũng rất nhỏ. Bước vào cửa là thấy ngay bếp lò, sau bếp lò là một bức tường cao khoảng hơn một mét, sau bức tường là giường đắp đất. Vừa bước vào cửa là cô tôi đã có thể trông thấy toàn bộ tình cảnh. Trông thấy tình cảnh ấy, cô tôi không kềm chế được sự giận dữ, nếu nói theo lời của cô thì đó là “lửa bốc lên cao ba trượng”. Cô ném hòm thuốc xuống bàn ăn, lao thẳng về phía ấy như một mũi tên, hai tay chộp lấy vai của “lão bà bà”, dùng sức kéo mạnh về phía sau, hất bà ta ngã lăn xuống đất. Đầu bà ta đập xuống nền đất, lúc này đang đầy cứt đái và máu huyết, mùi xú uế xông lên nồng nặc trong không khí. Hình như cú đập khá mạnh nên một dòng máu đen sì, đặc quánh từ từ rỉ ra trên trán bà ta. Thực ra thì bà ta bị thương cũng không nặng lắm nhưng lại tru tréo lên như sắp chết đến nơi. Người yếu bóng vía nói chung nghe những lời tru tréo ấy sẽ rất dễ dàng hôn mê bất tỉnh, nhưng cô tôi thì không hề sợ. Vì cô ấy đã từng gặp không biết bao nhiêu người và bao nhiêu chuyện đáng sợ hơn bà ta nhiều lần.

Cô đứng trước đầu giường, từ từ đeo găng tay và nghiêm giọng nói với Ngãi Liên: “Chị không cần khóc, cũng chẳng cần kêu gào, bởi khóc và gào không có liên quan gì đến chuyện sinh đẻ cả. Nếu chị muốn sống thì hãy nghe lệnh của tôi. Tôi bảo chị làm thế nào thì chị cứ làm thế ấy”. Ngãi Liên đã bị thái độ nghiêm trang và bình tĩnh của cô tôi chinh phục. Đương nhiên là bà ta cũng đã biết xuất thân vinh quang cũng như những kinh nghiệm có tính truyền kỳ của cô tôi. Cô tôi nói: “Chị đẻ trong khi tuổi đã cao, thai nhi cũng không nằm theo tư thế bình thường. Con người ta phần lớn đều ló đầu ra trước, còn con chị thì sẽ đưa một cánh tay ra trước, đầu quay vào bên trong”. Sau đó, cô tôi còn đặt nhiều chuyện tiếu lâm về Trần Tị, nói đầu nó chưa kịp ló ra thì đã đưa tay ra trước, hình như muốn vơ lấy cái gì đó của thế giới này thì phải. Sau này Trần Tị chỉ nói cộc lốc: “Xin cơm ăn ấy mà!”

Tuy đây là lần đầu tiên đỡ đẻ nhưng xem ra cô hết sức bình tĩnh. Gặp khó không hoang mang, chỉ cần có năm phần kỹ thuật sẽ phát huy được đến mười phần - Cô đã nói như vậy. Phải thừa nhận rằng cô tôi là một bác sĩ phụ khoa thiên tài. Khi làm việc này hình như trong đầu cô luôn luôn có linh cảm, tay cô có cảm giác. Những người đàn bà từng chứng kiến cô tôi đỡ đẻ đều bái phục đến sát đất. Khi còn sống, mẹ tôi thường nói: “Cô của con có đôi bàn tay không giống với người thường. Người bình thường thì đôi bàn tay có lúc lạnh lúc nóng, lúc cứng lúc mềm, có lúc khô lúc đổ mồ hôi… Nhưng đôi bàn tay cô xuân hạ thu đông đều mềm, đều mát, nhưng không phải mềm như… nói thế nào nhỉ?…”. Anh trai tôi là người có học thức, nói đỡ: “Có phải là trong gấm có ẩn kim, trong nhu có cương?”. Mẹ nói: “Chính là như vậy. Bàn tay cô mát nhưng không phải là cái mát của băng giá mà là…”. Lại là người anh có học thức của tôi thay mẹ diễn đạt bổ sung: “Là trong ấm ngoài mát, giống như lụa quý, cái mát của loại lụa bảo vệ cho trân châu bảo ngọc”. Mẹ nói: “Đúng là như thế, chỉ cần cô của con đưa tay sờ vào người bệnh là bệnh mười phần đã giảm đi bảy phần!”. Gần như cô tôi đã được thần thánh hóa trong mắt người dân quê tôi.

Ngãi Liên là người đàn bà gặp vận may. Đương nhiên bà ta cũng là một phụ nữ thông minh. Khi cô tôi đưa tay xoa nắn bụng, bà ta cảm thấy có một sức mạnh truyền nhập vào cơ thể mình. Sau đó gặp ai bà ta cũng nói, cô tôi có phong độ của một vị đại tướng, nếu so với cô, ‘lão bà bà” họ Điền đang nằm dưới đống cứt đái kêu gào kia chẳng khác nào một con quỷ dạ xoa. Dưới sự nhắc nhở và động viên đầy tính khoa học và rất nghiêm trang của cô tôi, sản phụ Ngãi Liên đã tìm thấy ánh sáng, có dũng khí để sinh nở, những trận đau kịch liệt trước đó hầu như đã giảm đi rất nhiều. Bà ta ngừng khóc để lắng nghe những mệnh lệnh từ miệng cô tôi, phối hợp với những động tác của cô để đẻ đứa con có cái lỗ mũi to ấy ra ngoài.

Khi mới sinh ra, Trần Tị hầu như không thở nổi. Cô tôi lộn ngược đầu cậu ta xuống đất, rồi vỗ vào lưng, xoa vào ngực và cuối cùng thì cậu ta mới phát ra được một tiếng khóc khò khè. Cô nói: “Cậu nhóc này sao lại có cái lỗ mũi to đến thế không biết, trông chẳng khác một thằng bé Mỹ!”. Lúc ấy, cô tôi rất vui trong lòng, tâm trạng cô chẳng khác một người thợ vừa hoàn thành một sản phẩm đầu tiên trong cuộc đời mình. Nét mặt mệt mỏi của sản phụ nở nụ cười tươi rói. Cô tôi là người có quan niệm giai cấp rất rõ ràng nhưng khi lôi thằng bé ra khỏi cửa mình sản phụ, cô không còn nghĩ gì về giai cấp và đấu tranh giai cấp nữa. Niềm vui của cô đầy thuần khiết, là tình cảm thuần túy của một con người.

Nghe nói bà vợ hai sinh được một đứa con trai, Trần Ngạch từ trong góc tường bò dậy. Tay chân ông ta trở nên thừa thãi khi đi một vòng chung quanh chiếc giường đất, hai dòng nước mắt đặc quánh như mật ong từ từ trào ra khỏi hốc mắt khô khốc và lăn xuống gò má. Sự vui mừng của Trần Ngạch không thể dùng ngôn ngữ để mà diễn tả được, có rất nhiều lời muốn nói nhưng ông ta không dám nói ra. Nào là hương hỏa, nào là tông tộc vân vân. Đối với loại người như ông ta, hễ nói ra khỏi cửa miệng là có tội!

Cô tôi nói với Trần Ngạch: “Thằng bé này sinh ra đã có cái mũi to như vậy, hay là đặt tên cho nó là Tị, là Trần Tị!”

Chẳng qua là cô tôi nói đùa trong lúc vô ý thôi. Nhưng với Trần Ngạch, đó chẳng khác nào một mệnh lệnh, thậm chí là một thánh chỉ, ngay lập tức gật đầu cúi người nói: “Đa tạ cô Tâm đã ban tên cho! Đa tạ cô Tâm đã ban tên cho! Trần Tị, hay! Nó tên là Trần Tị!”

Trong những lời cảm tạ lung tung lộn xộn của Trần Ngạch, trong nước mắt bời bời chảy của Ngãi Liên, cô tôi thu thập hòm thuốc, chuẩn bị ra về. Cô thấy, Điền Quế Hoa vẫn ngồi dựa lưng vào thành giường, giữa đống cứt đái trộn lẫn với máu, hình như là đã ngủ. Cô không biết là bà ta đổi tư thế từ nằm thành ngồi từ lúc nào, cũng không biết những tiếng tru tréo khiến người ta phải dựng tóc gáy của bà ta chấm dứt từ lúc nào. Cô nói, cô cứ tưởng là bà ta đã chết, nhưng khi nhìn thấy đôi mắt bà ta vẫn phát ra tia nhìn xanh xanh chẳng khác của loài mèo trong đêm tối thì cô mới biết là bà ta còn sống. Không hiểu sao, cơn giận lại nổi lên như sóng trào trong lòng cô. Cô hỏi: “Sao bà vẫn chưa về?”. “Lão bà bà” lại nói: “Thằng bé này sống được là nhờ tôi một nửa, công của cô một nửa, theo đó tôi được một chiếc khăn với năm quả trứng gà. Nhưng cô đã làm đầu tôi bị thương, nể mặt mẹ cô, tôi không đến chính quyền để kiện cô. Nhưng tôi phải có được chiếc khăn của cô để băng đầu, phải có được năm quả trứng gà của cô để bồi dưỡng sức khỏe”. Lúc này cô tôi mới vỡ lẽ mọi chuyện, thì ra mấy “lão bà bà’ làm công việc đỡ đẻ chỉ vì mấy món đồ ấy, trong lòng sinh ra căm ghét vô cùng. Cô nghiến răng, nói: “Vô liêm sỉ! Cái gì là một nửa công của bà? Nếu để bà làm chuyện này, lúc này chỉ còn là hai cái xác chết trên giường! Bà là một con quỷ cái, bà cho rằng âm đạo của phụ nữ chẳng khác nào cái phao câu của gà sao, dùng sức mạnh để ép, trứng bèn văng ra sao? Bà đỡ đẻ như thế à? Không, đó là giết người! Bà còn muốn đi kiện tôi sao?”. Cô hất chân thật mạnh, gót chân cô trúng vào cằm bà Điền - “Bà còn đòi khăn, đòi trứng à!”. Lại một cú đá nữa, lần này thì vào mông. Sau cùng, một tay xách hòm thuốc, một tay túm tóc bà già lôi ra ngoài vườn. Trần Ngạch chạy theo giải hòa, cô tôi trợn mắt quát lớn: “Cút vào nhà, vào mà chăm sóc vợ ông!”

Cô tôi nói, đó là lần đầu tiên trong đời cô đánh người, lại nói, cô vẫn không hiểu tại sao lúc ấy mình lại ra tay đánh người. Lại một cú đá thật mạnh vào mông nữa, bà Điền ngã lăn quay trên sân, bò dậy, ngồi trên đất, hai tay đập bành bạch xuống đất, gào lên: “Cứu mạng! Có kẻ giết người… Tôi bị đứa con gái cường đạo của Vạn Lục Phủ đánh chết rồi…”.

Lúc ấy trời đã sắp tối. Trong ráng chiều, tịch dương, gió nhẹ, rất nhiều người trong thôn đang bê những chiếc bát to tướng trên tay đứng ngoài đường ăn cơm, nghe thấy bên này huyên náo thì hộc tốc chạy sang. Bí thư Viên Liễm và đội trưởng Lữ Nha cũng đã có mặt. Điền Quế Hoa là thím họ xa của Lữ Nha, nhưng ông ta không lấy danh nghĩa ấy để hỏi cô tôi mà lại nói: “Vạn Tâm, cô là một cô gái trẻ mà đánh một bà già, không cảm thấy quá đáng sao?”

Cô đã nói với chúng tôi: “Lữ Nha là cái quái gì? Hắn là đồ súc sinh đã đánh vợ nằm bệt dưới đất mà còn dám lên mặt dạy dỗ ta sao?”

Lúc này cô nói: “Bà già nào? Chỉ là một con yêu quái hại người! Ông hãy hỏi bà ta, bà ta đã làm những gì?” Rồi cô dí ngón tay vào giữa trán Điền Quế Hoa - “Bao nhiêu người đã chết trong tay bà? Trong tay bà đây có súng, nếu cần bà đây sẽ cho bà một viên đạn!”. Lúc ấy cô tôi chỉ mới mười bảy nhưng mở miệng ra thì một “bà đây” hai “bà đây” khiến nhiều người phải bụm miệng cười.

Lữ Nha vẫn muốn tiếp tục nói lý thì bí thư Viên Liễm đã nói: “Bác sĩ Vạn không sai. Với những kẻ đem mạng sống con người ra làm trò đùa thế này thì phải trừng trị thích đáng! Điền Quế Hoa, đừng có mà ra bộ dạng chó chết như thế. Bà bị đánh là vẫn còn nhẹ đấy, nên tống bà vào nhà giam mới phải! Từ nay về sau, trong nhà ai có người đẻ hãy đi tìm bác sĩ Vạn! Điền Quế Hoa, bà còn dám tiếp tục đỡ đẻ nữa, tôi sẽ cho dân quân cắt hết mấy ngón chân ngón tay chó của bà!”.

Cô tôi nói, tuy Viên Liễm là người không có văn hóa nhưng cũng nhận ra trào lưu mới, có thể chủ trì việc chung, là một cán bộ tốt.

4

Thưa tiên sinh,

Đứa trẻ thứ hai do cô đỡ đẻ chính là tôi.

Khi mẹ tôi trở dạ, bà nội căn cứ vào những tập tục cũ, rửa tay thay quần áo, đốt ba nén nhang cắm lên bàn thờ tổ tiên, lạy ba lạy rồi đuổi tất cả đàn ông trong nhà ra ngoài. Mẹ tôi không phải sinh lần đầu, trước tôi đã có hai người anh, một người chị. Bà nội nói với mẹ: “Lúc này con đã là xe trống đi trên đường quen, tự mình sinh con vậy”. Mẹ nói với bà: “Mẹ, con cảm thấy có gì đó rất không ổn, lần này không giống như những lần trước”. Bà nội không cho là như vậy, nói, có gì mà không giống nhau, lẽ nào con lại có thể đẻ ra một con kỳ lân?

Cảm giác của mẹ tôi là vô cùng chính xác. Các anh chị của tôi đều chui đầu ra trước, còn tôi, tôi lại thò chân ra trước khi lọt khỏi lòng mẹ.

Khi trông thấy bàn chân tôi thò ra, bà tôi đứng ngây người kinh sợ, bởi trong làng tôi đã từng truyền tụng câu khẩu ngữ dân gian “Chân chen ra, rước nợ quỷ ma”. Tại sao gọi là “rước nợ quỷ ma”? Là thế này, gia đình kiếp trước có nợ tiền nợ bạc, nợ ân nợ nghĩa gì của ai đó, chủ nợ chuyển kiếp đầu thai vào đứa trẻ và sinh ra bằng cách đẻ ngược để cho người mẹ nếm đủ mùi đau khổ hoặc tệ hơn là chết cùng với sản phụ, hoặc là vẫn sống nhưng chỉ đến một tuổi nhất định nào đó thì không đau không ốm mà lăn đùng ra chết, làm cho gia đình người ấy bị tốn thất nặng về vật chất lẫn tinh thần. Nhưng bà nội vẫn cố làm ra vẻ bình thản, nói đùa: “Gớm, cậu nhóc này sẽ là một chân chạy việc giỏi đây, lớn lên sẽ làm tôi tớ cho người ta mất thôi. Nhưng đừng sợ, mẹ đã có cách”. Nói xong thì bà đi ra ngoài sân bê chiếc mâm đồng vào đứng ở đầu giường, dùng chày giã bột đánh phèng phèng chẳng khác nào người ta gióng phèng la. Vừa đánh, bà vừa quát lớn: “Chui ra đi! Chui ra đi! Lão gia của mày sai mày đi đến đây để đòi nợ, mày không ra là bị đánh què chân thôi!”

Mẹ tôi đã nhận ra tính chất của vụ việc là vô cùng nghiêm trọng, dùng chiếc que cời lửa đập mạnh vào cửa sổ gọi chị tôi đang đứng ngoài sân: “Con gái ơi! Mau chạy đi gọi cô!”

Chị gái tôi rất thông minh. Chị chạy ngay đến Văn phòng thôn nhờ Viên Liễm gọi điện thoại đến Phòng Y tế huyện. Chiếc điện thoại quá độ cũ kỹ quay số chạy từng vòng ấy đã được tôi cất giữ cho đến bây giờ như một vật kỷ niệm vì nó đã cứu được mạng sống của tôi.

Đó là ngày 6 tháng 6. Những ngày trước đó mưa nhiều nên nước lũ đã dâng cao ngoài sông Giảo Hà, ngập cả chiếc cầu đá bắc ngang sông. Nhưng căn cứ vào những đợt sóng làm tung bọt trắng xóa trên mặt nước, người ta vẫn có thể phán đoán được chiếc cầu đang ở vị trí nào. Ông Đỗ Bột đang nhàn nhã kéo vó bên bờ sông chính mắt trông thấy cô tôi phóng xe đạp qua chiếc cầu đã ngập nước. Nước lũ táp vào người và chiếc xe làm bắn lên những cột nước cao đến cả mét. Nước đang chảy xiết, nếu cô tôi bị nó cuốn xuống sông thì, thưa tiên sinh, chắc chắn là không có tôi tồn tại trên cuộc đời này.

Cô tôi xông vào nhà, toàn thân ướt đầm.

Mẹ tôi nói, khi mới bước vào nhà, cô tôi đã uống một viên thuốc an thần. Mẹ tôi nói, khi cô tôi vừa bước vào nhà đã kéo bà nội sang một bên, châm chọc: “Mẹ à, mẹ đánh phèng la ầm ĩ như vậy, trẻ con nào dám chui ra?”. Bà nội vẫn gân cổ cãi lý: “Trẻ con đưa nào mà chẳng thích chuyện náo nhiệt? Nghe tiếng phèng la vui thế này, có lẽ nào chúng lại chẳng chịu chui ra mà xem?”. Sau đó cô tôi nói, cô túm chặt lấy chân tôi rồi kéo mạnh ra như người ta nhổ củ sắn vậy. Tôi biết đó chỉ là lời nói đùa mà thôi.

Sau khi đỡ đẻ cho Trần Tị và tôi, mẹ Trần Tị và mẹ tôi trở thành hai người tuyên truyền mang tính nghĩa vụ tích cực nhất cho cô tôi. Họ đi đến đâu cũng nói chuyện về cô tôi. Vợ của Viên Liễm cũng như Đỗ Bột hễ gặp ai là lại đem chuyện kỹ thuật đỡ đẻ cao siêu của cô tôi ra mà tán dương. Do vậy mà tiếng tăm của cô nổi như cồn, không ai thèm đoái hoài đến mấy “lão bà bà” thủ cựu nữa, họ nhanh chóng bị lịch sử chôn vùi.

Từ năm 1953 đến năm 1957, nền kinh tế đất nước phát triển mạnh. Quê hương tôi cũng nhờ mưa gió thuận hòa nên được mùa mấy năm liên tiếp. Người ta đã được ăn no, mặc ấm nên tính thần phấn chấn hẳn lên, đàn bà con gái đua nhau mang thai, đua nhau đẻ. Có thể nói, đó là thời kỳ bận rộn nhất của cô tôi. Trên mỗi con đường, mỗi ngõ vắng của mười tám thôn thuộc huyện Đông Bắc Cao Mật đều để lại dấu bánh xe của cô, mọi khoảng sân vườn đều để lại dấu chân của cô.

Từ ngày 4 tháng 4 năm 1953 đến ngày 3 tháng 12 năm 1957, cô tôi đã tiến hành 1612 ca đỡ đẻ, đưa ra với đời 1645 đứa trẻ. Trong đó có sáu đứa chết nhưng trong số đó lại có năm đứa đã chết trong bụng mẹ, một đứa mắc bệnh bẩm sinh. Thành tích quá sức huy hoàng, quá sức hoàn mỹ!

Ngày 17 tháng 2 năm 1955, cô tôi gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc. Đó cũng là ngày mà cô đỡ đẻ cho đứa trẻ thứ 1000. Đứa trẻ ấy chính là bạn học của tôi - Lý Thủ.

Cô nói: Cô giáo Vu của các cháu là người phụ nữ phóng khoáng nhất mà cô đã từng gặp. Trong khi cô đang bận tíu tít để cho Lý Thủ ra đời thì cô Vu vẫn cầm một cuốn bài giảng đọc lại để chuẩn bị lên lớp!

Cho đến cuối đời, cô tôi vẫn nhớ về khoảng thời gian bận rộn nhưng vô cùng vinh quang ấy. Đó là thời kỳ hoàng kim của cả đất nước Trung Quốc, cũng là thời kỳ hoàng kim của cô tôi. Không thể nhớ được bao nhiêu lần, đôi mắt cô tôi sáng lấp lánh, tâm trí để tận đâu đâu, nói: “Lúc ấy, cô là một bồ tát sống, là nương nương cứu thế. Trên cơ thể cô tản phát hàng trăm mùi thơm, những đàn ong bay liệng chung quanh cô, những đàn bướm bay liệng bên người cô... Bây giờ, tổ cha nó, chỉ có ruồi nhặng bâu chung quanh cô mà thôi...”

Tên của tôi là do cô đặt cho, tên đi học là Vạn Túc, có nghĩa là “vạn chân”, nhũ danh là Tiểu Bão (đã là “chân” thì phải “chạy” là đúng thôi!).

Xin lỗi, thưa tiên sinh, tôi muốn giải thích thêm với ngài một tí: Nguyên danh của tôi là Vạn Túc, còn Khoa Đẩu, tức Nòng Nọc là bút danh của tôi.

5

Cô tôi đã đến tuổi lấy chồng. Nhưng cô lại là người ăn lương nhà nước, là công chức có sổ gạo, sổ thực phẩm, xuất thân trong một gia đình quang vinh như vậy nên thanh niên trai tráng trong làng không ai dám nghĩ đến chuyện kết tóc xe tơ với cô. Ngày ấy, tôi đã lên năm, vẫn thường thấy bà cố đến nhà, nói với bà nội với một giọng vừa lo lắng vừa rầu rĩ: “Con dâu à, con nói xem, con Tâm đã hăm hai rồi. Những đứa cùng tuổi với nó đều đã có hai ba đứa con rồi, nhưng nó, ngay cả một người đến dạm ngõ cũng không có là sao?”. Bà nội tôi nói: “Mẹ à, mẹ vội vàng gì chứ? Như con Tâm nhà con, biết đâu rằng sẽ được vào nhà quan để làm hoàng hậu đấy chứ! Đến lúc ấy, mẹ sẽ trở thành hoàng thái hậu của hoàng đế, chúng ta sẽ trở thành thân thích của hoàng đế, lúc ấy mới vinh quang chứ!”. Bà cố nạt: “Cô đừng nói lung tung! Hoàng đế đã bị “cách mạng” từ lâu rồi, lúc này đã là nước Cộng hòa Nhân dân, đứng đầu là chủ tịch”. Bà nội tôi nói: “Đã là chủ tịch đứng đầu thì con đem con Tâm gả cho chủ tịch vậy”. Bà cố tức giận nói: “Cái nhà cô này, đã bước vào thời đại mới mà đầu óc vẫn còn để ở tận những ngày trước giải phóng!”. Bà nội nói: “Con và mẹ không giống nhau. Con vẫn còn nhớ những ngày sống ở thành Bình Độ...”. Bà cố nói: “Cô đừng có nhắc lại với tôi về thành Bình Độ, nói đến nó là tôi đã sởn gai ốc! Tôi bị bọn quỷ Nhật Bản bắt, tới đó để chịu tội chứ không phải để hưởng phúc đâu!” Hai bà ban đầu thì còn dịu dàng, sau đó thì lời qua tiếng lại thiếu điều chửi nhau. Nhưng sáng sớm hôm nay bà cố gầm ghè bỏ đi, cứ nghĩ là có lẽ suốt cuộc đời còn lại bà không bao giờ chịu nhìn mặt cô con dâu nữa nhưng rồi sáng sớm hôm sau lại thấy bà xuất hiện. Cứ mỗi lần trông thấy hai bà chụm đầu bàn luận chuyện chồng con của cô tôi, mẹ tôi chỉ biết bụm miệng cười.

Tôi vẫn còn nhớ vào một buổi chiều trời vừa sập tối, con trâu nái của nhà tôi sắp sửa sinh con. Không biết là con trâu nái học theo gương mẹ tôi hay là con nghé trong bụng nó học theo tôi mà lại thò một cái chân ra trước nên không thể nào thoát khỏi bụng mẹ được. Con trâu nái kêu la vô cùng thảm thiết, xem ra thì biết là nó đau lắm. Bố tôi lo lắng ra mặt, sờ cái chân bé tẹo vừa thò ra, sờ mông con trâu nái, đi vòng quanh... nhưng vô kế khả thi. Trâu là bùa hộ mệnh của nông dân, huống hồ con trâu này lại là của đội sản xuất giao cho nhà tôi nuôi. Nó sắp chết rồi, làm thế nào? Mẹ thì thầm nói với chị tôi: “Man này, mẹ nghe nói cô con đã về nhà rồi”. Không chờ mẹ nói xong câu, chị gái tôi đã phóng vụt đi. Bố trừng mắt nhìn mẹ, nói: “Bà đúng là hồ đồ. Cô ấy đỡ đẻ cho người!”. Mẹ nói: “Người với gia súc cũng như nhau mà thôi”.

Cô và chị gái tôi đã xuất hiện.

Cô tôi vừa bước vào cổng đã nổi xung, nói: “Các người muốn tôi chết vì mệt à? Đỡ đẻ cho người chưa đủ hay sao mà các người còn bảo tôi đỡ đẻ cho trâu!”

Mẹ nói: “Em à, ai bảo em sinh ra trong nhà này? Không tìm em thì anh chị tìm ai? Người ta đều nói em là bồ tát hiện thế, bồ tát phổ độ chúng sinh. Trâu tuy là gia súc nhưng nó cũng có sinh mệnh, em nỡ lòng thấy chết mà không cứu sao?”

Cô nói: “Chị dâu à, may mà chị không biết chữ, chỉ cần chị có hai sọt chữ thôi, thôn Hòa Bình này làm sao chứa được chị đây?”

Mẹ nói: “Cho dù chị có biết đến tám sọt chữ, chị cũng không thể so với một ngón tay của em đâu”.

Tuy vẻ mặt của cô vẫn chưa hết giận nhưng rõ ràng cơn giận đã giảm đi phần nhiều. Lúc ấy trời đã tối, mẹ đốt đến mấy ngọn đèn dầu, lại kéo bấc lên thật cao và đem đặt cả ngoài chuồng trâu.

Con trâu nái vừa trông thấy cô tôi thì vật vã bò dậy, hai chân trước quỳ xuống. Cô tôi trông thấy con trâu quỳ trước mặt mình, không hiểu sao lại sa nước mắt.

Tất cả chúng tôi đều sa nước mắt.

Cô tôi cẩn thận kiểm tra toàn bộ tình hình con trâu, nửa đồng tình nửa châm biếm nói: “Nhà này lại thêm một kẻ chui ra khỏi bụng mẹ từ hai chân!”.

Cô tôi đuổi bọn nhỏ chúng tôi ra sân vì sợ chúng tôi trông thấy những cảnh không đẹp. Từ phía sân, chúng tôi nghe thấy tiếng cô ra lệnh cho bố và mẹ làm cái này cái kia trong lúc cô đỡ đẻ cho trâu. Đêm đó là đêm rằm, ánh trăng to tròn xuất hiện ở phía đông nam. Khi cả trời đất đã vằng vặc chìm trong ánh trăng, cô tôi kêu lớn: “Tốt, ra rồi!”

Chúng tôi vừa hoan hô vừa chạy về phía chuồng trâu, thấy đằng sau con trâu nái có một con vật không thể gọi là trâu, toàn thân bê bét bầy nhầy. Bố cất giọng hồ hởi: “Giỏi quá, là một con cái!”

Cô tôi gắt gỏng: “Đúng là kỳ lạ! Đàn bà sinh ra con gái thì đàn ông quay mặt đi không thèm nhìn. Trâu sinh ra trâu cái, đàn ông lại toét miệng khen giỏi!”

Bố nói: “Con trâu nghé này lớn lên có thể tiếp tục sinh con!”

Cô nói: “Còn người thì sao? Con gái lớn lên không thể tiếp tục sinh con được sao?”

Bố nói: “Hai chuyện này không giống nhau”.

Cô nói: “Có chỗ nào không giống nhau?”

Bố thấy cô đã nổi cáu, không dám tranh luận nữa.

Con trâu mẹ quay đầu lại, bắt đầu liếm láp cho con. Hình như trên đầu lưỡi của nó có linh đơn hay thuốc thần gì đó mà liếm đến đâu, bộ lông của con trâu nghe sạch đến đấy. Mọi người quan sát cảnh tượng ấy bằng đôi mắt cảm khái. Tôi len lén nhìn cô, thấy miệng cô đang há ra, ánh mắt đầy vẻ bao dung trìu mến. Tôi có cảm giác là hình như cái lưỡi của con trâu mẹ đang cọ sát lên người của cô, hoặc là lưỡi cô đang chà sát lên thân thể của con trâu nghé. Chờ cho đến lúc con trâu mẹ đã liếm sạch những gì dính trên người xong, con trâu nghé mới run rẩy đứng dậy.

Chúng tôi vội vàng đi lấy thau nước, xà phòng và khăn để cô rửa tay.

Mẹ chuẩn bị làm miến bên giường.

Rửa tay xong, cô nói: “Đói quá! Nhất định tối nay tôi sẽ ăn cơm của mọi người”.

Mẹ nói: “Thế đây không phải là nhà cô sao?”

Lúc ấy, bà nội đang đứng ở ngoài sân, gọi cô về ăn cơm. Cô nói: “Con không làm không công cho người ta đâu, con phải ăn cơm ở đây thôi”. Bà nội nói: “Chị dâu con lâu nay làm ăn không ra gì. Con ăn của nó một bát miến, nó sẽ nhớ cả đời đấy!”. Mẹ cầm chiếc que cời lửa đi ra cửa, nói: “Nếu mẹ cảm thấy đói thì cứ vào đây ăn một bát, còn không đói thì về đi!” Bà nội nói: “Tôi mà lại ăn miến của chị sao?”

Miến đã chín, mẹ múc một bát thật to bảo chị tôi mang sang cho bà nội. Sau này tôi mới biết, chị tôi vì quá vội, chạy thục mạng nên dẫm phải đống phân chó giữa đường và ngã sấp, tất nhiên là bát miến cũng không còn nữa, ngay cả cái bát cũng vỡ tan. Vì thương cháu, không muốn chị tôi về nhà bị mắng, bà nội đã lục tìm trong chạn cái bát giống như của mẹ tôi đưa cho chị mang về.

Cô tôi là người nói chuyện cực kỳ có duyên, lại có rất nhiều chuyện để kể, chúng tôi rất thích nghe cô kể chuyện. Sau khi ăn no, cô ngồi xuống sàn nhà, dựa lưng vào tường và bắt đầu kể chuyện. Cô nói, cô đã vào hàng trăm nhà và cũng đã biết qua đủ các loại người, cũng đã được nghe bao nhiêu là chuyện trên trời dưới đất. Khi kể chuyện, chắc là cô có thêm mắm thêm muối vào khiến những câu chuyện rất bình thường của cô cũng khiến người nghe hứng thú chẳng khác nào được nghe kể chuyện sách. Đầu những năm tám mươi, khi nhìn thấy Lưu Lan Phương kể chuyện sách xưa trên đài truyền hình, mẹ tôi nói: “Cô này kể chuyện đâu bằng cô của con. Nếu cô của con không làm bác sĩ mà làm người kể chuyện, e rằng cô sẽ nổi tiếng hơn”.

Chuyện kể của cô đêm ấy bắt đầu từ việc đấu trí đấu dũng với tư lệnh Sugitani của quân Nhật khi còn ở trong thành Bình Độ. Cô kể, lúc đó cô chỉ mới bảy tuổi. Cô nhìn tôi nói - cũng như Tiểu Bão bây giờ vậy nhưng đã cùng bà cố và bà nội của các cháu đến thành Bình Độ. Vừa đến nơi đã bị nhốt vào trong một căn nhà tối om, ngoài cửa có hai con chó to đùng ngày đêm canh giữ. Hai con chó này ngày nào cũng được ăn thịt người, vừa trông thấy trẻ con là đã thè lưỡi ra dài ngoằng, nước miếng nhỏ xuống thành dòng. Bà cố và bà nội đêm nào cũng khóc nhưng cô thì không khóc, hễ nằm xuống là ngủ một lèo đến khi trời sáng. Không biết là cô bị nhốt trong ngôi nhà tối om ấy mấy ngày mấy đêm thì sau đó, người ta đem ba bà cháu đến một ngôi nhà nho nhỏ biệt lập với chung quanh, trước sân có một cây tử đinh hương, hoa của nó thơm đến độ cô muốn ngất xỉu. Một vị thân hào mặc áo bành tô dài quá gối đến, rất lễ phép nói tư lệnh Sugitani muốn mời mọi người dự tiệc.Vị thân hào nói với cô: “Tiểu cô nương hãy khuyên nhủ bà nội và mẹ, bảo họ đừng sợ. Tư lệnh Sugitani không có ý hại mọi người, chỉ muốn kết bạn với tiên sinh Vạn Lục Phủ”. Cô nói: “Bà với mẹ đừng khóc nữa, khóc thì được cái gì? Khóc thì có thể mọc cánh được không? Khóc có thể bay đến được với Vạn Lý Trường Thành không?”. Vị thân hào nọ vỗ tay, nói: “Nói hay lắm! Tiểu cô nương giỏi quá, lớn lên nhất định sẽ là một nhân vật phi phàm đây!”. Nghe lời khuyên của cô, bà cố và bà nội các cháu không khóc nữa. Ba bà cháu theo vị thân hào nọ lên một chiếc xe ngựa trang hoàng rất đẹp và không biết nó rẽ ngang rẽ dọc bao nhiêu lần mới tiến vào sân của một căn nhà cực lớn. Trước cổng có hai người đứng gác, bên trái là một gã da vàng chính hiệu, bên phải là một gã lính Nhật. Cái sân quá rộng, cô đi từ ngoài cổng vào mà cảm thấy như mình đi mãi vẫn không đến căn nhà ở phía xa kia. Nhưng cuối cùng cô cũng bước vào căn tiền sảnh bóng lộn, khung cửa sổ cửa lớn đều được chạm trổ hoa văn rất cầu kỳ, bàn ghế đều là gỗ đàn hương. Tư lệnh Sugitani mặc áo Nhật truyền thống, tay cầm một chiếc quạt phe phẩy rất thong thả ung dung, nhác trông đã nhận ra ông ta là người có văn hóa. Sau những lời chào hỏi xã giao, ông ta mời bà cố, bà nội và cô ngồi vào bàn tiệc. Trên bàn đã bày sẵn đủ các món sơn hào hải vị. Bà cố và bà nội các cháu không dám động đũa, còn cô thì chẳng quan tâm gì cả, cứ ăn một bữa cho thỏa thích! Dùng đũa vướng víu thì dùng tay vậy. Cô dùng mười đầu ngón tay nhét thức ăn vào mồm. Tư lệnh Sugitani cầm ly rượu, cứ cười cười nhìn cô ăn. Khi đã no lắm, cô mới lau tay vào tấm khăn trải bàn và bắt đầu nấc. Khi đang nấc, cô nghe tư lệnh Sugitani nói: “Tiểu cô nương à, tôi mời bố cô đến đây nhé, có được không?” - Cô trừng mắt nhìn ông ta, nói: “Không được!” - Sugitani hỏi: “Tại sao không được?” - Cô nói: “Bố cháu là Bát Lộ Quân, ông là người Nhật Bản. Bát Lộ đánh Nhật Bản, ông không sợ bố cháu bắn ông hay sao?”

Kể đến đây, cô vén tay áo lên nhìn đồng hồ. Lúc ấy, toàn huyện Đông Bắc Cao Mật có lẽ có không quá mười chiếc đồng hồ, trong đó cô tôi lại có một chiếc! “Ôi!” Anh cả tôi kêu lên thành tiếng. Trong nhà tôi, chỉ có anh cả là đã nhìn thấy đồng hồ. Anh ấy đang học trường trung học số 1 của huyện. Thầy giáo dạy Nga văn đã được sang Nga du học cũng đeo một chiếc đồng hồ. Tiếng kêu vừa dứt, anh ấy buột miệng nói lớn: “Đồng hồ!”. Tôi và chị gái cũng đồng loạt kêu lên: “Đồng hồ!”

Cô tôi làm như không có chuyện gì, buông tay áo xuống, nói: “Chỉ là một chiếc đồng hồ, mấy đưa kêu cái gì?” Hình như cô cố ý làm ra vẻ dửng dưng để kích động sự hứng thú của anh em tôi. Bắt đầu là anh cả lên tiếng gạ gẫm: “Cô à, cháu chỉ nhìn thấy đồng hồ của thầy giáo nhưng lại khá xa... Cô có thể cho cháu xem một tí...”. Tôi và chị gái cũng nằn nì: “Cô ơi, cho chúng cháu xem với!”

Cô cười nói: “Bọn nhóc này đúng là phiền phức. Chỉ là một chiếc đồng hồ nát, có gì đáng xem” - Tuy nói vậy nhưng cô cũng cởi đồng hồ ra đưa cho anh cả.

Mẹ đang có mặt bên cảnh lên tiếng cảnh báo: “Cẩn thận đấy!”

Anh cả tôi rất cẩn thận cầm chiếc đồng hồ, trước tiên là đặt lên lòng bàn tay lật qua lật lại xem rất kỹ, sau đó đưa lên tai. Khi đã mãn nguyện, anh đưa cho chị gái, chị gái xem xong thì đưa cho anh hai. Anh hai chưa kịp đưa lên tai nghe thì đã bị anh cả giật lấy và trả cho cô. Tôi tức đến độ khóc òa lên.

Mẹ lên tiếng chửi.

Cô nói: “Tiểu Bão à, lớn nhanh lên để chạy cho thật xa, còn lo gì chuyện không có đồng hồ?”

“Trông bộ dạng nó như vậy mà cũng đòi đeo đồng hồ à? Ngày mai anh sẽ dùng mực đen vẽ một cái trên cổ tay cho em” - Anh cả nói.

“Đừng có trông vào tướng mạo, ai mà đong được nước của biển khơi. Đừng coi thường Tiểu Bão không đẹp trai, lớn lên biết đâu sẽ trở thành vĩ nhân đấy chứ!” - Cô nói.

Chị gái nói: “Nó mà thành vĩ nhân thì e rằng con lợn trong chuồng nhà ta cũng rùng mình biến thành hổ mất thôi”.

Anh cả hỏi: “Cô à, đồng hồ này của nước nào?”

“Thụy Sĩ!” - Cô nói.

“Ôi!” - Anh cả lại buột miệng kêu lên thán phục. Anh hai và chị gái cũng đồng thời bật lên tiếng “Ôi”.

Tôi nổi điên nói bậy: “Đồ cóc nhái!”

“Em gái à, nó đáng giá bao nhiêu tiền?” - Mẹ hỏi.

“Không biết, bạn em tặng”. - Cô nói.

“Bạn thế nào mà lại tặng em món quà quý như thế” - Mẹ nhìn cô như muốn đánh giá - “Có phải là người yêu của cô?”

Cô đứng dậy, nói: “Gần mười hai giờ rồi, mấy đứa đi ngủ thôi”.

Mẹ nói: “Cảm tạ trời đất, cuối cùng thì danh hoa cũng đã có chủ”.

“Chị đừng có nói lung tung!” - Quay sang chúng tôi, cô dọa: “Tụi bay cũng đừng đi ra ngoài nói năng bậy bạ, đứa nào nói đến chuyện này, cô lột da đứa đó!”

Sáng sớm hôm sau, có lẽ cảm thấy bất nhẫn vì chuyện không cho tôi xem đồng hồ nên anh cả đã dùng bút bi về lên cổ tay tôi một chiếc đồng hồ. Phải thừa nhận là anh ấy có khiếu vẽ, giống như một chiếc đồng hồ thật, lại rất đẹp. Tôi thích chiếc “đồng hồ” này vô cùng, rửa tay thì tránh để nước té vào, gặp mưa thì giấu tay thật kỹ, mực mờ đi thì lại mượn bút của anh cả đồ lại. Chiếc “đồng hồ” này tồn tại trên tay tôi đến hơn ba tháng!

6

Tặng chiếc đồng hồ Thụy Sĩ cho cô tôi là một chàng phi công quân đội. Trời ạ, thời buổi ấy mà đã là một phi công quân đội! Khi biết được tin này, anh chị tôi đều há hốc mồm. Còn tôi thì thể hiện sự hưng phấn của mình bằng cách hai tay chống xuống đất trồng chuối và ngã quay lơ.

Đây không chỉ là chuyện vui của gia đình tôi mà còn là chuyện vui của cả thôn. Mọi người đều cho rằng cô và chàng phi công là một đôi tương xứng. Ông Vương, đầu bếp trong nhà ăn của trường từng tham gia chiến tranh giúp Triều Tiên đánh Mỹ nói, phi công là được đúc bằng vàng. Vàng mà cũng đúc được thành người sống sao? Tôi nghi ngờ hỏi, lúc ấy tôi đang đứng trước mặt các thầy giáo và các cán bộ công xã, họ đang ăn cơm. Ông Vương nói: “Vạn Tiểu Bão à, mày đúng là đồ ngốc nghếch. Ý của ta là, nhà nước đào tạo được một phi công phải bỏ ra không biết bao nhiêu là tiền của. Giá trị của nó phải tương đương với bảy mươi ký lô vàng ròng”. Tôi đem lời ông Vương nói lại với mẹ, mẹ nói: “Trời ạ! Mai mốt cô mày đến đây ăn cơm, chúng ta phải chiêu đãi cô những món gì nhỉ?”

Trong những ngày ấy, những câu chuyện mang tính thần thoại về những phi công lúc nào cũng râm ran trong lớp chúng tôi. Trần Tị nói khi còn ở Cáp Nhĩ Tân, mẹ nó đã từng gặp phi công Liên Xô. Ai cũng mặc áo da rất dày, giày cao cổ, có răng vàng, đồng hồ vàng, ăn đồ tây, uống bia tây. Tiêu Hạ Thần (sau này đổi tên thành Tiêu Hạ Xuân), con trai của người coi kho Tiêu Thượng Thần thì nói, phi công Trung Quốc ăn còn ngon hơn cả phi công Liên Xô - Nó kê ra một loạt thực đơn giành cho phi công Trung Quốc - làm như nó là người phục vụ chuyện ăn uống cho họ vậy. Buổi sáng: Hai quả trứng gà, một cốc sữa tươi, bốn chiếc bánh quẩy, hai chiếc bánh bao, một lát đậu phụ; Buổi trưa: Một bát thịt bò hầm nhừ, một con cá Hoàng hoa, hai tô màn thầu; Buổi tối: Một con gà quay, hai chiếc bánh bao nhân thịt lợn, hai chiếc bánh bao nhân thịt dê, một bát cháo trắng. Sau bữa cơm còn có trái cây như chuối, táo, nho, lê... ăn tùy thích, ăn không hết có thể mang về. Áo da của phi công có hai chiếc túi rất to, tại sao thế? Người ta thiết kế hai chiếc túi to ấy là để đựng trái cây... Những lời kể về cuộc sống phi công của Tiêu Hạ Thần khiến chúng tôi nuốt nước bọt ừng ực. Đứa nào cũng mơ ước lớn lên sẽ lái máy bay để được trải qua những ngày thần tiên trong cuộc đời.

Người ta đến trường trung học số 1 để tổ chức tuyển sinh phi công, anh cả tôi sốt sắng báo danh đăng ký dự tuyển. Ông cố tôi là người kéo cày cho địa chủ, là cố nông, sau đó thì tham gia vận chuyển quân dụng cho giải phóng quân trong chiến dịch Mạnh Lương Cang. Thi thể của người anh hùng Trương Linh Phủ là do ông cố tôi vác từ trên núi xuống. Nhà bà cố tôi cũng là bần nông. Ông nội tôi là liệt sĩ cách mạng, nói chúng là thành phần xuất thân và quan hệ xã hội của gia đình tôi là vượt quá tiêu chuẩn chính trị. Anh cả tôi lại là kiện tướng chạy việt dã cấp học sinh trung học, lại là vận động viên ném đĩa sắt. Một ngày nọ, anh ấy về thăm nhà được mẹ cho ăn một bữa đuôi dê no nê, về trường thì cảm thấy sức lực căng tràn, không biết phát tiết thế nào bèn lấy đĩa ra sân vận động ném. Chiếc đĩa được ném vút lên cao và bay mãi, vượt qua hàng rào khuôn viên trường, bay ra đến tận ngoài đồng, đúng vào lúc nông dân đang cày rất đông. Chiếc đĩa rơi đúng xuống sừng một con trâu đang cày và tiện đứt ngọt lịm sừng con trâu - Nói như vậy để chứng minh, thành phần xuất thân của anh cả tôi không có vấn đề gì, học tập giỏi, sức khỏe tốt, lại có một người cô sắp có chồng là phi công. Do vậy, cả nhà tôi đều tin chắc rằng, cho dù người ta chỉ tuyển một phi công trong toàn huyện thì cũng không thể thoát khỏi tay anh cả tôi. Nhưng sau đó anh cả lại không trúng tuyển, nguyên nhân cơ bản là trên đùi anh ấy có một cái sẹo do hồi nhỏ bị mọc nhọt. Lão Vương ở nhà ăn của trường nói: “Trên người có sẹo thì tuyệt đối không thể lái máy bay. Phi công bay lên độ cao, vết sẹo trên người rất dễ vỡ ra vì áp suất không khí. Đừng nói là có sẹo, lỗ mũi quá nhỏ cũng không được”.

Nói chung là, kể từ khi cô tôi và chàng phi công ấy yêu nhau, mỗi người chúng tôi đều tỏ ra rất nhạy cảm với những chuyện có liên quan đến lái máy bay. Ngay cả bây giờ tôi đã trên năm mươi nhưng vẫn thích đua đòi hư vinh, thích khoe khoang. Nếu có trúng số được một trăm đồng, tôi nhất định phải tìm cho được một cái loa phóng thanh để đi rêu rao cho toàn huyện được biết. Nghĩ lại, lúc học tiểu học, tôi lại có một người dượng lại là phi công, sao mà vinh quang!

Cách thôn tôi khoảng năm mươi cây số về phía nam là sân bay Giảo Châu, cách khoảng sáu mươi cây số về phía tây là sân bay Cao Mật. Máy bay ở sân bay Giảo Châu vừa to vừa xấu, đen xì xì, nghe người lớn nói đó là những chiếc máy bay oanh tạc. Còn máy bay ở sân bay Cao Mật thì trông rất nhẹ nhàng thanh thoát, màu xám bạc, có thể nhả khỏi sau đuôi, có thể trồng chuối được. Anh cả tôi nói đó là loại máy bay “Tiêm kích - 5”, mô phỏng từ máy bay “Mic - 17” của Liên Xô, là máy bay chiến đấu đúng nghĩa. Trên chiến trường Triều Tiên, làm cho máy bay Mỹ phải lộn nhào chính là loại máy bay này. Chồng sắp cưới của cô tôi là phi công lái loại máy bay chiến đấu này. Lúc ấy, không khí chiến tranh đã nồng nặc nên máy bay của hai sân bay này ngày nào cũng gầm rú tập luyện trên trời. Chúng bay đến tận bầu trời Đông Bắc Cao Mật của chúng tôi, triển khai chiến trường trên đầu chúng tôi, lúc thì ba chiếc, lúc thì sáu chiếc, lúc thì kéo cả đàn bay vòng vèo đen kịt bầu trời. Có những chiếc từ trên cao bổ nhào xuống, thấp đến độ gần chạm ngọn cây dương ở đầu làng mới ngóc đầu bay thẳng lên trời. Một ngày nọ, một tiếng nổ cực lớn vang lên từ không trung - Cô tôi nói, đúng lúc ấy cô đang đỡ đẻ cho một sản phụ đã lớn tuổi nhưng sinh lần đầu. Bà này vì quá lo lắng nên bị co giật, đang chuẩn bị can thiệp thì nghe thấy tiếng nổ ấy. Bà nọ hoảng sợ nên sự chú ý bị phân tán, sự lo lắng biến mất, cơn co giật cũng không còn nên chỉ cần rặn một cái là đứa trẻ đã tòi ra ngoài. Tiếng nổ làm cho giấy dán cửa sổ của rất nhiều ngôi nhà rách toạt. Chúng tôi kinh hoàng sững sờ trong giây lâu rồi thầy giáo dẫn chúng tôi chạy ra khỏi lớp, ngẩng đầu nhìn lên trời. Chúng tôi thấy trên bầu trời xanh có một chiếc máy bay, phía sau có mấy chiếc đuổi theo. Chung quanh chiếc máy bay bay trước đang tỏa ra những cụm khói trắng, sau đó là những tiếng nổ vang đến tai chúng tôi. Tiếng đạn nổ không to và chát chúa như tiếng nổ vừa rồi. Lần đầu tiên trong đời tôi nghe được một tiếng nổ to đến như vậy. Ngay cả khi sét đánh cắt cây liễu cổ thụ ra làm đôi năm trước, tiếng nổ cũng không lớn hơn. Hình như những phi công trên những chiếc máy bay đang đuổi theo sau cố ý không bắn trúng chiếc máy bay phía trước, những đụn khói chỉ xuất hiện chung quanh nó mà thôi. Khi tất cả đã khuất khỏi tầm nhìn chúng tôi, vẫn không có viên đạn nào trúng đích. Trần Tị đưa tay lên gãi gãi cái lỗ mũi có biệt danh là “Con chuột nhỏ” của cậu ta, bình luận với vẻ khinh thường: “Kỹ thuật bắn của phi công Trung Quốc quá kém. Nếu đó là phi công Liên Xô, chỉ cần một viên là chiếc máy bay đi đầu sẽ rơi ngay mà thôi”. - Tôi biết, nó nói như vậy bởi vì đang đố kỵ với tôi. Nó sinh trong thôn, lớn lên trong thôn, ngay cả một con chó Liên Xô cũng chưa gặp thì làm thế nào mà biết được kỹ thuật của phi công Liên Xô hơn phi công Trung Quốc?

Lúc ấy, những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở nông thôn như chúng tôi làm sao có thể biết là mối quan hệ Trung Quốc và Liên Xô đã bắt đầu xấu đi. Trần Tị dùng phi công Liên Xô để dè bỉu phi công quân đội Trung Quốc khiến chúng tôi, đặc biệt là tôi cảm thấy không vui tí nào, nhưng rồi chẳng có đứa nào nghĩ đến chuyện ấy nữa. Mấy năm sau, Cách mạng văn hóa bắt đầu, chúng tôi đang học lớp năm, thằng Tiêu Hạ Thần lại đem chuyện ấy nói lại, không những làm cho Trần Tị chịu khổ đã đành mà ngay cả bố mẹ nó cũng không tránh được tai họa, ban đầu là bị đánh đập và cuối cùng là mất luôn cả tính mạng. Người ta lục soát nhà nó và lôi ra một cuốn tiểu thuyết Liên Xô “Con người chân chính” kể về một anh hùng không quân Liên Xô. Nghe đâu đây là một cuốn tiểu thuyết cổ vũ tinh thần cách mạng đúng đắn nhưng lại là bằng chứng cho việc mẹ Trần Tị đã gian díu với một phi công Liên Xô và chính bản thân nó lại là tội chứng cho sự gian díu tạp chủng ấy.

Những chiếc “Tiêm kích - 5” của sân bay Cao Mật tập luyện ban ngày, máy bay của sân bay Giảo Châu cũng không chịu lép vế - Chúng thường bay về đêm. Hầu như đêm nào cũng thế, khoảng tám đến chín giờ tối - cũng là lúc đài truyền thanh huyện chuẩn bị ngừng phát - thì những chiếc đèn pha ở sân bay đồng loạt bật lên. Những luồng ánh sáng cực mạnh lia thẳng lên bầu trời cho dù đến khoảng không trên vùng trời của thôn tôi đã yếu hẳn nhưng vẫn làm cho chúng tôi hoảng sợ. Mỗi lần trông thấy chúng, tôi thường nói một câu hầu như vô lý, vô lý đến độ ngu xuẩn: “Nếu có cái đèn pin mạnh như thế thì tốt quá!” - “Ngu xuẩn!”. Hễ nghe thấy tôi nói câu ấy thì anh hai tôi lúc nào cũng dùng từ ngu xuẩn để chửi tôi, đồng thời với tiếng chửi là một cái cốc nhẹ vào đầu. Chắc cũng là bắt đầu chịu ảnh hưởng từ người yêu là phi công của cô tôi nên anh hai tôi đâm ra mê máy bay. Có thể nói đối với chúng tôi, anh hai là một chuyên gia về hàng không. Anh ấy có thể thuộc làu tên tuổi những anh hùng phi công của Chí nguyện quân, lại có thể kể vanh vách những sự tích anh hùng của họ. Cũng chính anh ấy nói với tôi về tiếng nổ làm rách giấy ngày ấy nhân một buổi anh ấy nhờ tôi bắt rận trong quần áo. Anh ấy nói đó là tiếng rít của máy bay siêu âm. “Sao lại gọi là máy bay siêu âm?” - Tôi hỏi - Anh ấy nói - “Là máy bay bay nhanh hơn so với tốc độ âm thanh, mày đúng là đồ ngốc!”

Khi sân bay Giảo Châu tập luyện, ngoài những ánh đèn pha làm cho tôi mê mẩn ra, không còn gì đáng xem nữa cả. Cũng có người nói, đèn pha được bật lên không phải là để luyện tập mà để dẫn đường cho những chiếc máy bay bị lạc. Mấy luồng ánh sáng khổng lồ ấy cứ quét đi quét lại, có lúc giao thoa với nhau, có lúc song song, thi thoảng có một con chim lọt vào vùng ánh sáng ấy, hoảng sợ đập cánh loạn xạ chẳng khác nào một con ruồi bị rơi vào trong lọ thủy tinh. Nói chung là sau khi đèn pha rọi vào không trung khoảng mấy phút thì đã có tiếng máy bay ầm ầm. Một lát sau thì chúng tôi đã thấy, một vật đen thui thui được định vị bằng mấy bóng đèn chớp nháy ở đầu, đuôi và hai cánh xuất hiện trong chiếc trụ ánh sáng ấy. Hình như nó đang trượt trong ánh sáng để quay về với tổ của mình. Máy bay cũng có tổ giống như chim mà thôi.

7

Nửa sau năm 1960, cũng là thời điểm cách lúc chúng tôi ăn than đá không lâu, cả nhà nhận được tin cô tôi sắp sửa làm lễ cưới với chàng phi công ấy. Để giải quyết chuyện đồ dùng trong nhà cho cô, bà nội qua nhà tôi thương lượng với mẹ và cuối cùng quyết định hạ cây thu cổ thụ đã hơn trăm năm tuổi để nhờ ông thợ mộc giỏi nhất thôn họ Phạm đóng tủ giường bàn ghế. Tôi đã thấy chính bố tôi đã đưa ông Phạm về nhà đo đo đếm đếm cái cây. Hình như biết là mình sắp chết nên tôi thấy cây thu run rẩy, lá đập vào nhau kêu rào rào chẳng khác nào những tiếng khóc.

Nhưng rồi mọi chuyện hầu như không tiến triển thêm được tí nào. Tôi sốt ruột chạy qua nhà bà nội định thăm dò tình hình thì bị bà lấy gậy đuổi ra khỏi nhà. Tôi nhận ra, chỉ có mấy ngày mà hình như bà đã già thêm mấy chục tuổi, trông bà chẳng khác gì những “mụ phù thủy” trong truyền thuyết!

Một buổi sáng, sau một trận tuyết kéo dài, vầng mặt trời đỏ một cách kỳ lạ. Chúng tôi đến lớp, chân xỏ trong giày cỏ mà vẫn cảm thấy chân tay đều lạnh cóng. Trong sân vận động, chúng tôi vừa chạy vừa la hét như muốn dùng tiếng la hét của mình để xua đi cái rét. Đột nhiên, một âm thanh kinh hoàng vang lên giữa thinh không. Chúng tôi đứng sững giữa sân vận động, đồng loạt ngước mắt nhìn lên. Hiện ra trước mắt chúng tôi là một con chim khổng lồ, màu đỏ sẫm, sau đuôi là một luồng khói rất dày, màu đen - có hai con mắt màu đỏ - đang run rẩy, đúng hơn là đang chao đảo bổ nhào xuống, đúng vào chỗ chúng tôi đang đứng. Máy bay! Mẹ ơi! Máy bay! Có lẽ nào nó sẽ đáp xuống sân vận động, nơi chúng tôi đang đứng?

Bọn học sinh chúng tôi chưa bao giờ được trông thấy một chiếc máy bay trong cự ly gần đến như vậy. Gió từ đôi cánh của nó làm lông gà và cỏ khô, lá khô trên sân vận động bốc lên cao. Nếu nó đáp xuống ngay trên sân vận động này thì hay biết mấy! Chúng tôi đã có thể chứng kiến tận mắt, thậm chí có thể sờ vào thân thể của nó và nếu có may mắn thêm chút nữa, chúng tôi đã có thể chui vào bụng nó để mà nhìn mà ngắm, biết đâu là có thể nghe viên phi công ấy kể một vài câu chuyện về cuộc đời chiến đấu của anh. Anh ấy có thể là chiến hữu của người dượng tương lai của tôi. Nhưng không, chiến hữu của dượng tôi phải lái chiếc “Tiêm kích - 5” mới đúng, so với chiếc máy bay này thì đẹp hơn nhiều, do vậy, dượng tương lai của tôi nhất định không phải là chiến hữu của người lái chiếc máy bay này. Nhưng, nói gì thì nói, đã là người lái máy bay thì trong mắt chúng tôi, tất cả đều là anh hùng. Có thể bắt một khối sắt khổng lồ bay liệng giữa không trung như thế cũng đã đủ để biến thành thần thánh, cũng đã đủ để trở thành anh hùng rồi. Tôi không kịp nhìn thấy gương mặt người phi công ấy nhưng sau sự kiện ấy, rất nhiều bạn cùng lớp với tôi thề độc rằng, qua lớp kính trước đầu máy bay, chúng đã nhìn thấy gương mặt của người phi công - Chiếc may bay mà trong thâm tâm tôi khẳng định là sẽ rơi xuống sân vận động, ngay chỗ chúng tôi đang đứng rõ ràng là không tự nguyện đột nhiên ngóc đầu dậy, quay ngoắt về phía bên phải, bụng nó cạ vào đầu ngọn cây dương ở đầu thôn rồi bay thẳng ra đồng lúa mạch. Chúng tôi nghe thấy một tiếng nổ. Tiếng nổ này nghe có vẻ trầm đục hơn hẳn so với tiếng nổ “siêu âm” mà anh hai tôi đã giải thích trước đó. Chúng tôi cảm thấy đất dưới chân mình run rẩy, chao đảo, tai bùng nhùng oong oong, mắt nổi đom đóm. Tiếp ngay sau đó là một đụn khói hòa lẫn với ngọn lửa màu đỏ sậm xông thẳng lên trời, ánh mặt trời lập tứng biến thành đỏ bầm và chúng tôi ngửi thấy một một vị quái lạ đến độ tức thở.

Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, hồn phách chúng tôi mới quay trở lại và chạy ùa ra phía đầu thôn. Vừa chạy đến con đường lớn dẫn vào thôn, chúng tôi đã nhận thấy không khí nóng một cách đột ngột. Chiếc máy bay đã nổ tung thành hàng chục mảnh, một cánh chống xuống đất cháy phừng phừng như một ngọn đuốc khổng lồ. Lửa cháy loang ra một khoảnh lúa mạch, mùi ngai ngái như da bị đốt xông lên. Đúng lúc ấy, một tiếng nổ kinh hoàng vang lên, ông Vương là người có kinh nghiệm nhất nên hô lớn: Nằm xuống!

Chúng tôi đồng loạt nằm xuống và theo lệnh ông Vương, bò lui về phía sau. “Bò nhanh, dưới cánh máy bay có đạn!” - Ông Vương quát lớn.

Sau đó chúng tôi mới biết, dưới cánh máy bay có thể gắn đến bốn quả đạn lớn, ngày ấy nó chỉ gắn hai quả. Nếu đủ bốn quả và cùng phát nổ, e rằng chúng tôi đã không còn trên cõi đời này nữa.

Sau vụ máy bay bị tai nạn ba ngày, bố tôi cùng với cánh đàn ông trong thôn đánh xe chuyển thi thể của viên phi công cùng với những mảnh vụn của chiếc máy bay đến sân bay quay về thì anh cả tôi hồng hộc chạy vào nhà. Kiện tướng chạy việt dã này đã chạy một mạch đến hai mươi lăm cây số từ trường trung học về nhà. Hai mươi lăm cây số! Một khoảng cách của một cuộc đua việt dã! Vừa lao vào nhà, anh ấy kêu lên được một tiếng: “Cô...” là đã giúi đầu xuống đất, sùi bọt mép, mắt chỉ toàn tròng trắng, hôn mê.

Mọi người vây quanh anh cả, người thì xoa thái dương, người thì ấn huyệt nhân trung, người thì bấm huyệt hổ khẩu, người thì xoa ngực...

“Cô cháu bị làm sao?”

“Cô cháu làm sao?”

Cuối cùng thì anh cả đã tỉnh, méo miệng khóc ngon lành.

Mẹ rót một cốc nước lạnh đổ vào miệng anh cả mấy ngụm rồi rưới tất cả nước còn lại lên mặt anh.

“Nói nhanh lên, cô bị làm sao?”

“ Chú phi công... bạn của cô... lái máy bay chạy trốn rồi...”

Chiếc cốc trên tay mẹ rơi xuống đất vỡ tan thành vô số mảnh vụn.

“Chạy đi đâu?” - Bố hỏi.

“Còn chạy đi đâu được nữa?” - Anh cả dùng ống tay áo lau nước trên mặt, nghiến răng nghiến lợi nói - “Đài Loan! Đồ phản bội, đồ súc sinh ấy đã bay qua Đài Loan đầu hàng Tưởng Giới Thạch rồi!”

“Cô con thì sao?” - Mẹ hỏi.

“Bị công an huyện dẫn đi rồi!”

Lúc này, nước mắt mẹ tôi đã trào ra ướt đẫm khuôn mặt. Mẹ dặn chúng tôi là không được cho bà nội biết chuyện này, cũng đừng đi nói tung tung với người trong thôn.

Anh cả nói: “Cần gì phải đến chúng con tuyên truyền. Toàn huyện đã biết hết chuyện này”.

Mẹ tôi vào buồng lấy ra một quả bí đỏ thật to đưa cho chị gái tôi, nói: “Đi, đi cùng mẹ sang thăm bà nội”.

8

Bốn mươi năm sau, con trai anh cả tôi là Tượng Quần được tuyển vào học lái máy bay. Tuy thế sự đã thay đổi, bãi bể hóa nương dâu, rất nhiều chuyện ngày trước cứ cho là thần thánh đều đã trở nên bình thường. Rất nhiều công việc ngày ấy được người ta đưa ánh mắt nhìn với vẻ ngưỡng mộ thì giờ đây hóa ra tầm thường, nhưng làm một phi công vẫn là công việc vinh quang của cả gia tộc, có thể nói là của cả thôn. Do vậy, anh cả tôi, trong tư cách là một cục trưởng Cục Giáo dục đã nghỉ hưu vẫn về làng tổ chức một bữa đại tiệc chiêu đãi bạn bè thân thiết và gia đình để mừng cho con trai mình.

Buổi tiệc đêm được tổ chức tại sân nhà anh hai tôi. Anh ấy nối điện từ trong nhà ra, mắc mấy cái bóng đèn rất to khiến chiếc sân rộng sáng trưng như ban ngày. Hai chiếc bàn to được ghép với nhau, chung quanh đặt đến hơn hai mươi chiếc ghế tựa. Chúng tôi ngồi chen vai thích cánh bên nhau. Món ăn đặt từ nhà hàng mang đến, đủ cả sơn hào hải vị, gà vịt cá rau ngập tràn mặt bàn, màu sắc tươi rói, hương vị nực nồng. Chị dâu tôi vẫn còn nói với giọng khiêm nhường: “Chẳng có gì ngon cả, mọi người thông cảm và ăn nhiều một tí”. Bố tôi nói: “Đừng nói thế, nghĩ lại những năm sáu mươi, Mao Chủ tịch cũng chưa chắc được ăn những món này” - Thằng cháu được gọi đi học lái máy bay nói: “Ông nội à, đừng động đến ông ấy nữa!”

Được vài ba chung rượu, bố tôi lại nói: “Cuối cùng thì nhà ta cũng đã có một người làm phi công. Năm ấy, bố cháu đăng ký dự tuyển phi công, chỉ vì trên đùi có một vết sẹo mà không được tuyển. Bây giờ thì Tượng Quần đã làm thỏa mãn mộng tưởng của gia đình ta”.

Tượng Quần lên tiếng: “Lái máy bay thì có gì là ghê gớm nào. Nếu thật sự có bản lĩnh thì làm quan lớn hoặc làm ông chủ!”

“Sao cháu lại nói như thế được chứ?” - Bố cầm cốc rượu lên, ngửa cổ uống cạn rồi đặt mạnh xuống bàn, nói tiếp - “Phi công là rồng, là phượng trong thế giới loài người. Ngày ấy, bà cô cháu có một người bạn trai tên là Vương Tiểu Thích, cũng là một phi công, khi đứng chẳng khác nào một cây tùng xanh, khi ngồi chẳng khác nào một cái chuông đồng, đi lại như báo như hổ... Tay này... nếu không vì một sự hồ đồ nhất thời mà chạy trốn sang Đài Loan thì biết đâu rằng, lúc này đã là tư lệnh không quân...”

“Có chuyện ấy à? - Tượng Quần kinh ngạc hỏi - “Chồng của bà cô không phải là người nặn búp bê đất sao? Sao lại có một phi công xuất hiện ở đây?”

Anh cả tôi gạt phắt: “Thôi, toàn là chuyện cũ, đứng nhắc lại nữa”.

Tượng Quần nói: “Không được, con phải đi hỏi bà thôi. Vương Tiểu Thích lái máy bay trốn sang Đài Loan! Thú vị quá!”

Anh cả có vẻ buồn buồn nói: “Con đừng theo đuổi điều thú vị này nữa, có được không? Đã là người thì phải yêu nước, là chiến sĩ lại càng phải yêu nước, đặc biệt là phi công thì phải đặt yêu nước lên hàng đầu. Là người, có thể ăn trộm, có thể giết người đốt nhà, có thể cướp bóc..., ý của bố là đừng bao giờ là một kẻ phản bội. Kẻ phản bội để lại tiếng xấu vạn năm, không có kết cục tốt đẹp gì đâu...”

“Xem bố kìa, Đài Loan là một bộ phận của tổ quốc ta, bay sang đó xem một lần cũng đâu có gì là phạm pháp.” - Tượng Quần vẫn ương bướng nói.

“Con đừng...” - Chị dâu tôi nói - “Nếu con đã có ý nghĩ đó thì đừng nên lái máy bay nữa. Mai mốt mẹ sẽ gọi điện thoại cho ông Lưu, chính ủy không quân để nói với ông ấy”.

“Đừng lo lắng, mẹ à.” - Cháu tôi nói - “Con không ngu đến thế đâu? Lẽ nào con chỉ chạy theo những ham mê của con mà không quan tâm gì đến mọi người, đến gia đình sao? Vả lại, bây giờ Đài Loan và Trung Quốc đã là một nhà thân thiết. Nếu con có bay qua đó thì người ta cũng trả con về thôi”.

“Đó mới là gia phong của nhà họ Vạn ta.” - Anh cả nói - “Vương Tiểu Thích là một gã không ra gì, là kẻ tiểu nhân không hề có ý thức trách nhiệm. Hắn đã phá hoại cả một đời bà cô của các con”.

“Ai đang nói gì về ta?” - Một giọng nói đầy quyền uy vang lên và cô tôi đã xuất hiện trước sân. Ánh đèn sáng lóa khiến cô nheo nheo đôi mắt, quay người đeo chiếc kính đen vào, trông cô vừa có vẻ nghiêm trang vừa có vẻ buồn cười - “Cần quái gì phải dùng bóng điện sáng như thế này? Như bà nội các cháu đã nói, cho dù ăn trong bóng tối cũng không cho thức ăn vào mũi đâu mà sợ. Điện là từ than đá mà ra, than đá là do người đào lên, được một xẻng than chẳng dễ chút nào, phải đào sâu đến cả ngàn thước, chui vào đó chẳng khác nào xuống địa ngục! Có thơ rằng, Tham quan ô lại chủ hầm lò, Tính mệnh dân công như bùn đất. Mỗi hòn than đều nhuốm máu, các cháu có biết không?”

Cô mặc bộ quần áo theo dạng quân phục rất thịnh hành hồi những năm bảy mươi, ống tay áo vén cao. Cô rất mập, mái tóc bạc trắng, trông cô chẳng khác nào những cán bộ công xã thời Cách mạng văn hóa hậu kỳ. Bất giác tôi cảm thấy bùi ngùi. Cô tôi - một thời rực rỡ như đóa sen vừa mới nở bây giờ lại biến thành hình dạng như thế này sao?

Về vấn đề có nên mời cô tham dự bữa tiệc hay không, anh cả và chị dâu đã bàn luận rất quyết liệt nhưng không thống nhất ý kiến, cuối cùng mới tham khảo ý kiến của bố. Bố suy nghĩ rất lâu rồi nói: “Thôi thì đừng mời, lúc này cô... Dù sao thì cô cũng không sống ở đây... sau này nói mấy lời xin lỗi cô cũng được...”

Sự xuất hiện của cô khiến mọi người cảm thấy lúng túng, đồng loạt đứng dậy, lặng thinh.

“Sao thế? Ta bỏ nhà đi đã lâu, bây giờ mới về lại ngôi nhà của mình, lẽ nào lại không có được một cái ghế để ngồi sao?” - Cô nói với giọng châm chọc.

Mọi người đồng loạt tranh nhau nhường ghế, lộn xộn vô cùng.

Anh cả và chị dâu vội vàng giải thích: “Người đầu tiên chúng cháu nghĩ đến là cô. Cái ghế bành quý nhất của nhà họ Vạn này vĩnh viễn vẫn thuộc về cô”.

Cô “xì” một tiếng rồi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh bố tôi, kêu tên cúng cơm của anh cả ra mà nói: “Đại Khẩu à, bố mày còn đang sống sờ sờ đấy, chiếc ghế bành ấy có cơ hội để chuyển đến cho ta ngồi hay không? Giả sử bố mày có chết đi chăng nữa, nó cũng không đến được với ta! Con gái đã lấy chồng rời khỏi nhà như bát nước đã hắt đi. Anh nói thử, tôi nói có đúng không, anh cả?”

“Cô không phải là một đứa con gái bình thường. Cô là công thần của gia tộc chúng ta.” - Bố chỉ vào tất cả chúng tôi đang quây quần chung quanh, nói tiếp: “Cả mấy thế hệ bọn chúng, đứa nào mà không qua bàn tay đỡ đẻ của cô?”

“Hảo hán không nhắc lại thời oanh liệt đã qua.” - Cô nói - “Nhớ những năm ấy... Thôi vậy, nhắc lại quá khứ làm gì? Uống rượu đi! Sao thế? Không có cốc rượu cho ta à? Ta đã mang rượu theo đây!” - Cô lôi từ trong túi áo ra một chai rượu Mao Đài to đùng đặt mạnh lên bàn - “Rượu Mao Đài năm mươi năm, là của biếu của một quan lớn thành phố Đình Lan. Cô vợ nhỏ hơn hai mươi tám tuổi của hắn có mang. Hắn muốn có một đứa con trai, nghe nói ta có phương thuốc bí truyền có thể chuyển thai nhi từ giống cái sang giống đực nên đem lễ đến nhờ ta chuyển giúp! Ta nói, đó chẳng qua là giới thầy lang giang hồ bày đặt để kiếm tiền thôi. Nhưng cô ta không tin, nước mắt ngắn nước mắt dài, có chết cũng không rời nhà ta nếu ta không nhận lời giúp, thiếu điều quỳ lạy trước mặt ta nữa. Cô ta nói bà vợ cả đã sinh được hai đứa con gái. Nếu cô ta có thể sinh được một đứa con trai thì đủ sức để giành gã quan lớn ấy về phía mình. Gã đàn ông ấy trọng nam khinh nữ, tư tưởng phong kiến quá nghiêm trọng, đáng ra đã làm quan cao như vậy phải có tinh thần giác ngộ cao hơn một tí chứ. Xì!”- Cô phẫn nộ nói tiếp – “Dù sao thì tiền của loại quan tham này không phải có từ con đường chân chính, không kiếm được tiền từ bọn chúng thì lẽ nào lại kiếm tiền từ tay người cùng khổ? Ta bốc cho cô ta mấy thang thuốc, chẳng qua cũng chỉ là đương quy, sơn dược, thục địa, cam thảo loạn xị. Mỗi thứ giá năm mươi xu là có được cả vốc. Cộng tất cả lại chưa quá ba mươi đồng nhưng mỗi thang ta lại đòi giá đến một trăm! Cô ta mừng đến độ không đi nổi nữa mà gần như phải bò để leo lên chiếc xe hơi sang trọng, phóng đi như bay về thành phố. Chiều nay, gã quan lớn nọ cùng với cô vợ hai và đứa con trai bụ bẫm đến nhà ta, mang theo nào là rượu ngon thuốc lá ngoại đến để biếu ta, nói may mà uống được linh dược của bà, nếu không thì làm sao có thể đẻ được thằng con trai ngon lành như thế này! Ha ha ha!” Cô cười lớn, cầm lấy cốc rượu mà anh cả tôi đang cung kính đưa đến trước mặt uống cạn rồi đưa tay đập mạnh xuống đùi, nói tiếp - “Đúng là ta đang thật sự khoan khoái! Các người nói xem, làm quan cao đến như vậy chắc cũng là người có chút ít kiến thức, có chút văn hóa, sao lại ngu xuẩn đến độ ấy nhỉ? Giới tính của thai nhi làm sao đổi được? Nếu ta có phép thần thông như vậy e rằng ta đã nhận giải Nobel y học từ lâu rồi! Nào, rót rượu cho ta!” - Cô đưa chiếc cốc cho anh cả - “Đừng mở bình Mao Đài này, vì ta muốn tặng nó cho anh cả!”

Bố tôi vội vàng nói: “Đừng đừng đừng, ruột gan anh không được tốt, uống loại rượu nặng thế này e chịu không nổi đâu”.

Cô đặt bình rượu vào tay bố, nói: “Tặng cho anh, anh cứ uống!” - Bố tôi nhìn giải lụa thắt chiếc nơ thật đẹp ở cổ chai, ngập ngừng hỏi - “Bình rượu này... khoảng bao nhiêu tiền?” - Chị dâu cả của tôi nói: “Chí ít cũng phải tám nghìn đồng! Nghe đâu gần đây lại tăng giá rồi.” - “Trời đất!” - Bố tôi kêu lên - “Đây đâu phải là rượu, là máu rồng máu phượng cũng chưa chắc đã đắt hơn! Một cân lúa mạch tám hào, một bình rượu ngang bằng với mười nghìn cân lúa mạch? Gian khổ cả năm tôi cũng chẳng kiếm được nửa chai rượu này.” - Bố đưa chai rượu lại cho cô - “Thôi thì cô mang về đi, loại rượu này tôi không thể uống được, uống vào một ngụm e tổn thọ đến mấy năm.” - Cô nói: “Tôi đã cho anh thì anh cứ uống. Dù sao thì cũng không phải là do tôi bỏ tiền ra mua mà.” - Bố nói: “Lý thì là như vậy, nhưng nghĩ kỹ lại, một chút nước cay nồng thế này thì dựa vào đâu mà lại đắt đến như vậy?” - Cô nói: “Anh cả à, anh già rồi mà vẫn không hiểu cái đạo lý này sao? Thế này nhé, những kẻ uống loại rượu ấy có bao giờ dùng tiền của mình để uống đâu. Nếu dùng tiền của mình, chúng chỉ có thể uống được loại rượu trong cốc này.” - Cô đưa cốc rượu lên, uống cạn - “Anh cũng đã tám mươi rồi, liệu còn uống được mấy năm nữa mà lo tổn thọ?” - Cô vỗ vỗ lên ngực, nói đầy hào phóng - “Trước mặt bọn hậu bối này, cô em gái của anh dám tuyên bố: Bắt đầu từ nay, tôi sẽ cung cấp rượu Mao Đài cho anh uống! Sợ gì chứ? Trước đây chúng ta sợ đủ điều, trước mặt sợ sói, sau lưng sợ hổ nhưng càng sợ thì quỷ sứ càng dọa! Rót rượu đi chứ! Chúng bay không có mắt hay sợ hết rượu?” - “Không đâu bà ơi, bà cứ uống thỏa sức”. - Có ai đó nói - “Có uống thỏa sức thì liệu uống được bao nhiêu!” - Cô nói thật cảm khái - “Ta và một lũ tạp chủng ở công xã nhân dân đã từng đấu rượu. Cả lũ già trẻ lớn bé bọn chúng muốn biến ta thành trò cười. Nhưng cuối cùng thì sao, cả bọn có đứa thì gục mặt xuống bàn ngáy pho pho, có đứa chui xuống gầm bàn rống lên như chó sủa! Nào, các chàng trai trẻ, cạn!” - “Cô à, cô ăn một tí gì đi” - “Ăn cái gì? Năm ấy, chỉ cần một lá hành mà ông nội chúng bay đã uống cạn một vò rượu cao lương! Người uống rượu chân chính làm gì có chuyện ăn? Chúng bay chỉ là một bọn hám ăn! Anh cả!” - Hình như cô đã ngấm rượu, đưa tay mở khuy áo ngực, vỗ lên vai bố, nói - “Tôi bảo anh uống thì anh cứ uống. Thế hệ của chúng ta chỉ còn lại hai anh em mình, không ăn một tí uống một tí thì sẽ phí hoài. Tiền mà không tiêu thì cũng chỉ là một tờ giấy nhớp nhúa, tiêu thì mới là tiền. Tôi có nghề trong tay, tôi không sợ thiếu tiền. Cho dù là quan lớn đến mấy cũng có khi mắc bệnh, mắc bệnh thì sẽ tìm đến ta thôi. Huống hồ, cô cười sằng sặc, ta còn có nghề bí truyền là chuyển giới tính cho thai nhi. Kỹ thuật này cao siêu lắm, ta đòi mười nghìn, họ cũng sẽ đưa mà thôi...”

“Nhưng... uống thuốc của cô rồi mà thai nhi vẫn không chuyển đổi giới tính thì làm sao?” - Bố tôi có vẻ suy nghĩ và tò mò hỏi.

“Điều này mà anh vẫn chưa hiểu à”. - Cô nói - “Trung y là cái gì? Những người làm Trung y một nửa là thầy tướng số. Nói thế anh không hiểu sao?”

Thừa lúc cô dừng lời để châm lửa hút thuốc, thằng cháu Tượng Quần chen vào: “Bà à, bà có thể nói một tí về người phi công ngày ấy không? Biết đâu rằng đến một lúc cao hứng nào đó, cháu bay thẳng sang Đài Loan để thăm ông ấy?”

“Nói bậy!” - Anh cả quát.

“Lăng nhăng!” - Chị dâu nói.

Cô hút thuốc một cách thành thạo. Từng làn khói vấn vương trên mái tóc bạc xổ tung của cô. Cô thong thả nói: “Bây giờ nghĩ lại, ông ấy đã phá hoại đời ta nhưng đồng thời cũng đã cứu ta!”

Cô đưa điếu thuốc lên môi rít mấy hơi thật dài rồi rồi kẹp giữa hai ngón tay cái và ngón giữa, búng thật mạnh. Đầu điếu thuốc đỏ rực tạo thành một đường cong tuyệt đẹp bay thẳng ra đến giàn nho - “Được rồi” - Cô nói - “Ta uống đủ rồi, về thôi!”. Cô đứng dậy, thân hình đồ sộ lắc lư và trở nên chậm chạp, tay chân có vẻ lóng ngóng đi thẳng ra cổng. Chúng tôi vội vàng chạy theo đỡ cô. Cô nói: “Chúng bay nghĩ là ta đã say thật rồi à? Không có chuyện đó đâu. Cô đây nghìn cốc không say!”. Trước cổng chúng tôi nhìn thấy dượng tôi - Hách Đại Thủ - người trước đây không lâu đã được phong danh hiệu “Nghệ nhân mỹ thuật dân gian” đã im lìm đứng đợi cô từ lúc nào.

9

Thưa tiên sinh,

Sáng hôm sau, cháu tôi cưỡi xe máy chạy từ huyện về, nhờ bố tôi đưa nó đến nhà bà cô để thăm dò chuyện về Vương Tiểu Thích. Bố tôi có vẻ khó xử, nói: “Ông nghĩ là đừng đến thì hay hơn. Bà cháu đã hơn bảy mươi tuổi rồi, sống được đến lúc này chẳng dễ dàng gì. Nhắc lại chuyện cũ chỉ làm bà thương tâm. Lại nữa, trước mặt ông cháu, bà cũng khó nói năng lắm”.

Tôi nói: “Tượng Quần à, ông nội cháu nói phải lắm. Cháu rất hứng thú với chuyện này thì chú sẽ đem tất cả những gì mà chú biết để nói với cháu. Thực ra, nếu cháu lên mạng internet, cháu cũng có thể biết ít nhiều chuyện này từ đầu đến cuối”.

Bởi vì tôi đã chuẩn bị tất cả tài liệu về cô để viết một cuốn tiểu thuyết - bây giờ lại đổi ý định, biến thành kịch - nếu là tiểu thuyết thì đương nhiên Vương Tiểu Thích sẽ là một trong những nhân vật chính. Để chuẩn bị cho cuốn sách này, tôi đã bỏ ra hơn hai mươi năm, lợi dụng tất cả các mối quan hệ, đến gặp tất cả những người có liên quan. Tôi đã từng đến ba sân bay mà Vương Tiểu Thích đã công tác, hỏi thăm những đồng đội trong cùng trung đội, đến thăm trung đội trưởng và phó đại đội trưởng của ông ta. Tôi cũng từng đặt chân loại máy bay “Tiêm kích - 5” mà Vương Tiểu Thích đã lái, cũng đến điều tra tại Trưởng Phòng Công an chống đặc vụ của huyện cũng như Trưởng Phòng Y tế huyện. Nói chung là, những điều tôi biết về cô và Vương Tiểu Thích nhiều hơn bất cứ ai. Điều đáng tiếc duy nhất là tôi chưa từng gặp mặt người phi công này. Còn bố của Tượng Quần, tức anh cả tôi đã từng được sự đồng ý của cô đến ẩn nấp tại rạp chiếu phim và tận mắt chứng kiến Vương Tiểu Thích cũng cô tay trong tay bước vào rạp. Chỗ ngồi của họ sát với anh cả tôi. Sau đó anh ấy kể lại rằng: Vương Tiểu Thích cao khoảng một mét bảy lăm, cũng có thể là bảy sáu hoặc bảy bảy, da trắng, khuôn mặt hơi gầy, đôi mắt không to nhưng rất sáng, hàm răng chỉnh tề, trắng nõn, sáng lấp lánh trong bóng tối.

Bố cháu nói, đêm ấy người ta chiếu bộ phim Liên Xô, chuyển thể từ bộ tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy của nhà văn Liên Xô Ostrovsky. Bố cháu nói, ban đầu ông ấy còn len lén quan sát tất cả những cử động của cô và Vương Tiểu Thích nhưng sau đó thì bị lôi cuốn bởi những tình tiết cách mạng và tình yêu trên màn ảnh. Thời ấy, rất nhiều học sinh Trung Quốc và Liên Xô gửi thư cho nhau. Cô học sinh Liên Xô từng gửi thư cho bố cháu cũng ngẫu nhiên mang tên Donia, cho nên bố cháu dốc toàn bộ sự chú ý lên màn ảnh mà quên đi sứ mệnh cũng là một điều dễ hiểu. Nhưng không phải vì thế mà bố cháu không thu nhặt được gì. Trước khi chiếu phim, ông ấy đã tranh thủ để nhìn kỹ diện mạo của Vương Tiểu Thích. Trong giờ nghỉ giữa các cuốn phim (lúc ấy mỗi rạp chỉ có một máy chiếu), ông ấy đã ngửi thấy mùi kẹo rất thơm từ miệng Vương Tiểu Thích phả ra. Và tất nhiên là ông ấy cũng nghe thấy những tiếng nhai kẹo, nhai đậu rang của những người chung quanh. Lúc ấy, người ta vẫn cho phép mang tất cả những gì có thể ăn được vào rạp phim, cho dù là vật ấy có xả rác hay không xả rác. Dưới chân luôn luôn có một lớp rác dày cộp nào là giấy lộn, vỏ đậu lạc, vỏ trái cây... Xem phim xong, khi Vương Tiểu Thích lấy xe đạp trước cổng rạp phim và định đưa bà về ký túc xá của Phòng Y tế (lúc ấy bà của cháu tạm thời được điều động về Phòng Y tế huyện) thì bà của cháu cười nói: “Vương Tiểu Thích à, em giới thiệu với anh một người!”. Bố cháu đứng nấp sau cái trụ cổng to đùng không dám xuất hiện, Vương Tiểu Thích nhìn chung quanh hỏi: “Ai? Ở đâu?” - “Vạn Khẩu à, ra đây!”. Nghe thấy tiếng bà gọi, bố cháu mới líu ríu đi từng bước rời khỏi chỗ nấp. Lúc ấy bố cháu cũng đã cao gần bằng với Vương Tiểu Thích nhưng gầy lắm, chẳng khác nào một cây trúc, còn chuyện ném chiếc đĩa sắt cắt đứt sừng con trâu ngoài đồng là do chú thêm thắt vào mà thôi. Đầu tóc bố cháu lúc ấy bù xù trông chẳng khác nào một tổ chim - “Cháu em, Vạn Khẩu” - Bà cháu giới thiệu - “Ha ha! Thì ra là cậu nhóc ngồi bên cạnh để do thám ta!” - Vừa cười vừa nói, Vương Tiểu Thích vừa dùng bàn tay to bè đập đập lên vai bố cháu - “Vạn Khẩu, cái tên nghe hay quá” - Vương Tiểu Thích đưa một tay ra, nói tiếp - “Anh bạn nhỏ, lại đây, chúng ta làm quen với nhau, Vương Tiểu Thích!” - Bố cháu có vẻ sợ sệt đưa cả hai tay ra nắm lấy bàn tay của Vương Tiểu Thích, dùng hết sức lắc lắc vài cái.

Bố cháu nói, sau đó ông ấy có đến sân bay để chơi với Vương Tiểu Thích, lại được ăn một bữa cơm cực ngon ở đó, nào là tôm chiên, nào là thịt gà, nào là trứng xào rau, nào là cơm trắng... ăn tùy thích. Những lời kể của bố cháu khiến bọn chú chảy nước miếng. Bọn bạn chú nhìn bố cháu bằng cặp mắt hâm mộ. Đương nhiên chú cũng cảm thấy vinh dự lây, không chỉ vinh dự vì Vương Tiểu Thích mà còn vinh dự vì bố cháu. Ông ấy là anh cả của chú. Anh cả của chú đã từng được một phi công mời cơm!

Vương Tiểu Thích còn tặng cho bố cháu một cái kèn ácmônica hiệu Vân Tỉnh, là một cái kèn cao cấp. Bố cháu nói, Vương Tiểu Thích rất đa tài, đánh bóng rổ rất hay, động tác nhảy ba bước ném rổ của ông ấy thật đẹp. Ngoài việc biết thổi kèn acmônica, ông ấy còn biết kéo phong cầm, viết chữ bằng bút bi nhưng chẳng khác nào một nhà thư pháp, đẹp hết chê, lại còn biết vẽ tranh nữa chứ. Bố cháu nói, ông ấy đã dùng bút chì vẽ hình bà của cháu lên tường trong phòng ngủ của ông ấy, trông như người thật. Hoàn cảnh xuất thân của Vương Tiểu Thích không chê vào đâu được, bố ông ta là một cán bộ cao cấp, mẹ là giáo sư đại học. Loại người như vậy sao lại bay trốn sang Đài Loan để trở thành kẻ bị người ta đời đời khinh miệt?

Theo lời của trung đội trướng nói thì, Vương Tiểu Thích phải chạy trốn vì bị phát hiện lén nghe đài phát thanh của địch. Ông ấy có một chiếc đài bán dẫn có thể nghe được đài phát thanh Đài Loan. Đài phát thanh của Quốc dân đảng có một phát thanh viên phát âm rất hay, rất chuẩn và có sức lôi cuốn. Cô này có biệt hiệu là “Hoa mai trong đêm vắng”. Người ta kháo nhau là vì mê mẩn giọng nói cô này nên Vương Tiểu Thích biến thành kẻ phản bội. Có lẽ nào cô của chú vẫn chưa đủ sức để hấp dẫn ông ta? Người trung đội trưởng ra vẻ đầy kinh nghiệm nói: “Cô của cháu ấy à, đương nhiên là rất đẹp, rất tốt, xuất thân trong gia đình danh giá, tướng mạo đoan trang, lại là đảng viên. Căn cứ vào tiêu chuẩn thẩm mỹ đương thời, cô của cháu quá sức ưu tú. Tất cả chúng tôi đều thầm ghen tỵ với Vương Tiểu Thích. Nhưng cô ấy quá cách mạng, quá chân chính, lại gặp phải Vương Tiểu Thích là một kẻ đã bị tư tưởng của giai cấp tư sản đầu độc nên anh ta không thỏa mãn”. Sau đó, Phòng công an bảo vệ nội bộ đã phân tích nhật ký của Vương Tiểu Thích để lại và biết được rằng trong nhật ký, ông ấy đã đặt cho bà cháu một cái biệt danh là “Cây gậy màu đỏ”! “Đương nhiên - Trung đội trưởng nói - May mà có cuốn nhật ký này nên cô của cháu mới được giải cứu. Nếu không, cô ấy có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không tẩy hết được vết nhơ!”.

Thưa tiên sinh,

Tôi nói với cháu mình rằng, không chỉ cô tôi suýt bị hủy hoại về người đàn ông ấy mà ngay anh cả tôi cũng bị công an mời đến mấy lần. Chiếc kèn acmônica lại biến thành tội chứng để Vương Tiểu Thích mê hoặc thanh niên nên đã bị thu giữ. Trong nhật ký, Vương Tiểu Thích đã ghi: “Cây gậy màu đỏ” đem đứa cháu ngu ngốc của cô ta giới thiệu cho mình, lại là một cây gậy màu đỏ nữa! Thằng nhóc này mang lại thêm một cái tên hết sức kỳ quái: Vạn Khẩu - Nếu không có cuốn nhật ký của Vương Tiểu Thích, e rằng anh cả tôi cũng không ngóc đầu lên được.

Khi nghe tôi kể chuyện này, thằng cháu tôi nói: “Có khi là ông Vương Tiểu Thích cố ý viết như vậy chăng?”

Tôi nói: “Bà của cháu sau này cũng có suy nghĩ như vậy. Vương Tiểu Thích cố ý bảo vệ cho bà nên mới để lại cuốn nhật ký ấy. Do vậy mà tối qua bà đã nói, chính người này đã hủy hoại bà nhưng cũng đã cứu bà”.

Thưa tiên sinh,

Điều mà thằng cháu tôi quan tâm nhất vẫn là quá trình phản bội của Vương Tiểu Thích. Nó rất khâm phục kỹ thuật lái máy bay của Vương Tiểu Thích. Nó nói: “Điều khiển được máy bay “Tiêm kích - 5” bay ở độ cao năm mét trên mặt nước biển với tốc độ tám trăm cây số giờ, chỉ cần một sai sót nhỏ về kỹ thuật là đâm đầu xuống biển. Đúng là gan to! Đúng là siêu kỹ thuật! Một phi công siêu hạng”. Trước khi trốn chạy, mỗi lần ông ấy bay trên bầu trời thôn chúng tôi, ông ấy đều biểu diễn một pha độc đáo làm chúng tôi muốn đứng tim. Ngày ấy, bọn tôi kháo với nhau rằng, Vương Tiểu Thích từng lái máy bay sà xuống ruộng dưa ở đầu thôn chúng tôi, đưa tay ra khỏi buồng lái và hái một quả dưa đang nằm trên đất và sau đó thì... vút thẳng lên mây!

“Có phải là sau khi sang bên Đài Loan, ông ấy đã nhận thưởng đến năm nghìn lượng vàng?” - Cháu tôi hỏi.

“Có lẽ đúng là như vậy” - Tôi nói - “Nhưng dẫu có năm nghìn lạng vàng cũng có đáng gì. Tượng Quần à, cháu đừng quá hâm mộ ông ta. Tiền bạc, mỹ nữ chẳng qua là mây bay ngang mày. Chỉ có tổ quốc, vinh dự, gia đình mới là đáng quý nhất” - Cháu tôi nói: “Chú Ba à, không hiểu sao chú lại bảo thủ vậy? Lúc này là thời đại nào mà chú còn nói với cháu những lời ấy?”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3