Hannibal - Chương 11
CHƯƠNG 11
Và thế là Starling trở về nơi bắt đầu của cô, Bệnh viện Tội phạm Tâm thần Baltimore, giờ đây đã hoang tàn. Tòa nhà cũ màu nâu, một căn nhà thương đau, đang bị xích khóa và niêm phong. Tòa nhà đầy những dấu vẽ bậy và đang chờ đập đi.
Nó đã xuống cấp từ nhiều năm trước vụ mất tích trong kỳ nghỉ mát của viện trưởng, bác sĩ Frederick Chilton. Những vỡ lở sau đó về sự hoang phí và quản lý thiếu sót cộng vói sự đổ nát của khu nhà đã làm cho nghị viện nhanh chóng cắt bỏ ngân sách. Một số bệnh nhân được chuyển đến những viện công khác. Một số chết và một vài lang thang ngoài đường phố Baltimore như những thây ma theo chương trình bệnh nhân tại ngoại và số người chết trong đó đã nhiều hơn một.
Chờ ở trước tòa nhà cũ mèm, Clarice Starling nhận ra cô đã nghiên cứu kỹ những khả năng khác trước vì không muốn đến chỗ này thêm nữa.
Người bảo vệ đến trễ bốn mươi lăm phút. Đó là một ông già thấp, đậm người với một đôi giày đóng kêu lộp cộp và mái tóc kiểu Đông Âu có lẽ tự cắt ở nhà. Ông thở khò khè, dẫn cô đến cánh cổng phụ cách lề đường vài bậc thang đi xuống. Khóa đã bị những kẻ lang thang nạy ra, cánh cổng được khóa bằng xích và hai ổ khóa. Trên những vòng xích là những đám mạng nhện mờ mờ. Cỏ mọc từ những khe nứt của bậc thang cù vào mắt cá chân Starling trong lúc người bảo vệ đang dò dẫm tìm chìa khóa. Chiều muộn u ám với những hạt ánh sáng heo hắt không đủ làm nên bóng râm.
“Tôi không rành tòa nhà này lắm. Tôi chỉ kiểm tra chuông báo cháy,” người đàn ông nói.
“Ông có biết giấy tờ gì được lưu giữ ở đây không? Có tủ giấy, hồ sơ nào không?”
Ông nhún vai. “Sau bệnh viện thì chỗ này được dùng làm phòng gây mê trong vài tháng. Họ bỏ mọi thứ trong tầng hầm, một vài cái giường, một vài cái chăn, tôi cũng không biết có gì nữa.
Trong đó không tốt cho bệnh hen của tôi, nấm mốc, nấm mốc rất tồi tệ. Những tấm nệm trên giường đầy nấm mốc, giường cũng mốc thếch. Vào đó tôi không thở được. Bậc cầu thang lại cao quá đối với tôi. Tôi sẽ dẫn đường cho cô, nhưng…?”
Starling sẽ rất vui nếu có người đi cùng, ngay cả khi đó là một ông già, nhưng ông ấy sẽ làm chậm tiến độ của cô. “Không cần đâu. Văn phòng ông ở đâu?”
“Dưới dãy kia, chỗ cục cấp phát bằng lái hồi trước đấy.”
“Nếu một tiếng nữa mà tôi không trở lên…”
Ông nhìn đồng hồ đeo tay. “Nửa giờ nữa là tôi tan ca rồi.”
Thật là đủ lắm rồi. “Vậy thì ông làm ơn đợi lấy chìa khóa ở văn phòng nhé. Nếu một tiếng nữa mà tôi không trở lên thì ông hãy gọi số này trên danh thiếp và chỉ cho họ tôi đã đi đâu. Còn nếu khi tôi quay lại mà ông không ở đó, hoặc giả ông đóng cửa về nhà, tôi sẽ đích thân đến báo cáo với sếp của ông vào sáng hôm sau. Thêm nữa… thêm nữa ông sẽ bị Cục Thuế Nội địa kiểm soát và Sở Di trú và… nhập tịch thẩm tra. Ông có hiểu không? Tôi thật cảm kích nếu ông trả lời tôi, thưa ông.”
“Dĩ nhiên tôi sẽ đợi cô. Cô không phải nói những điều này.”
“Cảm ơn ông rất nhiều,” Starling đáp.
Người bảo vệ bám bàn tay to bản lên tay vịn để trở lên lề đường. Starling nghe thấy bước đi khập khiễng của ông chìm vào im lặng. Cô đẩy cửa ra rồi bước vào bậc nghỉ của cầu thang cứu hỏa. Ánh sáng xám xịt rọi qua những ô cửa sổ cao có chấn song ở khu vực cầu thang. Cô cân nhắc xem có nên khóa cửa hay không và quyết định cột dây xích bên trong để vẫn mở được ra nếu như đánh mất chìa khóa.
Trong chuyến đến thăm trại tâm thần lần trước để thẩm tra bác sĩ Hannibal Lecter, Starling đi bằng cổng trước và giờ đây cô phải mất một lúc mới định hướng được.
Cô trèo lên cầu thang cứu hỏa đến tầng lầu chính. Cửa sổ kính mờ càng làm giảm đi ánh sáng yếu ớt và khiến căn phòng chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Với cái đèn pin nặng trịch, Starling lần ra công tắc điện rồi bật đèn trần lên. Ba bóng đèn trong chiếc đui vỡ vẫn còn sáng. Đầu dây điện thoại nằm chỏng chơ trên bàn tiếp tân.
Vài kẻ phá hoại đã mang sơn xịt vào tòa nhà. Tường phòng tiếp tân được trang trí bằng một hình vẽ dương vật to hai mét rưỡi và tinh hoàn cùng với dòng chú thích MẸ FARON THỦ DÂM TAO.
Cánh cửa vào phòng viện trưởng để mở. Starling đứng ngay lối vào. Đây chính là nơi cô đã đến để thực hiện công vụ FBI đầu tiên khi là một thực tập viên còn tin tưởng vào mọi thứ, còn nghĩ rằng nếu bạn làm được việc, nếu bạn có thể hoàn thành nó, bạn sẽ được chấp nhận cho dù thuộc dân tộc, tín ngưỡng, màu da, nguồn gốc nào, dù bạn từng là một đứa trẻ ngoan hay không. Trong tất cả những thứ đó giờ chỉ còn lại một thứ cô vẫn tin tưởng. Cô tin rằng mình có thể hoàn thành nó.
Chính tại đây, Viện trưởng Chilton đã đưa bàn tay mướt mồ hôi của ông ra bắt tay cô và chào đón cô. Tại đây ông đã bán bí mật, nghe lén và tin rằng mình cũng thông minh như Hannibal Lecter, nên đã quyết định để cho Lecter trốn thoát với rất nhiều máu đổ.
Trong văn phòng vẫn còn bàn làm việc của Chilton nhưng không có ghế, thứ vừa đủ nhỏ gọn để đánh cắp. Ngăn kéo bàn trống không chỉ có một viên sủi Alka-Seltzer* vỡ. Hai tủ hồ sơ vẫn còn trong văn phòng. Khóa tủ rất đơn giản và cựu đặc vụ kỹ thuật Starling mất không đến một phút đã mở được rồi. Có một miếng bánh sandwich sấy khô trong túi giấy, vài mẫu đơn của phòng gây mê trong ngăn kéo dưới cùng, cùng với thuốc xịt miệng, một ống thuốc dưỡng tóc, một chiếc lược và mấy bao cao su.
Starling nghĩ ngợi về cái tầng hầm như nhà ngục mà bác sĩ Lecter đã sống trong tám năm. Cô không muốn xuống đó. Cô có thể dùng điện thoại di động yêu cầu một đội cảnh sát thành phố xuống cùng. Cô có thể yêu cầu chi nhánh Baltimore gửi một đặc vụ FBI đi cùng. Nhưng đã khá trễ vào buổi chiều xám xịt và ngay cả bây giờ, cũng không có cách nào tránh khỏi kẹt xe giờ cao điểm ở Washington. Nếu cô cứ chờ đợi có thể còn tồi tệ hơn nữa.
Mặc cho bụi bặm, cô tựa người vào bàn của Chilton và cố đưa ra quyết định. Có phải cô thật sự nghĩ rằng có hồ sơ dưới tầng hầm hay chỉ là cô bị lôi kéo về nơi đầu tiên gặp Hannibal Lecter?
Nếu kinh nghiệm khi còn ở trong ban hành pháp đã dạy cho cô điều gì về bản thân thì đó chính là đây: cô không phải là người thích tìm kiếm sự ly kỳ và sẽ chẳng bao giờ thấy thích thú vì cảm thấy sợ sệt một lần nào nữa. Nhưng có thể có hồ sơ trong tầng hầm. Cô có thể tìm ra chúng trong năm phút.
Cô vẫn nhớ được tiếng cửa sắt an toàn kêu lách cách sau lưng khi xuống đó ba năm về trước. Phòng trường hợp có cánh cửa nào đóng lại sau lưng lần này, cô gọi đến chi nhánh Baltimore báo cho họ biết cô đang ở đâu và sắp xếp để gọi lại trong vòng một tiếng đồng hồ thông báo cô đã ra ngoài.
Đèn vẫn còn hoạt động ở cầu thang nơi Chilton từng dẫn cô xuống tầng hầm nhiều năm trước. Tại đây ông đã giảng giải về kỹ thuật an toàn dùng để đối phó vói Hannibal Lecter. Và tại đây, dưới cái đèn này, ông đã dừng lại chỉ cho cô xem tấm hình trong ví về người y tá đã bị bác sĩ Lecter ăn mất lưỡi trong một lần định thăm bệnh hắn. Nếu vai của Lecter đã bị trật khi hắn bị khuất phục, chắc chắn phải có phim X-quang.
Một luồng khí chạm vào cổ cô như thể có một cửa sổ bị mở ra ở đâu đó.
Một hộp bánh hamburger McDonald ở ngay bậc nghỉ với khăn giấy vương vãi. Một cái cốc ố chứa đậu. Thức ăn bỏ đi. Phân và khăn giấy ở trong góc. Đèn tắt ở đầu cầu thang tầng dưới cùng, trước một cánh cửa thép lớn dẫn tới phòng bạo lực giờ đang để mở, móc vào trong tường. Đèn của Starling xài năm cục pin D, phát sáng rộng và tốt.
Cô rọi đèn xuống hành lang dài của khu an ninh tối đa xưa kia. Có cái gì đó cồng kềnh ở góc xa. Thật kỳ quái khi cửa ngục tự mở. Sàn nhà đầy rác vỏ bao bánh mì và ly nước. Một lon soda đen kịt vì bị dùng làm ống hút thuốc phiện nằm chỏng chơ trên chiếc bàn từng là bàn giấy của hộ lý.
Starling bật công tắc đèn phía sau bàn hộ lý. Không thấy gì cả. Cô móc điện thoại ra. Ánh sáng đỏ dường như chói hơn trong bóng tối. Điện thoại không dùng được dưới lòng đất nhưng cô vẫn nói to vào đó. “Barry, lùi xe vào lối đi hông. Đem một cái đèn chiếu cho tôi. Anh sẽ cần mấy xe đẩy để chuyển đống đồ này lên cầu thang… Đúng, hãy xuống đây.”
Rồi Starling nói vọng vào bóng tối. “Bên trong đó nghe đây. Tôi là đặc vụ liên bang. Nếu bạn ở trong đây bất hợp pháp, bạn có thể tự do đi chỗ khác. Tôi sẽ không bắt bạn. Tôi không quan tâm đến bạn. Nếu bạn quay về sau khi tôi đã hoàn thành công việc, cũng không vấn đề gì với tôi. Bạn có thể lộ diện bây giờ. Nếu bạn cố can thiệp vào chuyện của tôi, bạn sẽ phải chịu thương tích nghiêm trọng khi bị tôi bắn một phát vào mông. Xin cảm ơn.”
Tiếng của cô dội dọc xuống hành lang nơi từng rền rĩ vô số lời nguyền rủa và thanh âm gặm nhấm song sắt khi răng đã không còn.
Starling nhớ rằng sự có mặt của người hộ lý to cao Barney làm cho cô cảm thấy yên tâm khi cô đến thẩm tra bác sĩ Lecter. Sự hiếu kỳ mà Barney và bác sĩ Lecter dành cho nhau. Giờ đã không còn Barney. Theo thông lệ, những chuyện ở trường đột nhiên hiện về trong trí nhớ, và cô hồi tưởng lại:
Tiếng dậm chân vang lên trong ký ức
Xuống dưới lối đi mà chúng ta không bước tới.
Tiến về cánh cổng không bao giờ mở
Vào trong vườn hồng.
Vườn hồng, đúng rồi. Chắc chắn là đây không phải vườn hồng.
Những bài báo gần đây đã làm cho Starling căm ghét khẩu súng của cô cũng như bản thân cô, nhưng cô nhận ra là khi cảm thấy bất an thì động đến vũ khí không phải điều đáng ghét chút nào cả. Cô giữ khẩu .45 sát chân và bắt đầu đi vào sảnh sau ánh đèn pin. Thật khó khăn khi phải quan sát cả hai bên và nhất thiết là không được để ai theo sau. Nước rỉ ở đâu đó.
Khung giường đã tháo ra chất đống trong các buồng giam. Trong mấy buồng khác là nệm. Có vũng nước ở giữa sàn hành lang. Sợ bẩn giày, Starling bước chéo từ bên này sang bên kia vũng nước nhỏ để tiến lên. Cô nhớ lại lời khuyên của Bamey nhiều năm trước khi những buồng giam còn đầy người. Lúc xuống hãy đi vào chính giữa.
Những tủ hồ sơ, đúng rồi. Tới tận cùng chính giữa hành lang, màu ô liu đục trong ánh đèn pin của cô.
Đây là buồng giam của Multiple Miggs, nơi cô ghét đi qua nhất. Miggs - kẻ đã thì thầm những lời tục tĩu với cô và bắn tinh vào cô. Miggs - kẻ đã bị bác sĩ Lecter giết chết bằng cách dạy hắn nuốt chính cái lưỡi kinh tởm của mình. Và khi Miggs chết, Sammie đang ở trong buồng giam. Bác sĩ Lecter đã khuyến khích những vần thơ của Sammie một cách hiệu quả đến giật mình. Ngay đến bây giờ, Starling vẫn có thể nghe thấy Sammie hú gào lên những câu thơ của hắn:
TÔI MUỐN ĐẾN VỚI GIÊSU
TÔI MUỐN ĐI VỚI CHÚA
TÔI MUỐN ĐI VỚI CHÚA
NẾU TÔI LÀM VIỆC TÓT.
Cô vẫn còn giữ những dòng chữ bằng chì màu đầy công phu ở đâu đó.
Phòng giam giờ đây chất đống những tấm nệm còn đống ga trải giường được trải phẳng ra rồi bó gọn lại.
Và cuối cùng là buồng giam của bác sĩ Lecter.
Cái bàn chắc chắn ở chỗ hắn ngồi đọc sách vẫn còn bắt vít dính vào sàn ở giữa phòng. Những miếng ván trên kệ sách của hắn đã mất nhưng phần khung vẫn còn lòi ra trên tường.
Đáng lẽ Starling nên đến chỗ tủ hồ sơ nhưng cô như bị đóng đinh tại buồng giam này. Tại đây cô đã có một cuộc chạm trán đáng nhớ nhất trong đời. Tại đây cô đã bị hốt hoảng, bị sốc và kinh ngạc.
Tại đây cô đã nghe được những chuyện rất thật bản thân đến nỗi nhịp tim vang lên như tiếng chuông lớn sâu thẳm.
Cô muốn vào bên trong. Cô muốn đi vào cứ như là người ta muốn nhảy từ ban công xuống khi ánh sáng lấp lóa của đường ray khuyến dụ ta lúc nghe thấy con tàu đang đến gần.
Starling rọi đèn xung quanh, nhìn vào mặt sau của dãy tủ hồ sơ và quét ánh đèn qua những buồng giam lân cận.
Sự hiếu kỳ đã mang cô vượt khỏi giới hạn. Cô đang đứng giữa buồng giam mà bác sĩ Hannibal Lecter đã sống tám năm trời. Cô đang ở chỗ của hắn, chỗ cô đã thấy hắn đứng đấy, cô chờ đợi cảm giác bị kích thích nhưng không thấy, cẩn thận đặt súng và đèn lên trên bàn sao cho cái đèn không bị lăn đi, cô đặt tay áp vào bàn của hắn và chỉ cảm nhận được những mẩu bánh vụn dưới hai bàn tay.
Nói chung, sự ảnh hưởng đầy thất vọng. Buồng giam không còn một ai từng trú ngụ ở đó trông như thể bộ da lột đi của một con rắn. Khi ấy Starling chợt ngộ ra cô đã hiểu được điều gì đó. Cái chết và nguy hiểm không nhất thiết phải đi cùng với cạm bẫy. Nó có thể đến trong hơi thở ngọt ngào của người mà ta yêu thương. Hay vào một buổi chiều nắng trong chợ cá với bản La Macarena đang phát trên đài.
Trở lại với công việc. Có tất cả bốn tủ hồ sơ, rộng tầm hai mét rưỡi, cao tới cằm. Mỗi cái có năm ngăn kéo và được cài bởi một ổ khóa bốn chốt bên cạnh ngăn trên cùng. Không có cái nào bị khóa cả. Tất cả đều đầy hồ sơ, có mấy cái rất to, tất thảy đều đựng trong bìa. Những bìa hồ sơ cũ giấy cẩm thạch mềm rũ theo thời gian, còn những cái mới hơn bọc trong bìa màu nâu kem. Hồ sơ về những người chết từ hồi bệnh viện mở cửa năm 1932. Chúng được sắp xếp gần như theo bảng chữ cái với một vài giấy tờ chất lộn xộn phía sau những bìa hồ sơ trong ngăn kéo dài. Starling liếc nhanh qua chúng. Giữ chiếc đèn pin nặng trịch trên vai, cô lấy tay còn lại lật qua chồng hồ sơ và ước rằng phải chi mình mang theo cái đèn nhỏ hơn thì đã có thể ngậm nó bằng miệng. Và khi đã phần nào rành đống hồ sơ, cô bỏ qua cả mấy ngăn, qua vần J, một số rất ít vần K để lần đến vần L và uỵch: Lecter, Hannibal.
Kéo cái bìa dài màu nâu ra, cảm thấy tờ phim X-quang cứng ngay, cô liền đặt cái bìa lên đống hồ sơ khác để mở ra xem, song lại thấy trong đó là bệnh sử của I.J. Miggs. Mẹ kiếp. Miggs cứ quấy rầy cô từ địa ngục. Cô đặt bìa hồ sơ lên nóc tủ và nhanh chóng rà đến vần M. Bìa hồ sơ màu nâu của Miggs ở đó, theo mẫu tự chữ cái. Nó trống không. Lỗi lưu trữ chăng? Có phải ai đó đã vô tình để hồ sơ của Miggs vào trong túi của Hannibal Lecter? Cô xem qua tất cả hồ sơ vần M một lượt tìm cái nào không có bìa đựng. Cô quay trở lại vần J. Nhận thấy sự bực bội tăng lên. Cái mùi của nơi này làm cô khó chịu hơn. Người bảo vệ nói đúng, ở dưới này thật khó thở. Cô đang dò được nửa chừng vần J thì cảm thấy mùi hôi… tăng lên nhanh chóng.
Một ánh sáng lóe lên sau lưng, cô liền đảo người, đèn pin giương lên sẵn sàng giáng đòn, tay nhanh chóng luồn vào áo cầm lấy báng súng. Một người đàn ông quần áo rách rưới bẩn thỉu đang đứng trong ánh sáng chiếc đèn của cô, một bàn chân sưng to khiếp của hắn đặt trên vũng nước. Một tay hắn cầm mảnh đĩa vỡ. Một cẳng chân và cả hai bàn chân quấn đầy ga giường.
“Xin chào,” hắn nói, lưỡi lở loét hết cả. Cách xa đến mét rưỡi mà Starling vẫn ngửi thấy hơi thở của hắn. Bên trong áo, tay cô chuyển từ khẩu súng sang bình xịt cay.
“Xin chào,” Starling đáp lại. “Ông làm ơn đứng ra kia dựa vào song sắt.”
Người đàn ông không nhúc nhích. “Ngài là Giêsu phải không?” hắn hỏi.
“Không,” Starling nói. “Tôi không phải Giêsu.” Giọng nói. Starling nhớ giọng nói này.
“Ngài có phải Giêsu không!” Mặt hắn có chuyển động.
Giọng nói đó. Coi nào, nghĩ đi nào. “Chào Sammie,” cô nói. “Anh khỏe không? Tôi cũng đang nghĩ về anh đây.”
Chuyện gì về Sammie chứ? Thông tin nhanh chóng hiện ra không hẳn chính xác theo thứ tự. Đặt đầu của mẹ hắn vào cái đĩa quyên tiền trong khi dàn đồng ca nhà thờ đang hát bài “Give of Your Best to the Master” (Hãy dâng hiến điều tốt nhất cho Đấng tối cao). Nói đó là vật đẹp nhất hắn từng có. Ở nhà thờ Highway Baptist nằm đâu đó. Giận dữ, bác sĩ Lecter nói, vì Giêsu đến quá trễ.
”Ngài có phải Giêsu?” lần này hắn nói thật rầu rĩ. Hắn cho tay vào túi móc ra một đầu lọc thuốc lá loại tốt dài hơn năm phân. Hắn để nó lên mảnh đĩa vỡ rồi đưa ra mời mọc.
“Sammie, tôi xin lỗi, tôi không phải. Tôi…”
Sammie bỗng nhiên tái mét, giận dữ vì cô không phải Giêsu, giọng hắn dội vào hành lang ướt:
CON MUỐN ĐI VỚI GIÊSU
CON MUỐN ĐI VỚI CHÚA!
Hắn giơ mảnh đĩa vỡ có cạnh nhọn như một cái cuốc lên và tiến đến chỗ Starling, cả hai chân hắn giờ đang đứng trong nước còn mặt thì nhăn lại, tay kia nắm chặt lấy khoảng không ở giữa họ.
Cô cảm thấy những cái tủ cứng sau lưng.
“ANH CÓ THỂ ĐI VỚI GIÊSU… NẾU ANH LÀM VIỆC TỐT.” Starling dẫn lại câu nói đó to rõ cứ như cô nói với hắn từ một một nào xa lắm.
“Ừ hử.” Sammie bình thản nói và ngưng lại.
Starling tìm thanh kẹo trong túi xách. “Sammie, tôi có một thanh sô cô la Snickers. Anh có thích Snickers không?”
Hắn không nói gì.
Cô đặt thanh Snickers lên một bìa hồ sơ màu nâu rồi đưa ra cho hắn khi hắn giơ đĩa lên.
Chưa bóc hết giấy, hắn đã cắn miếng đầu tiên rồi nhả giấy gói ra và cắn tiếp hết cả nửa thanh kẹo.
“Sammie, có ai khác xuống đây chưa?”
Không thèm để ý đến câu hỏi của cô, hắn đặt miếng kẹo còn lại lên đĩa và biến mất sau chồng nệm vào buồng giam cũ của mình.
“Cái quái gì thế này?” Một giọng phụ nữ. “Cảm ơn Sammie.” “Cô là ai?” Starling nói với vào.
“Không phải chuyện của cô.”
“Cô ở đây với Sammie à?”
“Dĩ nhiên là không. Tôi có hẹn ở đây. Cô có thể để chúng tôi yên không?”
“Được. Hãy trả lời tôi. Cô đã ở đây bao lâu rồi?”
“Hai tuần.”
“Có ai khác tới đây không?”
“Mấy gã lang thang bị Sammie đuổi đi.”
“Sammie bảo vệ cô à?”
“Cứ gây lộn với tôi đi rồi biết. Tôi có thể đi đàng hoàng. Tôi có đồ ăn và anh ấy có chỗ an toàn để ăn. Nhiều người vẫn có những thỏa thuận kiểu như thế.”
“Trong hai người có ai thuộc chương trình trợ giúp nào không? Cô có muốn vào chương trình nào không? Tôi giúp được đấy.”
“Anh ấy đã trải đủ rồi. Ra ngoài làm mấy trò nhảm nhí để rồi cũng trở lại với cái mà cô biết là cái gì rồi đấy. Cô muốn kiếm gì? Cô muốn gì?”
“Mấy cái hồ sơ.”
“Nếu không có ở đó tức là đã bị lấy mất rồi. Có cần phải thông minh lắm để hiểu điều này không?”
“Sammie à?” Starling gọi. “Sammie à?”
Sammie không trả lời. “Anh ấy ngủ rồi,” người bạn của hắn trả lời.
“Nếu tôi để ít tiền lại đây, cô có mua thức ăn không?” Starling hỏi.
“Không, tôi sẽ mua rượu. Cô có thể tìm được thức ăn chứ rượu thì không. Đừng để tay nắm cửa đập vào mông lúc đi ra đó.”
“Tôi để tiền trên bàn ấy,” Starling nói. Cô cảm thấy muốn chạy, nhớ lại lúc rời khỏi bác sĩ Lecter, nhớ lại lúc cô đã cố gắng giữ bình tĩnh khi đi về phía chỗ ngồi yên tĩnh của hộ lý Barney hồi đó.
Trong ánh sáng chỗ cầu thang, Starling lấy tờ hai mươi đô ra khỏi ví. Cô để tiền lên cái bàn trầy trụa bỏ không của Barney và chặn bằng một chai rượu rỗng. Cô mở một túi nhựa đi chợ ra, bỏ bìa hồ sơ của bác sĩ Lecter có chứa hồ sơ của Miggs và cái bìa không có hồ sơ của Migg vào.
“Tạm biệt. Tạm biệt Sammie.” Cô chào gã đàn ông đã từng đi vòng quanh trái đất rồi trở về địa ngục của mình. Cô muốn nói với hắn rằng cô mong Chúa sẽ đến nhưng nói vậy nghe có vẻ thật ngớ ngẩn.
Starling leo trở lên với ánh sáng để tiếp tục vòng xoay cuộc sống.