Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 10 phần 1

10

XÂY DỰNG PAP

Một buổi sáng Chủ nhật năm 1954, Choo đang ngồi với Loong, con trai đã hai tuổi của chúng tôi, ngoài hàng hiên thì hai người đàn ông đến thăm. Lúc đó là khoảng nửa tháng sau khi tôi ngỏ ý với một số học sinh trường Hoa rằng tôi muốn gặp một số lãnh đạo các nghiệp đoàn người Hoa. Tôi ra phòng khách để tiếp họ. Họ bảo họ thuộc Nghiệp đoàn công nhân xe khách Singapore. Họ ăn nói nhỏ nhẹ và hiểu được tiếng Anh chút ít, nhưng vẫn mang theo Robert Soon Loh Boon làm thông ngôn. Tên của họ là Lim Chin Siong và Fong Swee Suan. Tôi đã được tiếp xúc với một số tay hoạt động trong giới lao động người Hoa và rất hào hứng với viễn cảnh tìm hiểu được bọn họ để chiêu mộ một số người cùng chia sẻ lý tưởng về một xứ Malaysia dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Lim và Fong có vẻ đúng loại người tôi cần: cung cách nhiệt tình, chân thành, ăn mặc đơn giản. Fong ăn mặc còn đến mức xập xệ nữa. Nhưng sự kiên trì và tận tụy hiện rõ trên nét mặt và trong từng cử chỉ của họ.

Họ khác biệt rõ rệt với những nhân vật nông cạn mà tôi cùng các đồng sự đã gặp trước đó tại căn hộ của David Marshall, khi ông này với Lim Yew Hock của đảng Lao động bàn bạc chuyện thành lập một tổ chức chính trị mà sau này sẽ trở thành Mặt trận Lao động. Đó là một phần của việc thăm dò của chúng tôi: chúng tôi muốn xác định họ có khả năng gì. Nhưng chúng tôi thấy khó mà đánh giá Marshall cao được. Là một người Do Thái hoạt bát, hồi đó ông ta đã là luật sư hình sự hàng đầu ở Singapore, nhưng khi ông ta đưa ra một đề nghị mà ông coi như rất triển vọng thì chúng tôi thường khó nín cười được. Ông ta rất ngây thơ và không hiểu lắm về chính trị. Chúng tôi hiểu ông là người hay tự ái, thích đóng vai quan trọng và không kiểm soát được. Có lần, ông rất bực bội khi chúng tôi phá ra cười không đúng lúc trước mặt ông khiến ông hầm hầm bỏ ra khỏi phòng rồi ra khỏi nhà luôn. Thế là chỉ còn lại chúng tôi với các bạn bè cùng đủ thứ đồ ăn thức uống. Chúng tôi ăn uống, nói chuyện vui, cảm ơn bà gia nhân rồi ra về. Sau lần gặp gỡ thứ ba, chúng tôi xác định rằng liên kết với những người này chỉ thêm tai hại. Điều mà chúng tôi tìm kiếm là những người có đầu óc nghiêm túc, sẵn sàng cho những sự nghiệp lâu dài, những người có thể bình thản trước những thăng trầm chính trị trong khi theo đuổi những mục tiêu của mình.

Lim Chin Siong và Fong Swee Suan đúng là mẫu đối ngược với Marshall và các bạn ông ta, và tôi hài lòng với những ghi nhận này. Họ chính là lớp người Hán học tương đương với những chàng trai làm tờ Fajar từng bị truy tố vì tội âm mưu lật đổ, nhưng kiên định và cần cù hơn, lại ít vị kỷ hơn, đúng là loại đầu lĩnh mà chúng tôi đang tìm kiếm. Tôi tràn đầy hy vọng sẽ lôi cuốn được những người như thế.

Tôi giải thích với họ về các kế hoạch của chúng tôi nhằm thành lập một đảng đại diện cho giới công nhân và những người bị mất quyền lợi, nhất là giới Hán học, không chỉ nhằm chiến thắng trong kỳ tranh cử tới, mà còn giành được một số ghế đáng kể để tố cáo sự ung thối của chế độ và các chính đảng hiện nay và củng cố lực lượng cho chặng đấu tranh kế tiếp. Họ không có cam kết gì cả, nhưng với kinh nghiệm sau dịp tiếp xúc với các học sinh người Hoa, tôi cũng không ngạc nhiên. Tôi hiểu rằng trước khi đi đến một quyết định quan trọng nào, họ sẽ phải báo cáo lại và trình bày những đánh giá của họ, rồi ở cấp trên nào đó sẽ có thảo luận cặn kẽ và sau cùng thông báo cho họ về chủ trương của MCP. Hai tuần sau, họ trở lại cùng một thông ngôn khác. Phải, họ đã sẵn sàng tham gia với chúng tôi, không phải để mưu cầu quyền lực mà để tố cáo chế độ thuộc địa, sự bất cập trong dự thảo hiến pháp Rendel, và để tấn công những đảng phái sẽ nắm quyền.

Chúng tôi dự định sẽ ra mắt đảng Hành động Nhân dân (People's Action Party – PAP) trong một buổi hội ngày 21/11/1954, và tôi muốn họ làm người triệu tập dân chúng. Họ thì thầm với nhau rồi bảo rằng họ phải bàn bạc trước đã. Lần kế trở lại, họ nói Fong, vốn là thư ký Nghiệp đoàn công nhân xe khách Singapore, sẽ làm người triệu tập, nhưng Lim Chin Siong trong lúc này sẽ tạm đứng ngoài. Tôi không biết lý do của họ, nhưng tôi cho rằng vì trong hai người thì Fong có thể hy sinh được, đồng thời ít gặp nguy cơ về an ninh hơn, do Sở đặc vụ chưa có hồ sơ gì nhiều về ông ta một khi tên ông ta xuất hiện trên báo chí.

Nhưng tôi vẫn hài lòng. Có Fong tham gia, tôi thấy đảng của mình sẽ có cơ sở rộng rãi hợp lý trong giới công nhân. Chúng tôi có những người Anh học, những công nhân và nhân viên người Malay, và bây giờ lại có các bang hội và giới lao động người Hoa nữa. Chúng tôi không muốn có các học sinh trung học người Hoa tham gia, dù theo bất cứ cách nào. Mọi chính đảng tại xứ Singapore nhiều tầng lớp này đều phải cân đối, đừng quá nghiêng về một tầng lớp nào để khỏi gây nghi kị hay chống đối ở các tầng lớp khác, và vì lý do đó nó sẽ không có được lợi thế. Nó sẽ gặp nghi kị từ phía những người Anh học hay Malay học, vốn chiếm tới 40 % dân số.

Tháng 10, chúng tôi công bố thành lập đảng, và vào tháng 11, tuyên bố bước vào một cuộc đấu tranh cho “nền luật pháp đa ngôn ngữ được dịch ra nhiều thứ tiếng bởi vì không có đại diện dân cử nào biết khối dân nói tiếng Hoa suy nghĩ và cảm nhận gì, và điều đó khó có thể được coi là một tình hình lành mạnh”. Điều này khiến các chính đảng khác cũng phải tuyên bố tương tự.

Để cân đối với xu hướng cấp tiến và khuynh tả của một số tay triệu tập quần chúng, tôi thuyết phục Tunku Abdul Rahman, lúc đó là lãnh tụ của UMNO và là thành viên Hội đồng hành pháp Malaysia, cùng ngài Cheng Lock Tan, Chủ tịch Hội người Malay gốc Hoa (Malaysia Chinese Association – MCA) phát biểutại lễ ra mắt. Tôi đã gặp ông Tan trong vài buổi dạ tiệc, còn Tunku thì đã tham khảo ý kiến của tôi khi ông ta muốn kiện một tờ báo tại Singapore về tội phỉ báng. Tôi đã mời ông ta cùng các lãnh tụ UMNO khác dùng bữa tối tại nhà tôi. Như thế, tôi có được hai lãnh tụ uy tín người Malay tham dự đại hội ra mắt PAP thông qua những liên hệ cá nhân giữa họ và tôi, và có lẽ cũng vì họ nghĩ rằng tôi có thể trở thành đồng minh hữu dụng trong tương lai. Tuy nhiên, nếu Tunku không muốn tôi tham gia chính trường của Liên bang thì Tan lại muốn như thế. Sự khác biệt rất cơ bản này giữa hai người đã phản ảnh những mâu thuẫn sâu xa về quyền lợi tranh cử của họ. Tunku muốn phân rẽ người Hoa thành từng nhóm, rời rạc, thiếu tổ chức và dễ cho người Malay đối phó. Tan lại muốn có những thanh niên có thể tập hợp cộng đồng người Hoa lại, và MCA rất muốn đưa Singapore vào Liên bang để tăng khối cử tri ủng hộ họ.

Chúng tôi bắt đầu đại hội lúc 10 giờ sáng ngày 21/11 tại Victoria Memorial Hall và chỉ kéo dài được đến 1 giờ vì có một buổi hòa nhạc đã đăng ký ở hội trường ấy vào buổi chiều. Mọi người đến kín hội trường nhưng không quá sức chứa của nó. Ai cũng có chỗ ngồi. Tờ Singapore Standard tường thuật có khoảng 1.500 người có mặt, còn theo tờ Straits Times thì chỉ có 800. Những người ủng hộ chúng tôi từ các nghiệp đoàn chiếm chừng hai phần ba số ghế, số còn lại là của những quan sát viên từ những đảng khác và những người có quan tâm. Chúng tôi đọc những bài diễn văn soạn trước, không có hùng biện gì ở đây. Chúng tôi mặc sơ mi, không cà vạt. Cheng Lock Tan mặc đồ lớn còn Tunku mặc lễ phục Malay – áo cài kín cổ, quần rộng, quấn sarong.

Đó là một đại hội tốt đẹp nhưng không sôi nổi. Chúng tôi đã chính thức ra mắt đảng của mình, được báo chí tường thuật đúng mực, tự giới thiệu mình với dân chúng, và được đánh giá cao. Không có những màn hùng biện đao to búa lớn, không có tiết mục thả bong bóng hay phóng sinh chim. Nhưng chúng tôi đã sẵn sàng cho ngày tuyên bố ứng cử vào 28/2 và ngày bầu cử vào 2/4. Sau nhiều thảo luận, chúng tôi đã quyết định đưa ra năm ứng cử viên: Lim Chin Siong ở đơn vị Bukit Timah; Devan Nair ở Farrer Park (tôi không ủng hộ lắm nhưng xem như một nhượng bộ đối với cánh tả); ở Pubggol – Tampines là Goh Chew Chua (một thầu khoán sáu mươi tuổi, bạn của Kenny, sống và rất có uy tín ở đấy); và tôi ở Tanjong Pagar. Fong Swee Suan không thể ra tranh cử vì ông ta sinh ra ở Johor, nhưng chúng tôi đưa Amad Ibrahim ra như một ứng cử viên độc lập ở Sembawang, nơi mà lực lượng quyết định sẽ là các công nhân trong căn cứ hải quân. Chúng tôi tin rằng ông ta sẽ thu hút được sự ủng hộ của các công nhân người Malay và người Ấn tại căn cứ hải quân nếu họ không nghĩ ông ta là người của PAP, tức là không quá cấp tiến.

Tổ chức của PAP còn yếu, hầu như là không hề có tổ chức, không có cán bộ ăn lương, không chi nhánh hay các đầu lĩnh quần chúng. Trong việc vận động và giúp đỡ tập hợp bầu cử, chúng tôi có thể trông vào các nghiệp đoàn và học sinh trung học người Hoa. Nhưng một khi chiến dịch tranh cử bắt đầu, các ứng cử viên của chúng tôi mạnh ai nấy vận động, trừ những khi có các diễn giả nổi tiếng như tôi đi một vòng cả năm đơn vị bầu cử để nói chuyện trong những buổi hội cử tri.

Vào ngày tuyên bố ứng cử, hai đối thủ của tôi tại đơn vị Tanjong Pagar – một người Anh học và một người Hán học – phản đối việc tranh cử của tôi với lý do tôi đã không sống tạiSingapore suốt bảy trong số mười năm qua theo như quy định của Hội đồng tư vấn của Nữ hoàng tại London đối với những cuộc bầu cử theo Hiến pháp mới của Rendel. Nhưng có vẻ như quy định này không khả thi vì Singapore cũng mới là một thuộc địa riêng biệt được 8 năm 11 tháng – trước tháng 4/1946, nó còn là một phần của Các thuộc địa vùng eo biển. Một số người Anh cũng viết thư cho tờ Straits Times, đe dọa sẽ đấu tranh đòi bãi nhiệm tôi nếu tôi đắc cử, nhưng viên chức phụ trách bầu cử chấp thuận cho tôi ứng cử và khuyên các đối thủ rằng việc phản đối trên cơ sở lưu trú chỉ có thể thực hiện qua một kiến nghị nếu tôi đã đắc cử.

Sau khi nghe tin về tôi, Keng Swee, lúc đó đã trở qua London, đã nói lại với Stanley Awbery, dân biểu thuộc đảng Lao động, và Awbery đã đặt vấn đề này trước Hạ viện. Tháng 3, Henry Hopkinson, Bộ trưởng phụ trách các vấn đề thuộc địa phúc đáp rằng:

“Các sinh viên Malay ở tại Anh trong thời gian chuẩn bị cho những cuộc bầu cử cấp liên bang sẽ xảy ra khi họ về nước, nếu không bị tước quyền dân sự vì lý do nào đó, thì vẫn được đăng vào danh sách cử tri nếu trong thời gian vắng mặt họ vẫn coi Liên bang Malaysia là quê xứ của họ. Đương nhiên họ cũng được phép ra làm ứng cử viên.”

Tuy ông ta chỉ đề cập tới sinh viên Malaysia, nhưng những người chống đối tôi vẫn quyết định gác lại vấn đề đó. Họ biết London nếu cần thiết sẽ sử dụng tính hồi tố để điều chỉnh vấn đề hơn là để xảy ra tranh cãi quanh một quy định đã rõ ràng là vô lý. Như tôi đã nêu ra vào thời điểm đó, rằng John Ede, sinh ra và lớn lên tại Anh, vẫn có thể đủ tiêu chuẩn làm dân biểu vì ông đã lưu trú ở Singapore được bảy năm. Nếu tôi, sinh ra và lớn lên tại Singapore, và sống suốt đời ở đây trừ bốn năm tại Anh, mà không đủ tiêu chuẩn thì trái đất này chắc vuông chứ không phải tròn nữa.

Nhưng đó mới chỉ là rào cản thứ nhất của tôi. Tôi còn gặp những rắc rối khác khi báo chí tường thuật rằng Lam Tian, đối thủ người Hoa thuộc đảng Dân chủ, nói rằng tôi không biết đọc biết viết tiếng Hoa, và do đó không đủ sức đại diện cho cử tri người Hoa. Tôi thẳng thắn bẻ lại: “Tương tự, vì Lam Tian không đọc và viết được tiếng Tamil và tiếng Malay, nên ông ta không thể đại diện cho khối người Ấn và người Malay thuộc đơn vị bầu cử Tanjong Pagar.” Tôi đã xác định liều rằng mình có thế đọc, viết và nói tiếng Quan thoại, Hakka và Hokkien, và tôi cũng có thể nói tiếng Malay nữa. Đó là một đòn liều trong tranh cử. Một số phóng viên người Hoa đã khuyên tôi rằng không nên thừa nhận mình không nắm được tiếng mẹ đẻ. Tôi nhớ lại và lấy làm tiếc rằng đã không quan tâm tới ước muốn của bà ngoại là muốn tôi học chương trình tiếng Hoa ở trường Choon Guan. Bây giờ tôi phải phóng đại khả năng ngôn ngữ của mình. Tôi đã quên gần hết và chỉ có thể viết vài chữ vì đã không dùng tới tiếng Hoa nữa từ khi thôi làm cho Công ty Shimoda vào năm 1943. Thứ tiếng Hakka và Hokkien của tôi nghe thật tội nghiệp, thậm chí là chẳng đáng kể. Tôi tự hứa sẽ bù đắp thiếu sót này.

Lam Tian thách tôi tranh luận trong một buổi hội ngoài trời tại Kreta Ayer, một khu nói tiếng Quảng Châu thuộc Tanjong Pagar. Tôi từ chối và phản kích bằng cách tuyên bố rằng để làm được việc trong Hội đồng lập pháp và trong chính quyền, một ứng viên phải giỏi tiếng Anh, và do đó tôi sẽ là đại biểu đắc lực hơn ông ta. Nhưng tôi cũng đã cố hết sức để nói được vài câu bằng tiếng Quan thoại trong cuộc họp với cử tri lớn nhất của tôi tại phố Banda, cũng là một khu gốc Quảng Châu. Một phóng viên quen biết của tờ Sin Pao tên là JekYeun Thong soạn cho tôi hai đoạn văn và bỏ vài tiếng để luyện cho tôi đọc bài diễn văn chỉ tốn ba phút này. Nhưng đám đông ủng hộ tôi và họ hoan hô tôi vì nỗ lực đó.

Các vấn đề của tôi đến đây chưa phải là hết. Các nghiệp đoàn người Hoa khuynh tả và học sinh trường tiếng Hoa tập trung nỗ lực để hỗ trợ Lim Chin Siong ở Bukit Timah và Devan Nair ở Farrer Park. Họ chẳng làm gì cho tôi và các ứng viên khác của PAP. Sau vụ này thì tôi hiểu rõ rằng họ đã nhận mệnh lệnh của ai. Chúng tôi chỉ là một mặt trận nhiều thuận tiện. Họ muốn đưa hai người của họ vào cơ quan dân cử, và tôi chỉ hữu dụng ở vai trò bình phong cho họ. Tôi không bao giờ quên được điều đó. Tôi đã phải nói chuyện trước cử tri một lần cho Lim và một lần cho Nair, nhưng tôi chẳng để chút tâm trí nào vào đó cả. Tôi dồn chú ý vào Sembawang với Ahmad Ibrahim, một tay hoạt động nghiệp đoàn ở căn cứ hải quân, và tại Punggol Tampines với Goh Chew Chua, ông này hóa ra là một diễn giả giỏi nói tiếng Hokkien và rất hùng biện.

Cuộc vận động lần này không hề giống hồi năm 1951 khi tôi làm trợ lý tranh cử cho Laycock ở Katong. Hồi đó, nó là một công việc nhẹ nhàng với những tiệc trà tiệc mặn trong một khối cử tri giới hạn độ 48.000 người so với dân số tới 1,8 triệu. Năm1955, với việc tự động đăng ký những người sinh ra ở Singapore, số cử tri tăng thêm 300.000 người và 60 % trong bọn họ là khối nói tiếng Hoa. Hơn nữa, phái khuynh tả đã quyết định tham gia cuộc đua này lần đầu tiên kể từ khi tình trạng khẩn cấp được ban hành. Tình hình đã hoàn toàn đổi khác: ngôn ngữ chính là các phương ngữ tiếng Hoa, tiếng Malay bình dân, hai nhóm này dễ dàng tiếp cận với phần lớn dân chúng, rồi sau cùng mới tới tiếng Anh, thứ có thể tiếp cận được tầng lớp nhỏ nhất – tầng lớp trên cùng của xã hội Singapore gần gũi nhất với bộ máy quyền lực nhưng không đáng kể về sức mạnh trong bầu cử. Những buổi họp ngoài trời với cử tri thường có diễn giả đứng trên nóc xe hơi hay xe tải với loa phóng thanh và đèn điện soi sáng. Chúng lôi cuốn nhiều dân chúng ở những nơi cử tri nói tiếng Hoa và tiếng Malay là chủ yếu. Kiểu chơi chính trị sang trọng trong những đại sảnh chỉ còn là chuyện trong quá khứ.

Qua cuộc vận động này, tôi thu được một kinh nghiệm quý báu. Tanjong Pagar là khu bến cảng, nơi của những công nhâncảng, những phu kéo xe, các chủ tiệm và những ổ hút thuốcphiện. Tối đến, những nơi như khu cư xá cho công nhân ăn lương công nhật người Malay trên phố Reclamation, với những căn nhà gỗ không có hệ thống cống rãnh. Mùi xú uế nồng nặc khiến tôi phát gớm mỗi khi tới đấy. Nhưng chính tại đó, các thủ lĩnh đã duy trì được một mạng lưới nối kết người Malay thành một cộng đồng chặt chẽ. Tôi được giới thiệu với những thủ lĩnh UMNO địa phương và hầu như lập tức họ cho tôi gặp những nhân vật chủ yếu trong số vài trăm gia đình sống tại đó. Họ hứa sẽ dồn phiếu cho tôi.

Một khung cảnh bẩn thỉu và mục nát nữa là ở đường Narcis với những dãy cửa tiệm tồi tàn lụp xụp và cả những con đường dẫn về khu ấy ở phía mà ngày nay là Thương xá Tanjong Pagar. Những khu ấy không được tu sửa gì nhiều năm rồi, các cống rãnh bị nghẹt vì rác của những người bán rong bỏ lại nên lúc nào cũng bốc lên mùi thức ăn thối rữa. Những con chuột to tướng thản nhiên ra vào trong những đường cống ấy chẳng sợ gì ai. Tôi lại thấy lợm giọng, về đến nhà, chỉ rửa tay thôi coi bộ cũng chưa ổn. Trước khi ngồi vào bàn ăn, tôi phải tắm và thay tất cả quần áo.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3