Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 19 phần 2
Trong có mấy ngày, Keng Swee đã báo cáo rằng chính quyền cũ lậm chi vào quỹ dự trữ và đã dùng hết 200 triệu. Ông dự kiến năm ngân sách 1959 sẽ bị thâm thủng khoảng 14 triệu. Có thể có những khoản tiết kiệm nhỏ, nhưng cũng không thể hơn 5 triệu. Do đó các Bộ trưởng được lưu ý tuyệt đối đừng mơ tới chuyện tài trợ cho các dự án phát triển ngoài những dự án đã được duyệt, và thậm chí cả những dự án đó cũng sẽ bị cắt xén thẳng tay. Những bước cần thiết nhằm cân đối ngân sách tất sẽ không được lòng công chúng lẫn các Bộ trưởng, nhưng điều đó buộc phải vậy nếu như chúng tôi không muốn kết thúc năm đầu của chính phủ trong nợ nần.
Tôi đồng ý và nói với ông ta rằng tốt nhất nên tiến hành các biện pháp đó ngay từ đầu nhiệm kỳ. Vào ngày 12/6, báo chí đăng tải rằng Bộ Tài chính đã ra lệnh sẽ không có những khoản chi ngoài kế hoạch nếu như không có sự đồng ý của Bộ trưởng tài chính. Như vậy, trong số những khoản bị ảnh hưởng sẽ là những đóng góp từ thiện của chính phủ, tiền ứng cho công chức để họ mua xe và các khoản học bổng dành cho học sinh, học bổng nghiên cứu và đài thọ du học. Nhưng điều đó cũng chẳng đạt hiệu quả gì nhiều. Keng Swee đề nghị cắt giảm lương Bộ trưởng của chúng tôi từ 2.600 đôla xuống còn 2.000 đôla một tháng để làm gương, và cũng đồng thời cắt giảm luôn các loại phụ cấp của công chức. Một lần nữa tôi đồng ý với ông ta. Chúng tôi đã tổ chức cuộc họp của Ủy ban về những vấn đề chung thuộc Liên hội đồng dân chính, nhưng phía nhân viên cơ quan lại không đồng tình bởi họ chưa được các nghiệp đoàn trao quyền quyết định. Chúng tôi đã thảo luận vấn đề này trong nội các và quyết định xúc tiến việc này bằng bất cứ giá nào. Chính phủ đã tuyên bố sẽ cắt giảm trợ cấp kể từ ngày 1/7, nhưng vẫn tiếp nhận các ý kiến của các nghiệp đoàn công nhân viên và các hiệp hội.
Việc cắt giảm đó rất đáng kể nhưng không gây tai hại, và cũng chỉ ảnh hưởng đến 6.000 trong số 14.000 công chức. Tất cả những nhân viên có mức lương từ 220 đôla trở lên sẽ bị mất các khoản phụ cấp, nhưng chỉ có 10 % trong số đó chịu nhữngkhoản cắt giảm trên 250 đôla một tháng, và chỉ có một ít ngườilà bị cắt đến mức tối đa là 400 đôla. Khoảng 8.000 nhân viên có mức lương thấp hơn mức nói trên sẽ không bị cắt giảm gì cả. Chúng tôi đã phải hành động lẹ làng nếu như chúng tôi muốn xác lập tinh thần tiết kiệm và kỷ cương tài chính ngay từ đầu. Đã có những thất vọng lớn, nhất là từ các viên chức thâm niên. Những người Anh học tin rằng chúng tôi đề ra những giải pháp như vậy là để trừng phạt họ vì đã bỏ phiếu chống lại chúng tôi. Điều đó chẳng phải động cơ của chúng tôi. Chúng tôi muốn cho mọi người dân ở Singapore, nhất là khối đa số gồm những người Hán học, hiểu rằng vì lợi ích chung, những người Anh học sẵn sàng hy sinh, dẫn đầu là các Bộ trưởng. Tôi nghĩ họ hy sinh như vậy chẳng phải vô lý, bởi điều đó sẽ giúp chúng tôi làm cho mọi người hiểu rằng trong kỷ nguyên mới này, tất cả chúng ta sẽ cùng chia sẻ gian nan và cùng hưởng vui sướng như nhau.
Còn có một lý do khác nữa trong chuyện cắt giảm. Kể từ năm 1952, tôi nhân danh các nghiệp đoàn, còn Keng Swee và Kenny nhân danh giới công chức, đã thành công trong việc buộc chính phủ phải trả lương và phụ cấp cao hơn mà chẳng hề để ý gì đến tình hình kinh tế. Nếu các nghiệp đoàn cứ tiếp tục theo đà này, chúng tôi sẽ bị khó khăn. Không có cách nào hay hơn cách này để báo hiệu rằng những ngày ấy đã qua. Mức tiết kiệm hàng năm sẽ là 12 triệu đôla. Keng Swee đã cải chính con số ước đoán của giới báo chí là từ 20 đến 25 triệu đôla, và nhắc cho họ nhớ rằng sáu tháng còn lại của năm 1959 sẽ chỉ tiết kiệm được 6 triệu thôi, giúp giảm mức thâm hụt dự kiến từ 14 triệu xuống còn 8 triệu.
Mấy ngày sau, Ong tuyên bố đình chỉ tất cả các vụ bổ nhiệm mới, điều đó có nghĩa rằng sẽ không tuyển người cho những chức việc còn trống nếu không có sự chấp thuận của Bộ trưởng.
Các nghiệp đoàn công chức lập tức ra tay. Họ tổ chức Hội đồng hành động chung để đối đầu với chúng tôi, cũng y như chúng tôi đã đối đầu với chính phủ thực dân Anh, và đấu tranh để phục hồi tất cả các khoản trợ cấp. Nhưng chúng tôi chẳngphải là chính phủ của thực dân, ít ra lúc đó chúng tôi cũng đang có được sự ủng hộ của khối đa số là những người nói tiếng Hoa, và hội đồng đã chẳng thể nào ra tay được gì cả. Tuy nhiên tôi vẫn thấy bực tức trước hành động của họ. Điều đó cho thấy họ chẳng hiểu gì về những thử thách nghiêm trọng đang đặt ra cho chúng tôi, và chẳng biết rằng chúng tôi còn phải ngăn chặn không để cho phe quá khích khai thác những bất mãn của khối người Hoa, vốn là những người giờ đây có tiếng nói quyết định qua lá phiếu của họ. Một số viên chức cao cấp phải cho những người hầu gái nghỉ việc – thật quá tệ, nhưng đất nước đang đứng trước những khó khăn to lớn và những nỗi hiểm nghèo, và chúng tôi phải thuyết phục mọi người rằng chính phủ này sẽ cai trị vì lợi ích của tất cả mọi người. Chỉ có như vậy chúng tôi mớicó thể xây dựng được ý thức công dân Malaysia của người Hoa, và làm cho họ thêm phần gắn bó và trung thành với đất nước mà họ đã chọn và đó là điều quan trọng hơn hết vì họ phải thay đổi thái độ của mình trước khi các nhà lãnh đạo ở Kuala Lumpur đồng ý hợp nhất và cho phép Singapore được độc lập với tư cách là một phần của Malaysia.
Trong lần phát biểu đầu tiên tại Quốc hội vào ngày 22/7 với tư cách Thủ tướng, tôi đã lên tiếng cảnh báo: “Nếu chính phủ PAP thất bại, nó sẽ không lui về thành phe đối lập để chờ ngày nắm lại chính quyền. Họ sẽ bỏ chạy để giữ lấy thần. Bởi đằng sau chúng tôi không còn có lực lượng nào khác được chuẩn bị để xây dựng chế độ dân chủ. Xét cho cùng, nếu chúng tôi thất bại, thế lực tàn bạo sẽ quay trở lại.” Tôi đã nói rằng do vậy chúng tôi cần những công chức hợp tác với chúng tôi để thực hiện những điều đã hứa với dân chúng.
“Tại sao chúng tôi lại muốn làm tổn thương những người phải làm việc với chúng tôi? Dưới chế độ dân chủ, phải có lực lượng dân chính làm theo mệnh lệnh của đảng đã được dân chúng tín nhiệm… Nếu như chẳng có tai họa nào lớn hơn chuyện bị mất các khoản phụ cấp… các công chức nhà nước có lẽ nên quỳ xuống mà tạ ơn trời rằng linh hồn của họ đã được cứu rỗi.”
Do di sản quá khứ, những người Anh học đã đóng một vai trò quan trọng, nên tôi nói thêm: “Họ có thể giúp chúng ta thu hẹp khoảng cách giữa quá khứ thực dân và tương lai bình đẳng.” Nếu chúng ta không thể xóa đi sự cách biệt giữa những người nói tiếng Hoa và tầng lớp ưu tú nói tiếng Anh, kết quả thật tai hại vô cùng. Bởi nếu những người Hán học cầm quyền, nhữngngười Anh học sẽ thình lình trở nên những kẻ bị tước đoạt mới dưới một chính quyền tất sẽ được điều hành bằng tiếng Hoa.
Thỉnh thoảng tôi vẫn tiếp tục gay gắt với những người Anh học và hối thúc họ thay đổi cho phù hợp với tương lai. Chúng tôi – Keng Swee, Chin Chye, Kenny, Raja và tôi – đều là những người Anh học và là lãnh đạo của họ. Chúng tôi không muốn họ trở thành một lớp người bị tuyệt chủng, chúng ta phải cùng nhau cưu mang ít nhất một nửa số người nói tiếng Hoa đi theo với mình nếu như họ chưa vứt bỏ chúng tôi. Nhưng những người Anh học lại quá thờ ơ với chuyện chính trị đến độ họ chẳng hiểu rằng họ đang gặp nguy hiểm. Mặc dù các cắt giảm đã được bãi bỏ vào năm 1961, nhưng những công chức bị ảnh hưởng cũng vẫn còn bất mãn trong cả một thời gian dài, và nếu như chẳng có những biến động lớn sau đó ập lên đầu chúng tôi, có lẽ họ đã bỏ phiếu nhất trí chống lại PAP trong kỳ tuyển cử năm 1963. Phải nói rằng chính sự đe dọa của phái quá khích vào lúc đó quá rõ rệt đến độ họ không thể làm gì khác ngoài việc ủng hộ chúng tôi.
Vào cuối năm chúng tôi đã có thể cân đối được ngân sách, và mức thu không còn bị giảm sút như Keng Swee đã lo sợ. Nếu phải tuyên bố lại lần nữa, tôi cũng vẫn sẽ đồng ý với chuyện cắt giảm, nhưng chỉ còn chừng một phần ba so với trước đây. Chừng đó cũng đủ để thuyết phục khối người nói tiếng Hoa, và mặc dù các công chức Anh học tất cũng sẽ còn bất mãn, nhưng họ sẽ không còn bị sốc nữa. Tuy nhiên, giai đoạn này đã cho thấy sự thiếu hiểu biết của họ về chính trị và nhu cầu phải định hướng lại cho họ, làm cho họ ý thức hơn về những nguy hiểm và nỗi khó khăn trước mắt. Điều đó xác nhận quyết định mà Keng Swee, Kenny và tôi đã có trước khi cầm quyền, là phải lập một trung tâm chính trị để dạy cho các công chức cao cấp về mối đe dọa lật đổ cùng các vấn nạn về kinh tế và xã hội của xứ sở. Thế nhưng, để thành công, chúng tôi phải chiếm được lòng tin của họ và thuyết phục được họ rằng đây chẳng phải là chuyện tẩy não.
Chúng tôi chọn George Thomson điều hành trung tâm. Thomson đang ở độ tuổi bốn mươi. Ông là một người rất có lòng, hiểu biết nhiều và là một diễn giả thành thực với giọng nói nặng âm sắc của người Scotland. Ông giảng dạy về lịch sử và dạy rất hay bởi ông rất tận tâm với những gì ông giảng dạy. Ông hiểu chúng tôi muốn gì và chẳng lâu sau đã đảm nhiệm vai trò của mình thật hoàn hảo. Ông đã chọn Gerald de Cruz, một cựu thành viên của MCP bất đồng với đường lối của họ. Ông ta đã xoay ra làm thư ký có lương của Mặt trận Lao động, làm việc cho Marshall và rồi cho Lim Yew Hock.
Với tư cách là Bộ trưởng Tài chính kiêm phụ trách nhân sự, Keng Swee lấy một tòa nhà lớn một tầng của chính quyền thực dân cũ làm trung tâm nghiên cứu. Tôi đứng ra khai mạc trung tâm vào ngày 15/8. Tôi tuyên bố mục tiêu của trung tâm là “không chỉ để kích thích trí não của các bạn mà còn để thông tin cho các bạn về những vấn đề bức xúc đang đặt ra cho bất kỳ chính phủ dân cử nào trong hoàn cảnh cách mạng… Một khi các bạn tiếp cận được những vấn đề như vậy, các bạn sẽ có thể giúp đỡ chúng tôi hơn trong việc tìm ra những giải pháp, bằng cách làm cho chính phủ trở nên nhạy cảm hơn và đáp ứng tốt hơn những nhu cầu và tâm trạng của công chúng.”
Một số Bộ trưởng và tôi đã đến trung tâm để tạo cho trung tâm một lối tiếp cận thực tiễn, bằng cách thảo luận về những tình huống thực tế mà chúng tôi hiện đang phải đối phó. Thoạt đầu, các công chức tỏ vẻ nghi ngờ, nhưng các giảng viên rõ ràng chẳng phải là những người suy nghĩ một chiều, và họ nhanh chóng mất đi nỗi nghi ngờ ban đầu rằng đây chỉ là một trò nhồi sọ tẩy não. Vì các giảng viên có cùng một nền tư duy như họ, cho nên họ chấp nhận rằng chính phủ quả là thành thực, rằng các vấn nạn là có thực và có vẻ như nan giải, và rằng chúng tôi muốn họ cộng tác với chúng tôi để tìm ra và thực thi các giải pháp. Trong bốn năm năm kế đó, Thomas đã thành công trong việc giúp họ hiểu được các lý thuyết chính trị, các giải pháp dân chủ đối với những mâu thuẫn xã hội và phương pháp chiến tranh du kích. Họ trở nên hiểu biết về những gì đang xảy ra trong một thế giới rộng lớn hơn, các nguyên nhân của cuộc cách mạng tại Đông Nam Á, và nhu cầu cần phải có sự thay đổi triệt để về quan điểm và đường lối nhằm đối phó được với những thách đố mới. Nhưng về lâu về dài thì mối quan hệ giữa chúng tôi với họ cũng vẫn chưa hẳn là thuận thảo.
Một vấn đề tôi cũng dự liệu trước là chuyện trở nên quen lờn với quyền hành Tôi đã chứng kiến những gì xảy ra với Ong Eng Guan tại Hội đồng thành phố, chuyện những kẻ thất thế đã sử dụng quyền lực lầm lạc ra sao một khi họ thắng thế. Tôi cảnh giác các Bộ trưởng của mình, các thư ký quốc hội cùng các nghị viên được phân công để giúp các Bộ trưởng xử lý các khiếu nại của dân chúng là chớ quá say mê quyền lực và không được lạm dụng nó. Nói thì dễ hơn làm, và trong nhiều trường hợp, chúng tôi cũng vẫn cứ xung khắc với các công chức nhà nước.
Chúng tôi quyết định tận dụng cơ hội và khai thác sự ủng hộ mạnh mẽ của dân chúng sau khi thắng cử. Chúng tôi tổ chức hàng loạt chiến dịch được tuyên truyền rầm rộ để làm sạch đường phố, dọn dẹp các bãi rác, và phát cỏ dại ở những chỗ đất trống nhếch nhác. Đó là một bản sao y khuôn cách làm của các nước cộng sản – vận động rầm rộ mọi người, kể cả các Bộ trưởng, lao động bằng đôi tay của mình để phục vụ nhân dân. Chúng tôi thấy chẳng có lý do gì chỉ có riêng MCP mới sử dụng được những phương pháp và động cơ ấy để động viên mọi người, thúc đẩy họ đạt đến những mức cao hơn về ý thức công dân, sự sạch đẹp chung và sự giữ gìn tài sản công. Vào Chủ nhật nào đó thì Ong Eng Guan tập trung công chức để làm vệ sinh bãi biển Changi. Vào Chủ nhật khác thì tôi cầm cây chổi đi quét đường cùng với các lãnh đạo của cộng đồng địa phương.
Còn những chuyện khác nữa chúng tôi cũng muốn làm. Keng Swee và tôi đã phác họa và thành lập Hiệp hội Nhân dân, một mặt trận hợp pháp bao gồm tất cả các tổ chức xã hội tự nguyện lớn, các câu lạc bộ và các hội thể thao, âm nhạc, múa, vẽ và nấu ăn. Chúng tôi đã xây dựng được hơn một trăm trung tâm sinh hoạt – những trung tâm lớn ở thành phố, những cái nhỏ hơn ở nông thôn – dùng làm nơi giáo dục và giải trí. Bóng bàn, bóng rổ, cầu lông, cờ tướng, học sửa radio, tủ lạnh, cùng một số lớp dạy về các nghề kỹ thuật là một số hoạt động của các trung tâm ấy. Chúng tôi còn muốn tạo cho công chúng chuyện gì đó tích cực để làm, và tập cho họ đứng về phía pháp luật và trật tự. Mỗi trung tâm sẽ có một thư ký tổ chức để quản lý trung tâm và phục vụ cho nhu cầu của những người sống quanh vùng. Để giám sát các trung tâm, Bộ Phúc lợi Xã hội sẽ được đổi thành Bộ Phát triển Cộng đồng.
Chúng tôi đã tổ chức Lữ đoàn Công chính thu dụng những thanh niên nam nữ thất nghiệp, khoác cho họ bộ đồng phục bán quân sự, gom họ về sống trong các lán trại gỗ và dạy cho họ canh tác, làm cầu đường, xây dựng – nói chung là đưa họ vào kỷ luật và quan trọng nhất là làm cho họ khỏi nhởn nhơ vô tích sự trên phố.
Chúng tôi cũng phải tạo kỷ luật cho những người đã có công ăn việc làm, bởi chúng tôi rất cần phải thu hút và kiểm soát được các nghiệp đoàn để ngăn họ đừng bị cuốn vào những cuộc đình công chính trị. Do đó, chúng tôi đã thiết lập tòa án trọng tài kinh tế. Trong thập niên 1950, người Úc sở dĩ đã có những quan hệ chủ thợ tốt đẹp phần lớn là nhờ có những thủ tục trọng tài có tính cách bắt buộc giúp kiềm chế được các bất mãn. Theo yêu cầu của chúng tôi, họ đã cử viên thư ký thường trực của Bộ Lao động là Harry Bland sang giúp chúng tôi. Sau khi tòa được thành lập, Bộ trưởng có thể ra lệnh cho bất kỳ cuộc đình công lớn nào, nhất là trong những ngành dịch vụ quan trọng như giao thông công cộng và điện nước, cũng phải đưa ra trọng tài phân xử. Một khi đã đưa ra trọng tài, việc một nghiệp đoàn cứ tiếp tục bãi công chờ kết quả là bất hợp pháp, và nếu nghiệp đoàn đó cứ khăng khăng, họ sẽ bị rút giấy phép hoạt động. Thêm nữa, trước khi đình công, phải có một cuộc đầu phiếu kín, chứ không chỉ là giơ tay biểu quyết sau một bài diễn văn xách động mà tôi vẫn thường thấy.
Mặt khác, chúng tôi cũng chia sẻ quan điểm của những người cộng sản là một trong những lý do khiến Trung Quốc cùng những nước châu Á khác, ngoại trừ Nhật Bản, rơi vào lạc hậu là do phụ nữ chưa được giải phóng. Họ phải được đặt lên ngang hàng với nam giới, được hưởng sự giáo dục và có cơ hội đóng góp hết sức cho xã hội. Trong mùa vận động bầu cử, chúng tôi đã sử dụng một trong những buổi phát thanh chính trị dành cho chúng tôi nói bằng bốn thứ tiếng – Anh, Malay, Quan thoại và Tamil – để tuyên truyền cho chủ trương của chúng tôi về quyền lợi của phụ nữ. Thế nhưng chúng tôi lại chẳng tìm đâu ra một thành viên nữ của PAP ăn nói lưu loát để đảm trách chương trình bằng tiếng Anh. Sau khi Choo đã thử qua giọng của hai bà vợ của hai ứng cử viên thuộc Văn phòng Lee & Lee’s, cô bước vào văn phòng của tôi, nơi tôi đang thảo luận với Keng Swee và Raja, nói rằng hai người đó nói nhỏ nhẹ quá, không đủ mạnh mẽ. Lúc cô đi ra, hai người bạn của tôi đã đề nghị là nên giao cho cô. Tôi đã hỏi ý cô, và sau một phút ngập ngừng, cô đã đồng ý. Raja viết thảo, và cô sửa lại cho giống như là do cô viết. Bài phát biểu đã được ủy ban chấp hành trung ương thông qua và được dịch sang các thứ tiếng khác, và cô đã đọc nó bằng tiếng Anh trên đài phát thanh Radio Malaysia. Có một đoạn thật là quan trọng:
"Xã hội của chúng ta vẫn đang được xây dựng trên giả định rằng phụ nữ là thấp kém hơn nam giới về mặt chính trị, xã hội và kinh tế. Huyền thoại này là chiêu bài che chắn cho sự bóc lột lao động phụ nữ. Nhiều phụ nữ cũng làm công việc y như nam giới nhưng lại không được trả đồng mức lương… Chúng tôi đang đưa ra năm ứng cử viên nữ trong bầu cử kỳ này… Hãy để chúng ta cho họ (những đảng khác) thấy rằng phụ nữ Singapore đã mệt mỏi trước trò hề và sự lố bịch của họ. Tôi kêu gọi nữ giới hãy bỏ phiếu cho PAP. Đây là đảng duy nhất có lý tưởng, lòng thành thực và khả năng để thực thi cương lĩnh bầu cử của mình.”
Đây là một cam kết rất trọng đại, nếu không tôi đã không đồng ý để cho vợ tôi phát biểu như vậy trên đài phát thanh. Tôi muốn thực hiện nó thật sớm, mặc dù điều đó có nghĩa là phải hối thúc nhân viên dự thảo bên các phòng ban của Bộ Tư pháp. Họ đã lục tìm các tiền lệ lập pháp tại những nước khác, soạn thành Hiến chương Phụ nữ, và được chúng tôi thông qua thành luật trong vòng một năm. Hiến chương coi chế độ một vợ một chồng là điều kiện hôn nhân duy nhất và coi chế độ đa thê, vốn là cung cách phổ biến từ trước tới nay, là một tội phạm – ngoại trừ đối với những người Hồi giáo, bởi tôn giáo của họ vốn cho phép đàn ông có bốn vợ. Hiến chương rất bao quát và đã làm thay đổi địa vị của phụ nữ trong xã hội. Nhưng nó chưa thay đổi nổi được định kiến văn hóa là cha mẹ thích con trai hơn con gái.
Cộng thêm vào đó còn có nhiều điều đạt được dễ dàng không cần phải hoạch định gì cả như hàng loạt vụ nghiêm cấm “chống văn hóa vàng” do Pang Boon, Bộ trưởng Nội vụ, tiến hành. “Văn hóa vàng” là một cách nói nôm na trong tiếng Quan thoại để chỉ cung cách sống suy đồi và bạc nhược đã khiến cho Trung Quốc phải quỳ mọp vào thế kỷ 19: cờ bạc, hút thuốc phiện, sách báo khiêu dâm, đa thê và vợ bé vợ mọn, bán con gái vào nhà chứa, tham nhũng và thói “một người làm quan cả họ được nhờ”. Việc bài xích “văn hóa vàng” vốn do các thầy giáo gốc Trung Quốc du nhập vào Singapore, họ đã tiêm vào đầu óc của học sinh cùng cha mẹ của chúng tinh thần phục hưng dân tộc, thể hiện rõ ràng qua mỗi chương sách giáo khoa, cho dù đó là giáo khoa văn chương, lịch sử hay địa lý. Điều đó còn được củng cố thêm qua các bài báo của báo chí tiếng Hoa cánh tả vốn đang say mê trước những báo cáo về một nước Trung Quốc cách mạng, trong sạch, trung thực và năng động.
Pang Boon đã ra tay lẹ làng với một tinh thần thanh sạch sốt sắng. Ông đã ra lệnh triệt sạch các băng nhóm hội kín người Hoa, và coi chuyện mãi dâm, những màn trình diễn thoát y, các câu lạc bộ chơi máy bật bóng, cả những bài hát đồi trụy đều là bất hợp pháp. Điều đó chẳng làm tăng số thất nghiệp và cũng chẳng làm cho Singapore trở nên kém hấp dẫn hơn đối với du khách. Thế nhưng thủy thủ vốn là một phần của số dân tạm trú của Singapore, chẳng lâu sau họ cũng mò tìm được những chốn mua vui nằm nấp trong các xó xỉnh mà chúng tôi đã lờ đi. Nạn mãi dâm vẫn tiếp diễn trong bí mật, nhưng chúng tôi đã gác tạm nó sang một bên bởi không thể cấm triệt nó mà không phạm phải những hành vi ngu xuẩn và kém hiệu quả.
Chương trình có ý nghĩa nhất của chúng tôi là trong vòng một năm đã giúp cho mọi trẻ em đều có nơi chốn học hành. Ông anh vợ của tôi, Yong Nyuk Lin, giờ là Bộ trưởng Giáo dục đã khiến chúng tôi lấy làm hãnh diện: trong vòng 12 tháng, ông đã khiến cho số học sinh được đi học tăng lên gấp đôi, bằng cách chuyển mỗi trường thành hai ca học. Ông xúc tiến một chương trình tăng cường đào tạo giáo viên, và đề bạt nhiều giáo viên kỳ cựu lên làm hiệu trưởng. Ông cũng mở ra những lớp dành cho người lớn để dạy tiếng Malay vốn giờ đây đã trở thành quốc ngữ, và phát động phong trào dạy cho người Hoa biết đọc biết viết, lấy tiếng Quan thoại làm thứ tiếng phổ biến trong số các nhóm phương ngữ Hoa. Dân chúng muốn cảm thấy họ đang cải thiện chính mình và tương lai của mình, và chúng tôi đã trao cho họ phương tiện. Chúng tôi vận dụng các phương pháp rất hữu hiệu vốn là của các đảng cộng sản. Cũng như trong chuyện vận động quần chúng, chúng tôi cùng thấy chẳng có lý do gì mà MCP mới được quyền sử dụng những kỹ thuật như vậy.