[HP] Dệt khói giữa nền thanh thương - Chương 1

0. Cái chết là sự mở đầu cuộc sống mới.

Bầu trời tối và trong. Đứng từ xa nhìn lại, không thấy gì ngoài một màu đen bức bối. Kể đến cả một con mèo với đôi mắt sáng quắc nhất cũng không thể nhìn xuyên bóng đêm mà hòng nghe chuyện được.

Trang viên Lancaster đầy lính canh. Những gương mặt im lìm ẩn dưới mũ giáp bằng kim loại sáng bóng. Cứ 5, 10 phút sẽ nghe tiếng chân rầm rập của một đội tuần tra. Hơi sương mờ bảng lảng trên những mái vòm nhọn. Một con cú rúc xé tan bầu tĩnh lặng. Gã lính đang gật gù giật mình tỉnh giấc, đảo nhanh đôi mắt sắc quan sát chung quanh.

Không có gì xảy ra. Gã lầm bầm chửi rủa mấy con cú bằng tiếng nói xấu xa chỉ mình mới hiểu. Rồi gã cúi đầu xuống, theo thói quen dò tay vào túi chạm đến con dao găm nằm yên, như để chắc rằng nó vẫn ở đó. Cơn buồn ngủ đã bay biến. Gã gọi bạn mình thức dậy. Lũ lính gác lục tục đứng lên, ném cái nhìn ơ thờ vào không trung.
Chờ đợi.
Lại thêm một đoàn lính tuần tra nữa đi ngang qua, tiếng áo giáp kêu loảng xoảng.

Lúc đó, ở sau vườn dinh thự, khuất khỏi tầm mắt lũ lính canh, có vị khách lạ không mời mà đến. Một con đường dài náu ẩn sâu dưới lòng đất, không khí nồng ẩm và nhớp nháp, quánh đặc những hơi mùi cống rãnh.
Người mặc áo chùng mò mẫm bước đi. Hắn có thân hình cao gầy và gương mặt trẻ tuổi, thắt lưng dắt con dao găm đã cũ, tay đang nắm một nhánh cây với hình thù kì lạ. Đó là đũa phép. Chẳng thể sai được, đây là một phù thủy, một phù thủy đang lẩn trốn. Hắn trốn cái gì?

Chân hắn bập vào một mẩu đá cứng.

Không có tiếng rên nào, chỉ thấy một hơi sáng mờ nhạt tỏa ra từ đầu đũa. Ánh sáng hắt lên khuôn mặt nhợt nhạt của hắn, và rọi cả vào đôi mắt màu trăng. Đằng trước mắt có tầm trăm bậc thang sứt mẻ, bám đầy rêu. Người mặc áo chùng cẩn thận dẫm lên. Một tiếng cạch rất nhẹ khi gót giày chạm vào mặt đá.

Hắn có quay đầu nhìn lại. Con đường đằng sau tối mịt, tưởng như sự bất hạnh và xúi quẩy đang lởn vởn đợi chờ. Không chần chừ thêm nữa, hắn leo nhanh lên trên. Qua chừng mười phút, đầu hắn đụng phải chỗ đất cứng. Đưa tay rờ rẫm chiếc cửa sập, vị khách lạ nhấc nó lên một chút, vừa đủ để đôi mắt quan sát chung quanh. Bóng đêm đổ ập, lạnh ngắt.
Lối ra nằm bên ngoài dinh thự, đủ xa để lũ lính không mó đến canh gác, nhưng cũng quá gần nếu kẻ cầm đầu nghi ngờ cho quân truy lùng. Một nơi vừa an toàn, vừa nguy hiểm.

Bằng một sức bật đáng kể, bóng đen đã len nhanh ra ngoài. Tiếng cỏ sàn sạt khi chân đáp xuống đất nghe rất rõ trong đêm lặng lẽ. Cổ họng người khách lạ đau rát khi hít phải hơi buốt. Nhìn về xa, những rặng sương bàng bạc đang cheo leo trên các thân cây cằn cỗi. Hắn khép chặt áo, bàn tay đặt trên dao găm để luôn sẵn sàng chiến đấu nếu cần thiết. Sau đó vị khách lạ vội vã bỏ đi, không quay lại. Chiếc áo choàng trên đầu phần phật theo gió.

Khi tòa dinh thự khuất bóng sau màn sương mờ lãng đãng thì các bước đi dần chuyển thành chạy. Mũi giày đạp xuống đất lộc cộc, ngón tay siết chặt lấy áo chùng. Sương ngày càng lạnh. Một tiếng bì bõm rất khẽ khi gót chân dẫm lên vũng nước đục trên làn đất ẩm, báo hiệu đã tới rừng.

Ngày càng vội vã, các bước sải nhanh và dài hơn. Vào sâu trong rừng có một bờ sông dài, ánh trăng chảy bạc xuống dòng suối. Một con nai cúi đầu uống nước, nó ngẩng lên khi nghe tiếng chân. Con nai cứ đứng tần ngần ở đó, đôi mắt chăm chú quan sát kẻ xa lạ. Bóng người mảnh khảnh tới gần, rồi dừng lại đối diện con nai. Họ nhìn nhau vài giây, không rõ trong cái nhìn ấy có ẩn ý gì không, nhưng rồi chẳng ai bảo ai, cả hai cùng quay mình đi những hướng khác nhau.

Người đội mũ trùm vẹt những bụi gai dây nhợ lùng bùng mà đi. Rồi một căn nhà bỏ hoang hiện ra trước mắt hắn. Tay nắm chặt cây đũa phép, hắn bắt đầu giảm tốc độ.
Im ắng.

Không có tiếng động gì kể cả tiếng gót giày cạ vào đất. Người nọ từ từ áp sát ngôi nhà. Cánh cửa gỗ đã mòn vẹt và cũ kĩ, nó kêu ken két khi hắn chui vào trong. Căn nhà trống hoác, không có ai.

Sàn gỗ đầy bụi bặm, giăng đầy những tơ nhện trên đầu. Người mặc áo chùng nhanh chóng lướt qua phòng khách tối thui, quẹo phải tới căn bếp xập xệ. Chỉ thấy những ngón tay lướt trên mấy lọ gia vị đã mốc, một đường hầm sâu hun hút hiện ra trước mắt. Hình như có tiếng thở phào nhẹ nhõm trong đêm tối, hắn lẩn nhanh vào trong. Những ngọn đuốc bùng lên thắp sáng cả con đường dài.

Chẳng biết đã đi bao lâu, bóng người mảnh khảnh dừng chân khi đường hầm tới ngõ cụt. Hắn áp sát tai vào tường, thì thầm:

- Là con đây.

- Con là ai? - Đầu bên kia có tiếng hỏi lại, tiếng của một bà cụ.

- Kẻ Cắp Ánh Trăng.

Khe nứt hiện ra tạo thành một cánh cửa. Người phụ nữ trẻ ngó ra ngoài đón người mặc áo chùng vào. Cửa vừa đóng, họ đã ôm chầm lấy nhau.

- Má tưởng con sẽ không đến.

Thật lạ khi người mẹ trẻ lại có giọng nói của bà cụ già nua. Bà gỡ cái mũ trùm xuống khỏi đầu con trai trong khi cậu nheo mắt nhìn quanh căn phòng. Đây là một cái hầm trú ẩn dưới đất, rộng rãi tới mức chứa được trăm người. Lò sưởi ấm áp đang bập bùng lửa, và trên đỉnh đầu là các cây nến sáng trưng. Cậu trai thả lỏng mình, lơ đãng để bà mẹ cởi cái áo choàng ra.

Một lúc sau khi tâm trí quay về, cậu đáp lại lời nói của mẹ:

- Con đã sắp xếp xong rồi. Sáng ngày mai lũ canh ngục tới và chúng sẽ phát hiện toàn bộ tù nhân bỏ trốn, kể cả những con tin quan trọng nhất. Nhưng thực ra họ chỉ đang náu một nơi gần đó, chờ cho chúng mất cảnh giác rồi vùng ra. Còn thời gian nên con tới đây tụ họp với mọi người.

- Thật là nguy hiểm. Lẽ ra con nên đợi tới sáng mai rồi đi. Con có thể bị chúng phát hiện.

- Con xin lỗi, con hơi gấp.

- Được rồi, không sao. Trên đường tới đây con có gặp ai không?

- Con có thấy Nai Rừng, giờ này chắc ảnh cũng đã tới cung điện rồi.

- Má mong là như vậy. Mắt trái của má cứ giật giật từ sáng... Mà sắp sáng rồi, con ngủ chút đi Alan.

Alan chớp mắt mệt mỏi, nhận ra tay chân mình rã rời hết cả. Cậu "Vâng" một tiếng rồi ngả lưng lên chiếc ghế dài.

Chừng một tiếng sau, lại có tiếng chào hỏi ở bên kia cửa vào.

- Tôi đây.

- Tôi là ai? - Bà mẹ lại hỏi.

- Đức Vua.

Cửa mở ra chào đón một người đàn ông đứng tuổi với bộ râu quai nón tỉa gọn. Họ ôm hôn nhau thắm thiết. Đức Vua bước vào trong phòng, ngáp một cái dài. Ông nhìn cái ghế đã có người nằm, tự lầm bầm:

- Alan đã đến rồi...

Rồi ông quay sang nói với vợ:

- Lyre, cho anh nửa tiếng. Sau nửa tiếng em hãy gọi anh dậy, bằng cách gì cũng được... Dẫn quân đánh sập một cứ điểm đúng là không phải chuyện chơi... mệt rã người...

Bà Lyre phủi sương trên mái tóc chồng mình. Đức Vua đi nhanh đến cái ghế dài bên cạnh Alan, ngả người chợp mắt. Nhưng tiếng gọi của vợ đã ngăn ông lại:

- Anh Rigel, em thấy hơi bồn chồn.

Ông Rigel trở mình nhìn vợ. Dưới ánh nến vàng cam, mặt bà hiện rõ nét đau đáu và âu lo.

Ông bảo:

- Không có chuyện gì đâu em. Mọi chuyện xong xuôi hết rồi. Các con tin đã được Alan giải cứu, Nai Rừng đang mai phục ở cung điện để tập kích vào ngày mai. Đám tướng cắm quân ở Phủ Lancaster thì anh đã trói gô cả lũ.

Bà Lyre nói khẽ:

- Chỉ mong là thế.

Sau đó là một khoảng không im lặng rất dài. Cái đồng hồ treo trên tường gạch cứ kêu tích tắc, âm thanh gõ vào màng nhĩ làm người phát bực. Bốn giờ sáng, lại có tiếng chào ở ngoài hầm:

- Tôi đây.

Alan đã thức giấc từ nửa tiếng trước. Cậu ngửa cổ tu một hơi hết sạch cốc nước to cho tỉnh táo. Trong khi đó, ông Rigel đang loay hoay với với mấy cái Bánh-quy-cắn-người của mình. Nghe tiếng gọi, cả ba người cùng chững lại một thoáng.

Alan nhanh chóng đứng dậy lui tới góc phòng, nơi có một cánh cửa hầm bí mật. Ông Rigel cầm chắc đũa phép trong tay.

Bà mẹ đứng từ xa, hỏi:

- Tôi là ai?

Bên kia đáp:

- Con Dilgan đây. Nai Rừng.

Ngay lập tức, Alan mở cánh cửa bí mật cuối hầm ra, ở đó có một con đường sâu hun hút. Cậu quay về phía mẹ, giơ một bàn tay lên trước khi bước vào hầm. Ông Rigel cũng đứng dậy, gật đầu với vợ, ông giơ 2 ngón tay. Sau đó hai cha con chạy nhanh theo lối sâu hun hút.

Bà mẹ kéo dài thời gian:

- Sao con lại quay về? Có phải tình hình không ổn chăng?

Người bên kia trả lời:

- Không còn thời gian nữa má! Chúng đang tới đây! Má mau trốn nhanh.

Giọng anh ta vội vàng.

- Thế còn các con tin thì sao? Chẳng lẽ họ cũng bị phát hiện rồi?

- Đúng thế! Vua Shadir và các công nương đã bị bắt lại. Chúng đang ở ngay đây. Má, con xin má... Thời gian cấp bách lắm rồi...

Bà mẹ lui đến chỗ đường hầm, nói điềm tĩnh:

- Tôi không thể.

- Má nói gì vậy?

- Cậu đâu phải Nai Rừng.

Sau câu nói đó, mọi thứ đều im lặng. Bà mẹ đã chạy vào đường hầm. Cơ thể người biến thành một con báo, bà phi nhanh như gió. Chừng 5, 10 phút sau, một tiếng động to nổ vang. Có vẻ như chúng đã phá được cửa vào hầm. Không lâu nữa, đám đó cũng sẽ tìm được cánh cửa bí mật và đuổi theo ngay.

Tốc độ má Lyre tăng nhanh hết mức. Con đường sâu tít mít và tối tăm vô tận, không thấy lối ra đâu cả. Bà cứ mải miết chạy, không ngừng lại. Chừng 20 phút sau, có mười đường hầm khác nhau hiện ra trước mắt bà. Lyre không ngừng lại, chạy ngay vào lối đi thứ 7. Lại thêm một quãng thời gian im lặng, chỉ nghe tiếng thở hổn hển và tim đập bình bịch bên tai, cuối cùng cũng thấy vài tia sáng xanh le lói.

Lối ra ở cuối cánh rừng, chỗ gốc cây Liễu Gai lâu đời. Má Lyre biến lại thành người, vung đũa kéo những tảng đá to lấp trước hốc cây, nó có thể cầm chân lũ Phản Hoàng Gia thêm chút. Bà thả người trượt xuống những cái rễ to và sần sùi, phóng đi như ngọn lao. Chẳng bao lâu, bóng người phụ nữ đã biến mất sau ở chạc ba mấy gốc cây sồi già.

__________

Alan dựa lưng vào một gốc cây cổ thụ, tay lăm lăm cây đũa phép. Quai hàm bạnh ra, mồ hôi mướt mát trên trán. Cậu đã chạy một quãng đường rất dài. Nhưng có vẻ Chúa đã bỏ rơi cậu, lối ra con đường số 5 là vườn một dinh thự. Dường như chúng đang phục sẵn ở đây, cậu suýt bị tóm được ngay khi tìm nơi lẩn náu.

Casley, một gã đàn ông to béo. Ông ta có thân hình khổng lồ với những thớ cơ đáng gờm. Đồng thời, gã cũng là một thành viên trong hội Phản Hoàng Gia. Tình hình bây giờ thật sự rất nguy cấp.

Casley cất giọng:

- Ra đây đi. Tao biết mày đang trốn. Khu vườn này cũng rộng đó nhỉ, nhưng từ từ rồi tao cũng tìm ra mày.

Tiếng chân lạt sạt qua cỏ. Alan nhẩm thầm câu chú tàng hình trong đầu. Cậu sử dụng thêm Bùa Bay. Khi hai chân bắt đầu nhấc khỏi mặt đất, thì cũng là lúc những luống hoa trong vườn đã bị ra lệnh phạt bằng sạch.

Alan thả mình lên cành cây cao, nhìn xuống dưới. Casley cho người rà soát khắp nơi. Đèn đuốc sáng trưng, lính ra vào nườm nượp. Trong tình hình này thì cậu không thể trốn được, mà thần chú tàng hình với Bùa Bay cũng không thể duy trì quá lâu. Alan nhắm mắt lại, cậu cố giữ bình tĩnh. Cậu tự nhủ: "Cái chết chỉ là sự mở đầu cuộc sống mới." Đó là châm ngôn nhà Lancaster.

Thời gian chờ đợi dài đằng đẵng. Casley đang chờ cậu xuất hiện, còn cậu đang chờ cứu viện. Có cơn gió thổi qua, Alan nhanh chóng nương theo tiếng xào xạc mà cắt một cành cây phủ lên người mình. Vườn vẫn sáng trưng đèn đuốc, đám lính đi tuần tra khắp nơi, lật từng gốc cây ngọn cỏ. Chúng truy lùng ráo riết.

Alan nghĩ ngợi lung tung, chẳng biết bây giờ ba má đã ra sao. Liệu họ có bị bắt hay không...

Những chuyện xảy ra đêm nay thật là điên rồ. Trong giờ khắc Tử thần kề cận, người ta hay nhớ lại nguyên do mọi sự. Alan nhắm mắt, nửa kinh hoàng, nửa hối hận, nửa giận dữ, đống cảm xúc như bàn chân gã khổng lồ dậm thình thịch đạp đổ toàn bộ điều tốt lành trong cậu.
Một cuộc chiến tranh ngôi khủng khiếp.

Alan được sanh ra từ dòng dõi trang quý, lớn lên với những lời răn của Chúa tại vùng đất Thánh uy nghiêm. Ở nơi bốn mùa như một, có những cánh đồng và thảm cỏ xanh mươn mướt, trải dài từ thung lũng xa xăm cho tới dòng sông óng ả như lớp mạ bạc trên trang sức cô tiểu thơ.

Tổ tiên nhà Lancaster đã tới đây sau chuyến bôn ba từ vùng Tây Mazur hiểm trở - nơi khí hậu nóng khô bắt nguồn từ cội cằn cỗi. Sau nhiều năm lang thang viễn du, họ dừng chân, khôn ngoan chọn chốn Carvalha màu mỡ để an cư lâu dài. Tuy thế, dù những bộ áo lụa quý hết sức trọng đại, với nếp sống nhã nhặn thanh lịch, thì không một ai trong số họ có thể che dấu vẻ bất kham của mình ở tính hiếu thắng trong mọi cuộc đua ngựa, điều mà hiếm hoi tìm thấy tại người miền Nam Mazur. Họ còn hiếu khách, tử tế, chu đáo và dễ khiến người khác hàm ơn trong vô tình. Đó là bản năng, một bản năng rạo rực phơi phới đã đưa người nhà Lancaster thoát khỏi những quy chuẩn giả tạo của tầng lớp thượng lưu, và phô bày tinh thần quảng đại cho tất thảy.

Alan và nhiều anh chị họ hàng cũng thừa hưởng tính tình đáng tự hào ấy, với nét đẹp hồng hào khỏe khoắn, tươi vui và lành mạnh, họ chào đời rồi cùng nhau nhập vào đời. Cùng đôi mắt như mảnh trăng lung liêng, nụ cười hàm hậu yên vị trên khuôn hàm rắn rỏi, họ tươi như cỏ non và mang vẻ oai hùng của dòng máu xứ Tây.

Nhưng đáng khen là, dù được vinh danh với tiếng tăm giàu có, thì những đứa trẻ vẫn chịu sự tôi luyện khắt khe trong các công việc thô sử, đời thường. Không một ai được lười biếng và thả rông bản thân trước sự giàu có của gia tộc. Vì đó là tài sản của nhà Lancaster, không phải của bất cứ đứa con nào, dù là đứa tài giỏi được cưng chiều nhất.

Ở thời Alan, dẫu sao, sự lưu truyền về thời vàng son và oai vệ chưa bao giờ tắt, nó bừng lên thành ngọn lửa nóng rẫy như một con sư tử đương thịnh nộ. Và cơn thịnh nộ đó thì trần trụi tới nỗi đến cả loài chim ưng kiêu hãnh nhất cũng nhún nhường lui bước.

Chiến tranh - không hẳn là chiến tranh, mà là một cuộc đấu tranh đã nổ ra. Đó là vụ tranh ngôi giữa những người bề trên, lẽ ra đừng can hệ gì tới những kẻ bề dưới, hoặc dân chúng vô tội. Nhưng bao thảm sát kinh hoàng đã khiến uất hận dồn nén trong câm nín, chúng đổ vào các cuộc khởi nghĩa như bão đánh chìm thuyền.

Một cuộc chinh chiến thì định sẵn không thể thiếu đổ máu và hi sinh. Từng lớp người cứ thế ngã xuống. Kể cả đám con nhà Lancaster, những con quỷ tinh lanh với đôi mắt bạc luôn tươi sáng ấy. Nhưng dầu gì thì phải khẳng định một điều rằng, sự hi sinh đó chẳng hề vô nghĩa, nó là một viên gạch góp phần cho chiến thắng. Luôn có thắng thua.

Chỉ là ai thắng, ai thua, Alan không biết.

Vì chính Alan và những người còn sót lại của gia tộc, cũng sắp xuôi tay trên mảnh chiến trường này.

Alan nhắm mắt lại, co cụm vào cành cây. Những tia nắng đầu tiên bắt đầu ở cuối chân trời và rọi qua màn sương đêm, phủ xuống khu vườn trọc lốc. Cậu nhận ra tóc mình đã ướt nhem. Còn trời đã sáng.

Casley gầm gừ:

- Sao vẫn chưa tìm thấy nó? Hả! Một tên oắt phù thủy chưa tới 25 tuổi thì làm được trò trống gì? Đã hai tiếng rồi! Mau tìm nó cho ta!

- Lỡ như thằng nhóc đó không còn ở đây...

- Vớ vẩn! - Casley gầm lên làm bộ ria mép rung rung - Tao tận mắt thấy nó chạy vào chỗ này! Thế quái nào mà nó biến đi được!

- Nhưng thưa ngài... Giả như ngoài đường hầm vào còn có một lối ra khác.

Casley mở to đôi mắt lồi với vẻ ngỡ ngàng. Rồi ông ta đứng lại, vân vê đuôi ria mép:

- Phải... sao ta lại không nghĩ tới... Lũ chúng bay mau tìm xem có cái đường hầm nào khác trong này không! Ta nhất định phải bắt được thằng oắt đó. Tụi Nổi Loạn, chúng làm ta khốn khổ quá nhiều...

Alan cảm thấy kiệt sức. Thần chú tàng hình sắp mất hiệu lực. Cậu nghĩ thầm: "Lẽ ra mình nên uống Phúc Lạc Dược trước khi ra chiến trường."

Đám lính bên dưới bắt đầu đào bới thảm cỏ, lục tìm trong gốc cây và sờ soạng dưới mặt đất. Nhưng đâu còn lối ra nào nữa. Mọi chuyện lâm vào tuyệt vọng.

Mặt trời đã nhú lên được một nửa. Giờ này vẫn chưa có tin tức gì của ba má, chắc là lành dữ ít nhiều. Alan mím chặt môi, cậu lặp lại câu châm ngôn lần nữa: "Cái chết chỉ là sự mở đầu cuộc sống mới", giải trừ phép tàng hình.

Alan đứng trên cao, gọi:

- Này! Lũ ngu ngốc!

Casley kêu lên:

- A ha! Tụi bay đâu, bắt nó lại!

Đám lính bắt đầu lộn xộn vung đũa phép. Nhưng Alan đã vọt thoăn thoắt qua những cái cây như một con sóc. Các thần chú đủ tia sáng va vào nhau, không có cái nào trúng vào cậu cả. Cậu chạy về phía bên trái con đường. Chúng đuổi theo sau. Đằng trước có một cái chái nhà. Không có thời gian nghĩ ngợi, cậu phá cửa xông vô, hóa ra nó là một kho để chổi. Hai, ba tên lính cũng vọt vào theo. Chừng mấy giây sau, một cơn gió cắt ngang mặt. Alan đã ngồi trên cây chổi, bay vút lên không trung, bỏ xa lũ lính phía dưới.

Alan cưỡi chổi phóng như lao. Casley tức tối, cũng nhảy lên một cây chổi phóng theo. Hai người kè nhau sát nút. Nhưng lần này Chúa không bỏ rơi Alan. Tên Casley chỉ nhăm nhe tóm cậu mà không nhìn đường đi, gã đâm sầm vào tường gạch. Alan nhanh chóng bay qua khoảng sân rộng và rời khỏi dinh thự.

- BẮT LẤY NÓ!

Sau lời ra lệnh ấy là hàng trăm những cây chổi khác đuổi theo. Alan lượn lách qua các mái vòm và những cổng tường nhỏ hẹp, đôi lúc cậu vung đũa phép phóng Bùa Choáng. Tất nhiên ngược lại, Alan cũng bị xây xước khá nhiều. Đuổi bắt chừng 20 phút, cậu bay được tới cung điện. Nhưng lúc này bên dưới đó, những tù nhân đang bị áp giải thành hàng. Tay và chân họ đều bị xích lại.

Ba má cậu cũng có mặt trong hàng người.

Chỉ hai giây sững mình, một tên lính đô con đã áp sát cậu. Hai người giao đấu với nhau trên không trung. Cuộc chiến đã thu hút sự chú ý của người ở dưới. Giờ Alan vừa phải chống chọi với tên lính, vừa phải đề phòng những người đánh lén khác. Mồ hôi cậu ướt đầm lưng áo, tay cầm đũa phép run lẩy bẩy. Rồi, một tên phù thủy Hắc Ám khốn nạn nào đấy đã nguyền chổi của Alan, làm nó giật về sau đầy man dại. Mọi thứ như thước phim tua nhanh, tên lính đô con thừa thắng xông tới trước. Gã lôi tuột Alan xuống một cách hung bạo, cậu ngã loạng choạng.

Tên lính đẩy cậu về phía các tù nhân:

- Kẻ cuối cùng đây.

Gã nói, và đũa phép của Alan bị tước. Mọi chuyện xảy ra một cách chóng mặt.

Cả thảy 15 nhà đã tham gia cuộc chiến, có 13 nhà bị giải lên. Cái cùm xích như tát vô mặt những kẻ kiêu hãnh đang bị đặt trong hoàn cảnh thê thảm. Họ gầm gừ tuyệt vọng, nhưng không bi lụy.

Vị tướng để ria mép có khuôn mặt đỏ phừng như say rượu, ông hét:

- Ngẩng cao đầu lên! Dù chết ta cũng phải chết bằng dáng đứng! Không một ai được chạy trối chết... cho dù là hi sinh tới giọt máu cuối cùng!
Ông đã bị chém đầu ngay sau câu nói ấy.

Cái chết đó gây nên làn sóng phẫn nộ kinh khủng. Các tù nhân bắt đầu điên lên và xổ tới sống mái với lũ lính.Alan chẳng kịp nghĩ ngợi gì, cậu xông vào cuộc chiến như một con ngựa hăng máu. Nhưng sau cùng, cuộc đàn áp dã man đã khiến họ tắt thở trước cả khi chém đầu.

Alan bật khóc. Má Lyre ôm ghì lấy chồng con, họ mở to mắt nhìn vào những thanh gươm đỏ quạnh đang hoành hành trên mảnh Thánh địa uy nghiêm.

Má thì thào lời xin lỗi với những người bạn quá cố, và nói trong nghẹn ngào:

- Chúng ta phải đi... hết cách rồi... Má xin lỗi. Má sẽ nói ngắn gọn thôi, nhà chúng ta có một câu chú cổ lâu đời, đọc lên và con sẽ được tới một thế giới khác sinh sống. Con sẽ bắt đầu lại, một cái chết không đau khổ, một cuộc đời mới.

Alan vẫn khóc, tai cậu ù đi vì nỗi đau thấu tim gan. Cậu không nghe được gì, chỉ loáng thoáng tiếng dặn dò của má:

- Chúng ta sẽ gặp nhau. Đừng sợ... người nhà Lancaster luôn sẽ tìm thấy nhau. Nhớ rằng má yêu con, chúng ta yêu con...

Take us far, far away
To familiar or unfamiliar places
To the vast steppe or forest
Take us to a place of peace, or war
We will go away, and disappear from this world
When we cry for help
Take us away, far away...

Hãy đưa chúng tôi đi, đi thật xa
Tới nơi thân quen hay lạ lẫm
Tới thảo nguyên mênh mông hay cánh rừng rộng
Đưa chúng tôi tới nơi hòa bình, hoặc chiến tranh
Chúng tôi sẽ đi xa, và biến mất khỏi cõi đời này
Khi chúng tôi cất lời cầu cứu
Hãy đưa chúng tôi đi, đi thật xa...

Allorelyra Camelopardalis Apus Agapanthus Lasvegas.

Một chùm sáng trắng cắt ngang mắt. Không khí quánh đặc lại, ép vào phổi. Cậu thấy ngạt thở như sắp chìm xuống nước.
Rồi trời đất tối sầm. Alan không còn nghĩ được gì nữa cả.

_________

- Allorelyra: Allore + Lyra.
Allore là tên Hy Lạp của sao Chức Nữ - ngôi sao sáng nhất chòm Lyra, đại diện cho lời cầu nguyện: "Đưa chúng tôi tới những nơi xinh đẹp trên đời".

- Camelopardalis: tên chòm sao Lộc Báo, một chòm sao lớn, ý nghĩa nó là "Vũ trụ rộng lớn bao la, chẳng biết khi nào gia đình ta đoàn tụ."

- Apus: tên một chòm sao mờ nhạt trên bầu trời. Đồng thời, đây cũng là tên một loài chim yến rất đẹp. Lấy cái tên này, đây là lời cầu nguyện thứ 3: "Đưa chúng tôi tới nơi thanh bình, yên ả."

- Agapanthus: Tên hoa Thanh Anh, ý nghĩa hoa Thanh Anh là "tình yêu dịu dàng". Đây cũng là lời cầu nguyện thứ 4: "Cho chúng tôi sống hạnh phúc với niềm tin yêu."

- Lasvegas: Las Vegas, thành phố sôi động nhất thế giới về đêm, cũng là câu cầu khiến thứ 5: "Hoặc đưa chúng tôi đến với bóng tối, những nơi đen ngòm, nguy hiểm, nhiều thách thức."