Minh Cung Truyện - Chương 01 (1): Cuồng ca thống ẩm - Lai phỏng nhạn khâu xứ

ĐOẠN 1: HỒNG HẠNH ĐÔNG LÂU

MINH CUNG TRUYỆN – CHƯƠNG 1:

CUỒNG CA THỐNG ẨM – LAI PHỎNG NHẠN KHÂU XỨ

(Có kẻ hát trong điên cuồng, say trong đau khổ, tìm lại mộ chim nhạn năm xưa)

*Câu thơ đề trích “Mô ngư nhi – Nhạn khâu” – Nguyên Hiếu Vân.

------------

Nắng thu như màn tơ mỏng buông xuống trần, có phần nhẹ nhàng lại có phần huyền ảo. Những cơn gió thu thoang thoảng, khẽ đưa qua, mang theo hương thơm đặc trưng của các loài hoa thu. Vài đóa hoa cúc, hoa thược dược trong hoa viên bắt đầu hé nở, đua nhau khoe sắc, dệt thành bức tranh mùa thu như mây như gấm, đẹp đẽ động lòng người.

Tử Cấm Thành. Ngày hai mươi tháng tám năm Chính Đức [1] thứ mười lăm.

[1] Chính Đức: niên hiệu thời vua Minh Vũ Tông. Năm Chính Đức 15 là năm 1520.

Lễ đại thọ năm mươi tuổi của Từ Thọ Thái hậu [2] được tổ chức trong Nhân Thọ cung. Cảnh Nhạc đài nằm trong Nhân Thọ cung của Từ Thọ Thái hậu, là tòa đài đẹp bậc nhất về kiến trúc trong Tử Cấm Thành; lại nằm gần Yến hoa viên cho nên được chọn làm nơi tổ chức đại yến.

Chính Đức Hoàng đế gửi thiệp mời đại thọ tới rất nhiều khách quý trong hoàng thất và ngoại tộc. Khách mời rất đông, còn có sứ giả các Đại Việt, Triều Tiên qua chúc mừng Thái hậu; cho nên Cảnh Nhạc đài phải bố trí đến gần trăm chiếc bàn cỡ dài.

Đặc biệt gia quyến Trương thị - dòng họ của Thái hậu – cũng có rất nhiều nhân vật quan trọng tham dự.

Trương thị có Thái hậu chống lưng như thể diều có gió, cả một dòng họ phú quý. Đệ đệ Thái hậu là Trương Diên Linh trẻ tuổi đã được đảm nhiệm vị trí Quốc công; đại huynh Thái hậu là Trương Hạc Linh là Thượng thư bộ Binh của đại Minh. Trưởng nữ của Trương gia – cháu gái cưng của Thái hậu – quý danh là Trương Trích Hoa được Hoàng thượng đồng ý cho ở trong Nhân Thọ cung từ khi còn nhỏ để Thái hậu đích thân nuôi dưỡng và dạy bảo.

[2] Từ Thọ Hoàng Thái hậu Trương thị: Lấy hình tượng Từ Thọ Thái hậu trong lịch sử nhà Minh. Bà được biết đến là vị Hoàng hậu duy nhất sống theo chế độ một vợ một chồng với Hoàng đế.

Năm nay, Đại Minh chưa hết tang của Thái hoàng Thái hậu, song Chính Đức bỏ ngoài tai những lời thị phi của các vị đại thần, vẫn tổ chức yến thọ cho mẫu thân mình cực kỳ long trọng.

Từ rất sớm, hạ nhân đã kê bàn thành hai dãy dài, mỗi dãy có bảy hàng, mỗi hàng bảy chiếc bàn được trang trí đẹp mắt, lại bày vô số những món ăn trân quý và hiếm thấy. Các hạ nhân trong Nhân Thọ cung liên tục qua lại rót rượu, mang những loại rượu cực phẩm, dâng lên Thái hậu và khách dự tiệc. Cảnh Nhạc đài tràn ngập tiếng cười nói huyên náo, nhộn nhịp.

Thái hậu năm nay đại thọ năm mươi, tuổi xem như cũng vào cái độ xế chiều nhưng khí chất của bậc mẫu nghi thì dường như vẫn không hề suy giảm. Gương mặt phúc hậu mà đầy thần khí, ánh mắt đằm thắm, ôn nhu mà vẫn thể hiện rõ uy nghiêm của bậc trưởng bối hoàng thất, quả xứng với ba chữ “lệ mà uy”.

Thái hậu ngồi trên phượng tọa, bên hai bên trái phải là đế hậu. Hôm nay là mừng thọ, người mặc lễ phục mùa hè màu tía. Trên đại sam y của bà thêu hoa lạc tiên bằng chỉ bạc; bên mỗi viền tay áo thêu chìm một hàng chữ “Thọ” vô cùng tinh tế. Dải hà bí bên ngoài màu xanh đậm như sóng nước, trên nền trang trí họa tiết long phượng bằng sợi tơ vàng, hai bên lại đính thêm những hạt ngọc trong suốt nhỏ như giọt nước. Phượng lễ quan Thái hậu đội cài tam kim long, lục ngân phượng, thêm vô số hoa sai điểm thúy, hồng ngọc bóng bẩy trang trí lên; lại có đôi dải lưu tô đối xứng hai bên phượng quan, kết từ những bạch châu quý giá rủ xuống, càng tăng thêm sự lộng lẫy cho phục sức của bà. [3]

[3] Hà bí: dải lụa bên ngoài áo của phụ nữ thời Minh, rộng ba tấc, dài năm thước. Là loại phục sức dành cho phụ nữ quý tộc trong những dịp lễ trọng đại.

Phượng lễ quan: là loại phượng quan, hay chính là mũ phượng mà phụ nữ quý tộc dùng trong dịp lễ. Là một trong những phục sức quan trọng thời Minh.

Tam kim long, lục ngân phượng: bốn rồng vàng, sáu phượng bạc. Hoa sai điểm thúy: thoa cài hình hoa điểm thúy. Lưu tô: loại trâm có tua rủ khá phổ biến thời phong kiến.

Hoàng hậu Hạ thị, năm nay gần ba mươi tuổi, ngồi trên hoàng tọa bên phải Thái hậu. Trong đại lễ long trọng, nàng cũng vận y vô cùng lộng lẫy. Nàng rời khỏi chỗ, khéo léo mang chén rượu đến trước Trương Thái hậu, nâng chén vàng ngang mày thật cung kính, mời bà: “Hôm nay mừng thọ mẫu hậu, nhi thần chúc mẫu hậu vạn thọ vô cương.”

Trương Thái hậu đưa tay nhận lấy chén rượu bằng vàng từ Hoàng hậu, miệng mỉm cười ôn nhu, khẽ gật đầu tỏ ý hài lòng, khen ngợi: “Hoàng hậu thật là có lòng.”

Cháu gái của Thái hậu - Trương Trích Hoa, người được Thái hậu nuôi dưỡng dạy dỗ từ nhỏ, được cho ngồi ngay bên cạnh Hoàng hậu Hạ thị. Hôm ấy, Trích Hoa mặc tiểu lễ phục màu đỏ tươi, thêu chìm những họa tiết hồ điệp, rực rỡ tựa như một bông hoa mẫu đơn Lạc Dương Hồng trong nắng. Sau khi Hạ Hoàng hậu dâng rượu xong, nàng cũng đứng dậy, cúi người thật thành kính: “Hoa Nhi cũng chúc hoàng bá mẫu phúc như Đông Hải, thọ tỷ Nam sơn. Chúc bá mẫu vô cực trường lạc.” Giọng nói nàng nhẹ như tiếng gió thoảng, lại thanh thanh như tiếng chim ngân nga, tựa như rót mật vào tai những người lắng nghe.

Ai nấy trầm trồ tán dương rằng Trích Hoa không chỉ xinh đẹp, ăn nói khéo léo, lại ngợi ca Thái hậu dạy dỗ được một nữ tử ngoan ngoãn và hiểu lễ. Thái hậu vừa ý, cười tán thưởng: “Quả đúng là Hoa Nhi của ai gia. Ai gia không có nhi nữ, con chính là niềm tự hào của ai gia, của Trương gia. Lại đây, ngồi cạnh ai gia.”

Trương Trích Hoa dịu dàng đứng dậy, bước tới chỗ Thái hậu. Trương Trích Hoa năm đó lên mười lăm tuổi, dung nhan dù lớn sẽ còn thay đổi nhưng có lộ rõ dáng dấp của một mỹ nữ khuynh quốc khuynh thành. Ở thái dương bên trái của nàng còn có vết bớt hơi nhỏ màu đỏ thắm từa tựa hình bông hoa mẫu đơn. Xưa kia, khi thầy toán đến Trương phủ xem, từng nói Trương Trích Hoa có phượng nhãn, lại có vết bớt hồng mẫu đơn mà mẫu đơn là “hoa trung chi vương”, đó chính là dấu hiệu của một người có mệnh phượng hoàng.

Chính Đức Hoàng đế [4] ngồi bên cạnh Thái hậu – cũng chính là biểu ca của Trích Hoa - cũng nở nụ cười, khen ngợi: “Đúng là Hoa Nhi luôn làm mẫu hậu vừa ý nhất.”

Hoàng thượng dứt lời, mấy phi tần, mấy vị phu nhân, vương phi lại bắt đầu chêm xen những lời nịnh nọt Thái hậu.

[4] Chính Đức Hoàng đế: là Minh Vũ Tông trong Lịch sử nhà Minh, lấy niên hiệu Chính Đức nên gọi là Chính Đức Hoàng đế

Nghe mấy lời này, Trương Trích Nguyệt ngồi phía dưới chỉ thấy buồn lòng, lại tủi thân. Trích Nguyệt vốn là muội muội cùng cha khác mẹ của Trương Trích Hoa, song mẹ nàng chỉ là thứ phu nhân trong Trương phủ.

Tỷ tỷ nàng là đích nữ, dung nhan xinh đẹp hơn người, lại được Thái hậu nuôi dưỡng từ nhỏ. Cho nên trong mắt người ngoài cái gì của tỷ tỷ cũng có thể hơn Trích Nguyệt. Với Trương gia, tỷ tỷ là niềm hy vọng lớn lao. Còn nàng, một kẻ lúc nào cũng bị cho là vô dụng bất tài, chỉ có thể ngày ngày ở trong Trương phủ, chịu những lời khinh miệt của đám nha hoàn, gia nhân.

Từ nhỏ lúc nào nàng cũng thấy không cam lòng, bởi nàng cũng có tài, tiếc là không ai biết đến, chỉ vì nàng không phải trưởng nữ Trương gia, cho nên luôn bị coi nhẹ. Nàng nghe mọi người bàn tán mà siết chặt tay thành nắm. Tỷ tỷ có mệnh phượng hoàng, nhưng làm Hoàng hậu của ai chứ? Của Hoàng đế biểu ca sao? Cái lẽ đó đã là không thể. Nếu thế chỉ có thể làm Hoàng hậu của vị Hoàng đế đời tiếp theo thôi, mà Hoàng đế đời tiếp theo thì là con của Hoàng đế biểu ca, là cháu của tỷ tỷ, kém tỷ tỷ đến chục tuổi. Vậy thì càng không thể rồi. Ha, cái mệnh phượng hoàng này âu cũng chỉ là một giai thoại để người ta chê cười thôi! Trích Nguyệt luôn phải nghĩ thế để tự an ủi mình, nhưng cũng chẳng khiến nàng vui vẻ hơn được bao nhiêu.

Trương Trích Nguyệt nhẹ nhàng nói nhỏ với cha: “Phụ thân, Trích Nguyệt cũng hơi đau đầu. Con ra Yến viên tản bộ một lát.”

Phụ thân gật đầu qua loa rồi tiếp tục nói chuyện, cười đắc ý với mọi người xung quanh, nghe những lời nịnh từ bọn họ mà không để ý tới nàng nữa. Trong mắt phụ thân, chưa bao giờ có mẫu thân nàng, đương nhiên cũng chưa bao giờ có nàng. Người chỉ coi tỷ tỷ là con gái người. Nàng cũng không mấy để ý, liền rời khỏi bữa tiệc, đi tới Yến viên. Mọi người xung quanh cũng chẳng ai chú ý tới sự biến mất này của nàng. Họ vốn chỉ để tâm tới tỷ tỷ tuyệt sắc tài năng của nàng, Trương Trích Hoa.

Mùa thu. Khắp Yến viên, thược dược, mẫu đơn nở đầy. Hai ven đường đi từ cổng vào Yến hoa viên, trồng vô số những khóm mẫu đơn Ngụy Tử màu hồng thắm. Lại có những đóa hoa mẫu đơn Nhị Kiều hai màu hồng đỏ, tựa như hai nàng giai nhân khoác xiêm y rực rỡ trong nắng thu vàng. Những đóa hoa thược dược màu hồng nhạt e ấp nép dưới những đóa mẫu đơn rực rỡ, tựa hồ là khép mình kính nể trước “hoa trung chi vương”. [5]

[5] Mẫu đơn Ngụy Tử, mẫu đơn Nhị Kiều: tên các loài mẫu đơn quý. Mẫu đơn là loài hoa đẹp, thường tượng trưng cho người phụ nữ có thân phân tôn quý, được xưng là “hoa trung chi vương” (vua của muôn hoa).

Gió thoảng mang theo hương thơm ngan ngát của các loài hoa khiến Trích Nguyệt cảm thấy dễ chịu hơn hẳn khi ở trong yến thọ của bá mẫu. Ở đây dù có vọng đến vài âm thanh từ Cảnh Nhạc đài nhưng hầu như rất ít.

Nàng dạo bước trên thảm cỏ biếc xanh, thoáng chốc đã đến Thái Dịch trì. Mới vào đầu mùa thu, lác đác trên hồ vẫn còn vài khóm sen trắng muốt. Phía xa xa, Trích Nguyệt trông thấy những hòn giả sơn với hình thù kỳ lạ và sống động; giữa hồ nước mênh mang còn có những đình nghỉ chân giữa hồ được thiết kế đẹp mắt. Trên mặt hồ, nước gợn lăn tăn, nhìn rõ những hạt nước bốc lên như làn sương mờ ảo, khiến người ta cảm thấy như lạc vào chốn bồng lai, tiên cảnh. Ven hồ, vài cây hoa hoa hạnh tứ quý nở rộ những bông hoa màu hồng tươi, tựa như yên chi trên má đào của nàng thiếu nữ. Một làn gió khẽ khàng thổi qua, đưa theo những cánh hoa hồng hạnh bay phấp phới trong không trung, mỹ lệ không gì tả được.

Trích Nguyệt ngồi xuống dưới gốc cây hồng hạnh. Gương mặt nàng nặng vẻ sầu tâm và u uất. Cuộc sống của nàng không phải phiêu bồng, khổ ải; cũng chẳng phải nay đây mai đó. Nàng cũng có một ngôi nhà, cũng có một gia đình. Thế nhưng đó chỉ là những mong mỏi sâu trong tâm thức. Những người trong nhà vốn không ai biết đến sự tồn tại của một thứ xuất kém cỏi như nàng. Từ nhỏ, nàng cùng mẫu thân đã phải sống trong căn nhà nhỏ mé tây phủ đệ Trương gia, chẳng mấy ai quan tâm, chẳng mấy ai thăm hỏi tới. Không phải chỉ một lần, nàng khóc ướt đẫm chiếc gối vải trong đêm khuya tịch mịch, lòng thầm mang hận phụ thân, hận gia tộc mình. Mẫu thân nằm ngay bên cạnh nghe thấy nàng tỉ tê cũng chỉ đưa tay, ôm nàng vào trong lòng. Người im lặng không nói gì. Trích Nguyệt không biết vào lúc ấy mẫu thân đã nghĩ tới điều gì, chỉ biết khi dựa đầu vào ngực mẫu thân, nàng thấy có nước mắt nóng hổi chảy xuống.

Ngẩng đầu nhìn lên trời cao, nàng khéo trông đôi nhạn bay lượn trên bầu trời, con bay con lượn, đùa giỡn thật vui vẻ, kêu lên những tiếng trầm bổng êm tai. Nàng chợt buồn bã đến độ thê lương. Mẫu thân gả vào Trương thị, sống không được lấy một ngày hạnh phúc. Nàng là tiểu thư phủ Quốc công, sống không bằng một kẻ hầu của phu nhân trong phủ, bị người ta khinh rẻ vô cùng. Đến vạn vật như loài nhạn còn sánh đôi, có đàn, vậy sao con người lại cứ phải phân biệt, cứ phải cô độc, cứ phải chia cắt?

Nước mắt tuôn rơi, nàng khẽ cất tiếng hát ai oán:

“Vấn thế gian tình thị hà vật

Trực giáo sinh tử tương hứa

Thiên nam địa bắc song phi khách

Lão sí kỷ hồi hàn thử

Hoan lạc thú

Ly biệt khổ

Tựu trung cánh hựu si nhi nữ

Quân ưng hữu ngữ

Diểu vạn lý tằng vân

Thiên sơn mộ tuyết

Chích ảnh hướng thùy khứ.

 

Hoành Phần lộ

Tịch mịch đương niên tiêu cổ

Hoang yên y cựu bình sở

“Chiêu hồn”, “Sở ta”, hà ta cập

“Sơn quỷ” ám đề phong vũ

Thiên dã đố

Vị tín dữ

Oanh nhi yến tử câu hoàng thổ

Thiên sầu vạn cổ

Vi lưu đãi tao nhân

Cuồng ca thống ẩm

Lai phỏng nhạn khâu xứ…”

[6] Bài Mô Ngư nhi – Nhạn khâu:

Dịch: Hỏi thế gian ái tình là chi?
Mà lứa đôi (đôi chim nhạn) hẹn thề sống chết
Dù trời nam hay đất bắc, đôi nhạn vẫn luôn sát cánh bên nhau,
Đã trải qua biết bao lúc cùng nhau ấm lạnh.
Niềm vui hoan lạc
Nỗi khổ lúc chia lìa,
Chung quy đều chỉ do si tình nhi nữ
Người sao không nói?
Nay đã khuất vào tầng mây vạn dặm
Từ nay ta sớm chiều qua ngàn non tuyết,
Chỉ còn mình ta chiếc bóng, hỏi còn cùng ai?

Trên dải sông Phần,
Tiếng nhạc trống, tiêu rộn rã năm xưa nay đã thành tịch mịch,
Rừng cây trải rộng, khói hoang xen lẫn.
Bài “Chiêu hồn" cất lên đâu còn kịp,
Khúc "Sơn quỷ" cũng ảm đạm trong mưa gió.
Trời cũng biết ghen tị,
Há vẫn còn chưa tin ư,
Đôi kẻ yến oanh rồi cũng trở thành nấm đất.
Ngàn mối sầu đành để lưu truyền tới vạn đời sau,
Để đối đãi những tao nhân mặc khách.
(Sẽ có người) hát trong điên cuồng, uống rượu trong đau khổ,
Tới tìm thăm lại nấm mộ chim nhạn này.

Những ngày còn bé, nàng hay nghe mẫu thân hát bài này. Mỗi lần hát, mẫu thân thường nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh mắt người buồn man mác, tựa như là đang mong ngóng chờ trông. Lúc ấy nàng còn nhỏ lắm, lời bài “Nhạn khâu” cũng chẳng hiểu được mấy phần. Nàng chỉ biết mẫu thân nói rằng người giống như một cánh nhạn đơn côi, nhìn những hàng nhạn dài bay về cửa ải… [7]

[7] Lấy ý từ bài thơ Cô nhạn của Thôi Đồ. Kỷ hàng quy tái tận/Niệm nhĩ độc hà chi (Hàng hàng nhạn về biên ải/Sao nhạn kia lại chỉ có một mình?)

Hát xong bài ca, đột nhiên nhớ đến mẫu thân, người luôn ở bên nàng những ngày còn bé, nàng lại rơi nước mắt. Nàng lúc này cũng giống mẫu thân lúc ấy, giống một cánh nhạn cô độc, không đôi, chẳng đàn, không người bầu bạn, chẳng kẻ thương yêu, trân trọng.

Lai phỏng nhạn khâu xứ. Còn nhỏ tuổi mà đã nghĩ đến lúc quy tiên, thật là bi ai. Muội muội, sao muội lại khóc?” Ngay bên cạnh nàng, xuất hiện một nam tử tuổi tác chắc cũng không hơn nàng bao nhiêu. Tuổi còn nhỏ nhưng gương mặt hắn chứa chất tâm tư và bi thương vô hạn. Hắn không mặc lễ phục, cũng không mặc trường bào, chỉ mặc một bộ thường phục đơn giản màu tím nhạt khiến Trích Nguyệt không đoán được ra thân phận của hắn.