Thiện Ác và Smartphone - Chương 12

TA CẦN BIẾT BAO NHIÊU VỀ CUỘC ĐỜI NGƯỜI KHÁC?

“Tất cả mọi người đều có ba cuộc sống: công cộng, riêng tư và bí mật” -Gabriel García Márquez

“Văn minh là quá trình tiến bộ hướng tới một xã hội của riêng tư. Toàn bộ sự tồn tại của người hoang dã xảy ra nơi công cộng, được thống trị bởi luật lệ của bộ lạc anh ta. Văn minh là quá trình giải phóng con người khỏi con người.” - Ayn Rand

Hãy giả định bạn phản đối việc bỏ thai. Ở Ireland hay Ba Lan, bỏ thai là một việc phạm pháp; ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác thì không. Với nhà thờ Thiên Chúa giáo, bỏ thai là “một tội lỗi kinh khủng”.

Bất kể luật pháp nơi bạn sống có cho phép bỏ thai hay không, phản đối là quyền của bạn, không ai được phép lấy đi quyền bạn được lên tiếng và yêu cầu thay đổi luật. Một chiến thuật ưa thích của những người phản đối bỏ thai ở Mỹ, thường được gọi là phe “vì cuộc sống”, là tụ tập trước cửa các phòng khám cung cấp dịch vụ bỏ thai, khiến người sử dụng dịch vụ phải tìm đường lách qua đám đông lên tới hàng trăm người giương biểu ngữ và những bức hình máu me của các thai nhi bị bỏ, miệng hô khẩu hiệu lên án hoặc kêu gọi người phụ nữ rủ lòng thương với đứa bé trong bụng - một quãng đường đày ải.

Nhưng liệu bạn có tán thành việc một nhóm hacker đột nhập vào máy tính của một phòng khám và tung lên mạng danh tính của những phụ nữ đã từng dùng dịch vụ ở đây? Bởi họ “xứng đáng” để bị như vậy và làm như thế là để răn đe những kẻ “vô đạo đức” khác? Tôi đoán là không.

Với 32 triệu khách hàng của Ashley Madison, kịch bản bên trên không chỉ mang tính lý thuyết. Ashley Madison là một mạng xã hội có trụ sở tại Toronto, Canada, với mục đích giúp người đã kết hôn tìm bạn tình. Vào trang chủ của nó, người ta nhìn thấy lời khuyên “Cuộc đời ngắn ngủi. Hãy ngoại tình” và một bức ảnh nửa dưới khuôn mặt của một phụ nữ xinh đẹp đang giơ ngón trỏ lên trước miệng, ra ý “Im lặng!” Tháng 7 năm 2015, một nhóm hacker xâm nhập vào hệ thống của công ty và đưa toàn bộ số liệu của khách hàng lên mạng: địa chỉ email, dịa chỉ nhà, số điện thoại, nơi làm việc, phần cuối của số thẻ tín dụng, và sở thích tình dục.

Như thường lệ, nhiều người hoan hỉ. “Chúa ơi, giá mà tôi là luật sư chuyên về ly dị,” một công dân mạng Mỹ tiếc rẻ. Một chương trình radio ở Úc đưa ra dịch vụ tra giùm xem địa chỉ email của vợ hay chồng của người nghe đài có nằm trong ngân hàng dữ liệu của Ashley Madison không,139 một việc mà sau đó người phát thanh viên hối hận.

Vụ hack Ashley Madison là một trong những vụ vi phạm quyền riêng tư lớn nhất trong lịch sử hiện đại, với hệ quả trầm trọng cho xã hội và cho Internet. “Xin chào đến với ngày đầu tiên của thời tàn Internet,” tờ Washington Post đăng tải một bình luận của một bạn đọc.140

Tiếp theo sẽ là gì? Danh sách gái mại dâm? Danh sách những người nghiện hay buôn bán ma túy? Trong 1984, tiểu thuyết viễn tưởng về một thế giới toàn trị của George Orwell, hình ảnh của những kẻ theo dị giáo được chiếu trên màn hình ti vi để người ta xỉ vả. Liệu chúng ta có đang tiến tới thế giới đó, với một khác biệt duy nhất là ở thế kỷ 21, không phải bộ máy quyền lực chính thống, mà chính dân chúng là những người đưa “những kẻ tà đạo” ra ánh sáng?

Những người Công giáo tin rằng mọi hành vi của họ đều được theo dõi và phán xét bởi Chúa trời, và điều đó khiến người ta không dám làm điều xấu. Có vẻ giờ đây nhiều cư dân mạng tin rằng mình đang được Chúa trời trao lại vai trò này, và rằng họ có trí tuệ và sự công bằng như của Chúa, thậm chí còn hơn thế.

RIÊNG TƯ VÀ NHÂN PHẨM

Quyền riêng tư là gì? Vào cuối thế kỷ 19, Louis Brandeis, luật sư và sau này trở thành thẩm phán của Tòa án Tối cao Mỹ gọi quyền riêng tư là quyền “được để yên”, và cho rằng nó một trong những tự do cần được bảo vệ nhất của một nền dân chủ.141 Ngày nay, khái niệm riêng tư thường bao gồm bốn khía cạnh: sự riêng tư của cơ thể, nhằm bảo vệ người ta trước những dạng can thiệp như khám người hay bị ép đo nóng độ thuốc kích thích; sự riêng tư của không gian sống, bảo vệ nó trước sự thâm nhập của nhà nước và các quyền lực khác (ví dụ khám nhà hay văn phòng); sự riêng tư của giao tiếp (thư tín, điện thoại, email v.v.) và cuối cùng là sự riêng tư của thông tin cá nhân (hồ sơ bệnh lý, thu nhập và tài sản, ảnh và các chi tiết đời tư).

Sự riêng tư của thông tin cá nhân là khía cạnh dễ bị tổn thương nhất. Nó có thể xảy ra qua một hành động vô ý thức, như khi một trường đại học đưa điểm thi của tất cả sinh viên lên trên mạng, hay tới từ một quan điểm sai lầm là bố mẹ có quyền lục lọi phòng và đọc nhật ký của con, hay từ bệnh thành tích khi giáo viên công bố xếp hạng học lực của lớp vào cuối học kỳ “để tạo động lực thi đua”, hay vì “nghiệp vụ” khi báo chí đưa hình chụp giấy khai sinh của một cầu thủ bóng đá lên mạng.

Internet nâng mức độ trầm trọng lên gấp hàng triệu lần, như trường hợp của Ashley Madison bên trên, hay khi các ảnh selfie khỏa thân của nhiều ngôi sao bị hack trên iCloud của Apple. Ở một mức độ khiêm tốn hơn, nhưng không kém phần hủy hoại, nhiều phụ nữ Việt có chồng ngoại tình lên Facebook lập hội “diệt phò”, đăng ảnh và danh tính của người thứ ba để mọi người vào phỉ nhổ. Trang mạng mang tên Kẻ phá tổ ấm (“She is a home wrecker”) của Mỹ hoạt động theo phương thức tương tự. Người quản lý trang tuyên bố mình chỉ đăng tải thông tin, không có trách nhiệm kiểm chứng chúng.

Vì sao sự riêng tư lại quan trọng? Sự riêng tư cần thiết để ta thiết lập các quan hệ giữa người với người. Mỗi quan hệ đòi hỏi ta vào một vai khác nhau, có một khuôn mặt khác nhau: chồng/vợ, sếp, con gái, đồng nghiệp. Mỗi vai thể hiện một khía cạnh khác nhau của bản thể. Kiểm soát thông tin cá nhân nào được bộc lộ với ai là để xây dựng chỗ đứng cho mình trong xã hội. Đánh mất sự kiểm soát này là đánh mất khả năng kiến tạo ta là ai trong tương quan với xã hội.

Ở những nơi khác nhau và những thời điểm khác nhau, chúng ta không ngừng đưa ra quyết định về việc bộc lộ trước người khác cái gì, như thế nào, tới đâu. Có những niềm vui bạn muốn người khác nhìn thấy, có những giọt nước mắt bạn muốn chỉ giữ cho mình. Bạn kể cho bạn bè những điều mà bạn không nói với bố mẹ. Bạn tâm sự với người cùng khoang tàu đêm điều bạn không bao giờ nói với chồng. Không có tự do ra những quyết định này, sự gần gũi, tin cậy, tình bạn và tình yêu sẽ không thể nảy nở.

Nhiều người hay nói “Tôi không cần sự riêng tư bởi tôi không có gì để che giấu”, nhưng điều đó giống như cho rằng “tôi không cần tự do biểu đạt vì tôi không có gì để phát biểu” hoặc là “tôi không cần bí mật thư tín bởi tôi không viết thư.” Hãy hình dung một thế giới mà bạn không dám viết nhật ký, bởi những bí mật của bạn, những lời sám hối, những ý nghĩ bẩn thỉu, những tưởng tượng tình dục, những điều bạn không dám kể với ai, sẽ có nguy cơ được đám đông đọc, bình phẩm và phán xét. Nhà văn Tiệp Khắc nổi tiếng Milan Kundera viết rằng khoảnh khắc quan trọng trong sự phát triển của một thiếu niên là khi nó đòi một ngăn kéo có khóa cho những ghi chép thầm kín của nó.142 Đó là khoảnh khắc nó biết xấu hổ khi người khác xâm phạm sự riêng tư của mình. Để phát triển sự tự chủ và bản sắc cá nhân, mỗi người cần những giây phút được bảo vệ trước con mắt bên ngoài, ở “hậu trường”, chỉ một mình với mình.

Một gia đình không cho các thành viên của nó sự riêng tư là một gia đinh bóp nghẹt con người. Một xã hội không tôn trọng quyền riêng tư của các thành viên là một xã hội làm nghẹt thở. Đó chính là lý do quyền riêng tư của tù nhân, mặc dù có bị hạn chế (ví dụ bí mật thư tín), không thể bị tước đi hoàn toàn.

Đánh mất sự riêng tư có thể còn có nghĩa là đánh mất khả năng có cuộc sống bình thường. Có vô vàn các ví dụ: “hoàn cảnh thương tâm” của những đứa con của một phụ nữ sát hại chồng được báo chí “khai thác”, biến chúng thành những con thú trong sở thú. Clip quay cận cảnh người bị tai nạn giao thông được lan truyền trên mạng, khiến gia đình nạn nhân không bao giờ ngừng đau xót.

Ngày nay, đặc biệt những người của công chúng là những cá nhân có nguy cơ không bao giờ được lui về sau sân khấu, không bao giờ được yên. Chỉ trong vòng 24 tiếng sau khi hoa hậu Đỗ Mỹ Linh đăng quang vào tháng 8 năm 2016, người ta đã lục ảnh cũ ra để cáo buộc cô “sửa răng” và đào lên một trạng thái trên Facebook của cô cách đây bốn năm, khi cô mới 16 tuổi, để đánh giá tư cách đạo đức. Nhà nghiên cứu Edward Blousten viết: “Khi một người bị bắt phải sống mỗi giây phút của cuộc đời giữa những người khác, khi mỗi nhu cầu, ý nghĩ, khao khát, ham muốn hay thỏa mãn của anh ta đều bị công chúng soi mói, anh ta sẽ đánh mất tính cá nhân của mình.”143 Nói khác di, khi đám đông soi xét từng dáng ngủ trên máy bay, từng động thái like trên Facebook của một cá nhân, người ta đang cướp đi bản thể con người đó, và biến họ thành một con rối của mình, một dạng đồ vật.

Cũng vì lý do đó mà sự riêng tư gắn liền với nhân phẩm. Khi riêng tư bị tấn công thì nhân phẩm bị tổn thương và nhân tính bị đe dọa. Khi người ta lục lọi trong quá khứ của một hoa hậu như chốn không người, họ không đếm xỉa tới cảm lúc và suy nghĩ của cô, và không coi cô như là một con người nữa. Cái đem lại cảm giác làm người là quyền được tự kiến tạo số phận của mình. Khi người ta quay lén một ai đó, họ đã lấy đi chủ thể của người đó, tước đi khỏi người đó tự do được quyết định và lựa chọn ai được chứng kiến hành vi nào của mình. Người bị đánh mất sự riêng tư là người bị trói chân trói tay rồi lột trần trước ánh mắt của người khác. Anh ta đánh mát sự tự trị, bị làm nhục, trong lúc người xâm lấn đời tư tuyên bố với thế giới: “Nhìn đây, anh ta là của tôi, chiến lợi phẩm của tôi, con mồi của tôi.”

SỰ SỐNG CÒN CỦA CÁ NHÂN

Đẩu mùa hè năm 2016, một ai đó giả danh tôi tạo ra một trang trên Facebook. Trên đó, chủ nhân của trang đăng những bức ảnh của tôi và đặt vào miệng tôi những phát ngôn như “Chỉ có những kẻ thiếu thông minh mới không hiểu lời tôi nói”. Khi tôi phát hiện ra trang này, nó đã thu hút được sự giận dữ và nhiều lời bình luân độc địa của những cư dân mạng tin rằng những câu nói kia thật sự là của tôi. Tôi loay hoay cả buổi tối tìm hiểu xem mình có thể làm gì trong trường hợp này, và phát hiện ra rằng hiện tượng ăn cắp danh tính rất phổ biến trên mạng xã hội. Những cố gắng thông báo lên Facebook của tôi tỏ ra vô vọng. Như tòa lâu đài của Kafka, Facebook hiện ra lừng lững nhưng không thể tiếp cận được. Tôi nhận được từ họ những lời khuyên đông lạnh gửi tự động: “Bạn không nên trả thù” (nhưng trả thù ai, kể cả khi tôi muốn?) và “Hãy tìm tới một người bạn có thể thông cảm với hoàn cảnh của bạn” và “Nếu cảm thấy nguy hiểm, hãy liên hệ với chính quyền địa phương, và nhớ chụp màn hình làm bằng chứng”.

Ngày hôm sau, trên trang đó lại xuất hiện một bức ảnh khác của tôi, đang diễn thuyết, đi kèm dòng chú thích: “Ai đó có thể trách tôi nhưng tôi nói đúng”.

Tôi còn nhớ cảm giác bất lực tuyệt đối lúc đó. Đó là cảm giác mình đánh mất sự kiểm soát con người, giọng nói, bản thể của mình. Mình trở thành một con rối, bị điều khiển bởi một cá nhân nằm trong bóng tối, trước một đám đông không hay biết gì về điều đó.

Nhà văn Tiệp Khắc nổi tiếng Milan Kundera kể lại câu chuyện về Jan Prochazka, một người đóng vai trò quan trọng trong Mùa xuân Praha năm 1968. Sau khi cuộc nổi dậy bị quân đội Liên Xô đàn áp, ông bị theo dõi lén chặt chẽ. Prochazka hay uống rượu và tán chuyện với giáo sư Vaclav Cerny, một người bất đồng chính kiến khác. Hai người chắc là biết mình bị nghe trộm nhưng mặc kệ. Nhưng một ngày, an ninh quyết định phát trên radio những cuộc nói chuyện mà họ thu âm lén được, nhằm bôi nhọ Prochazka. Nhiều năm sau, Milan Kundera viết lại: “Và ngạc nhiên chưa, chút nữa họ thành công; ngay lập tức Prochazka bị mất uy tín, vì khi riêng tư, con người ta nói đủ các thứ chuyên, bôi xấu bạn bè, dùng ngôn ngữ thô thiển, cư xử ngớ ngẩn, kể các chuyên tục tĩu, lặp đi lặp lại, pha trò bằng những chuyện kinh khủng, nói ra những ý tưởng dị dạng mà anh ta không đời nào thú nhận nơi công cộng, vân vân. Tất nhiên, chúng ta đều cư xử như Prochazka, lúc riêng tư chúng ta dèm pha bạn bè và dùng ngôn từ thô tục, việc chúng ta cư xử lúc riêng tư khác lúc ở nơi công cộng là trải nghiệm thực nhất với mỗi người, là nền tảng căn bản của cuộc sống của mỗi cá nhân; lạ lùng thay, thực tế này vẫn nằm trong vô thức, không được thừa nhận (...) và hiếm khi được hiểu như giá trị mà người ta cần phải bảo vệ hơn tất cả các giá trị khác. Chỉ có dần dần người ta mới hiểu ra (vì khi đó sự phẫn nộ của họ còn lớn hơn nhiều) rằng điều bê bối không phải là những phát ngôn bạo miệng của Prochazka mà là việc cuộc đời của ông ta bị hãm hiếp; họ nhận ra (như qua một cú điện giật) rằng riêng tư và công cộng là hai thế giới khác nhau về bản chất và sự tôn trọng sự khác biệt đó là điều kiện căn bản, không thể thiếu được, để một con người được tự do, rằng cái rèm ngăn cách hai thế giới này không thể bị giật xuống, và những kẻ giật rèm là những kẻ tội phạm.”144

Năm 1975, khi Milan Kundera rời khỏi Praha, nơi chính quyền lắp micro nghe lén khắp mọi nơi, và di cư tới Pháp, ông nhìn thấy trên bìa một tạp chí Pháp bức ảnh ca sĩ Jacques Brel đang che mặt chạy trốn các ống kính camera trước bệnh viện nơi ông ta chữa chạy ung thư. “Bỗng nhiên tôi hiểu rằng tôi đang gặp chính con quỷ đã khiến tôi phải chạy khỏi quê hương mình,” Kundera viết lại. “Phát trên radio các cuộc chuyện trò riêng tư của Prochazka, và săn ảnh một ca sĩ sắpchếtcó nguồn gốc từ cùng một thế giới (...) Khi việc xé toạc đời sống riêng tư của một con người được coi là quy tắc hay thói quen, chúng ta bước vào kỷ nguyên mà cái giá phải trả cao nhất chính là sự sống còn hay biến mất của cá nhân.”145

VẾT NHƠ ONLINE VÀ QUYỀN ĐƯỢC GOOGLE QUÊN

Ngày nay, bộ mặt vật lý của chúng ta chỉ được biết tới bởi một nhóm nhỏ: hàng xóm, đồng nghiệp, họ hàng, nhưng bộ mặt trên mạng của ta, những thông tin về ta, có thể được biết tới bởi hàng triệu người, xuyên biên giới, những người ta chưa bao giờ gặp. Nếu như ở thời phong kiến, người phạm chuẩn bị “thích” lên mặt, thì ngày nay, bộ mặt online của họ ra sao?

Theo các chuyên gia marketing, khi tìm trên Google, 90% người dùng mạng không nhấn vào trang thứ hai của danh sách kết quả, và chỉ ít hơn 1% nhấn vào trang thứ ba. Nói cách khác, bộ mặt trên mạng của chúng ta được định nghĩa bởi trang đầu tiên của Google.

Tôi đánh vào Google chữ “Nhâm Thị Hồng Phương”. Toàn bộ trang đầu tiên của kết quả tìm kiếm là các bài báo về Hồng Phương, người ăn cắp kính. Link đầu tiên là Cập nhật: Chân dung của hai người Việt Nam ăn cắp tại Thụy Sĩ. Dòng thứ hai là Nhâm Thị Hồng Phương: TRUY NÃ VIỆT GIAN TỘI PHẠM. Dòng thứ ba là hồ sơ công ty của Phương, với đầy đủ địa chỉ và số điện thoại. Dòng tiếp theo là Buồn vì những cái nhất thế giới của Việt Nam. Và tiếp tục như vậy tới cuối trang.

Sang trang thứ hai, tới một nửa các kết quả là về vụ ăn cắp kính ở Thụy Sĩ, trong đó có NGƯỜI VIỆT XẤU XÍ vì SAO NÊN NỖI và Thời đại huy hoàng hay thời đại ăn cắp?

Tiếp theo, tôi chỉ đánh ba chữ “ăn cắp kính” vào Google, không đi kèm với thông tin nào khác. Các kết quả hiện lên sau nửa giây chờ đợi. Tôi lướt nhanh và cuộn xuống dưới. 95% của cả hai trang dài dằng dặc đếu là các link dẫn tới câu chuyện của Hồng Phương và Tiến Dũng. Lạc lõng trong đó là câu chuyện ở một thành phố nhỏ của Ấn Độ, ở đó người ta khởi tố một con khỉ vì tội ăn cắp kính.

Thế còn hai bảo mẫu Đông Phương và Thiên Lý thì sao? Tôi đánh chữ “bảo mẫu” vào Google. Đây là một chữ trung tính, một nghề lao động bình thường như bao nghề khác. Người Việt nói gì khi họ nói tới “bảo mẫu”? Lần này, toàn bộ trang đầu tiên cũng lại là về vụ án liên quan tới hai bảo mẫu này.

Vậy là đã rõ, cư dân mạng đã “thích” vào những người như Hông Phương, Tiến Dũng, Đông Phương và Thiên Lý. Vết “thích” online còn khắc nghiệt hơn những hình phạt ngoài đời thời trước cách mạng. (May mắn cho cái Vịnh trong Khói lam chiều của Lưu Trọng Lư, hồi đó, những người ngoài làng không thể đánh tên nó trên mạng để biết được rằng nó đã từng chửa hoang.) Ngay cả trong Luật Hình sự của Việt Nam, người phạm tội sẽ được xóa án tích một số năm sau khi thực hiện bản án, và trở thành người không có tiền án tiền sự.

Nhưng Google không bao giờ xóa án tích, và nó cũng không quên. Với Google, quá khứ không tồn tại. Nếu trí nhớ con người là một cái hố lớn, những điều xảy ra trong quá khứ dần dần lắng đọng xuống dưới đáy, thì Google là một sa mạc bằng phằng, tất cả đều lộ trên bề mặt. Trên mạng, mọi thứ đều như mới xảy ra. Trong danh sách kết quả tìm kiếm về ai đó, một tin xảy ra tháng trước có thể nằm ngay trên tin khác về anh ta đã cách đây 10 năm. Đây là một tình huống hoàn toàn mới với con người. Một xã hội không quên là một xã hội vô nhân đạo. Thật trớ trêu, với một người ra tù 15 năm trước, vào thời điểm hiện nay quá khứ có thể còn đeo bám và khiến anh ta gặp khó khăn trong cuộc sống hơn là lúc mới ra tù, khi Internet còn chưa phổ biến. Bạn càng sống, quá khứ của bạn càng hiện hữu với những người xung quanh, bởi càng nhiều người trở thành công dân mạng. Ngày nay, nhớ lại dễ dàng hơn quên đi rất nhiều.

Trước kia, những cuộc chuyện trò, những cuộc gặp gỡ của một cá nhân có thể được tổ chức tình báo quốc gia ghi chép tỉ mỉ, nhưng nó chỉ nằm trong hồ sơ của họ, được tiếp cận bởi một số ít người. Ngày nay, nụ hôn của em gái bạn với cậu bạn trai có thể nằm trong điện thoại của toàn bộ xã hội, chỉ vì một ai đó thấy thích đưa cái clip đó lên mạng.

Năm 2010, Mario Costeja González, một luật sư Tây Ban Nha kiện ra tòa rằng mỗi lần ai đó google tên của anh, họ lại thấy bài báo về chuyện anh bị thu hồi một bất động sản vì không trả được nợ, mặc dù câu chuyện này đã xảy ra 12 năm trước. Bốn năm sau, Tòa Công lý của Hội đồng chung châu Au, một dạng tòa án tối cao cho cả 28 quốc gia thành viên của EU, phê chuẩn Google phải hủy bỏ cái link dẫn tới bài báo này, mặc dù nó tiếp tục được tồn tại trên trang mạng của tờ báo. Thông tin vẫn ở đó, nhưng chỉ có thể được tiếp cận bởi những người biết đích xác nó nằm ở đâu (qua địa chỉ bài báo). Những người khác, khi tìm tên Costeja Gonzalez sẽ không biết tới sự tồn tại của nó. Phán quyết của tòa có ý nghĩa lịch sử. Những công dân EU có quyền yêu cầu Google hủy bỏ đường link tới những thông tin “không thích đáng, không liên quan, hoặc mang tính chất quá đáng trong tương quan với mục đích của nó, khi xem xét quãng thời gian đã qua”.

Trong hai năm rưỡi qua, đã có hơn nửa triệu yêu cầu Google xóa tin bài. Google chấp thuận cho hơn 43% các trường hợp, và từ chối trong các trường hợp còn lại.145 Xóa hay không xóa, không phải lúc nào câu trả lời cũng đơn giản, nhưng nguyên tắc ra quyết định dựa trên những câu hỏi “Dư luận có quyền biết về chuyện này không? Với dư luận, thông tin này có quan trọng không (ví dụ tư dinh đồ sộ của một chính trị gia) hay nó chỉ thú vị (phát ngôn của một hoa hậu khi còn là học trò)?” Liệu công luận có thực sự cần biết tên và ảnh cận cảnh của một nạn nhân tai nạn giao thông? Mặt mũi những đứa con của kẻ bị kết tội giết người?

Đây là một số ví dụ của các yêu cầu mà Google nhận được và xử lý. Từ chối: Một quan chức cấp cao Hungary yêu cầu xóa thông tin liên quan tới một vi phạm hình sự của ông ta đã xảy ra hàng thập kỷ trước. Từ chối: Một doanh nhân lớn ở Ba Lan yêu cầu xóa thông tin liên quan tới một vụ kiện giữa ông ta và một tờ báo. Chấp thuận: một nạn nhân hiếp dâm Đức yêu cầu xóa bài liên quan tới vụ việc này. Chấp thuận: một người Bỉ yêu cầu xóa tin liên quan tới một cuộc thi mà người này tham gia khi còn vị thành niên.

EU không phải là những quốc gia duy nhất nhận ra sự lạnh lùng vô nhân đạo của công nghệ. Cuối năm 2015, một tòa án ở Nhật Bản yêu cầu Google gỡ tin về một người đàn ông cách đây ba năm bị phạt nửa triệu yên (khoảng 70 triệu VND) vì những vi phạm liên quan tới sách báo khiêu dâm.146 Theo người phát ngôn của tòa, mỗi cá nhân cần có cơ hội để xây dựng lại cuộc đời mà không phải mang theo mãi mãi gánh nặng của quá khứ lỗi lầm của mình.

Quyền riêng tư, đó không những là quyền “được để yên”, mà còn là quyền được quên. Nó là quyền được phủ tầm màn của sự im lặng lên trên quá khứ.

PHẦN 5

TA NÓI Gì KHI NÓI VỀ THA THỨ

Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?

Tội lỗi và trừng phạt và...

Ta nói gì khi nói về tha thứ: Cứu rỗi đến với ai?

Ta nói gì khi nói về tha thứ: Chỉ có ở con người

Nhân phẩm đáng giá bao nhiêu?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3