Mùa mưa ở Singapore - Chương 33-34-35
Chương 33
Hôm nay là ngày nghỉ lễ, bọn trẻ không phải đến lớp vẽ. Tôi dậy từ rất sớm, khu phố Tàu vào thời khắc này mang cái vẻ yên ắng, cô quạnh như những cây sầu đông bị bỏ hoang, các ki ốt được phủ bạc trắng xóa, nằm im lìm như đã bị niêm phong, vài ba giọt mưa rả rích, lại sắp bắt đầu mùa mưa rồi. Gió sớm mai bỗng làm tôi lạnh tê cả người. Cha bật ti vi, tiếng hát lanh lảnh của mấy cô gái làm cơ thể tôi như chùng hẳn xuống, tự hỏi tại sao những bài hát Trung Hoa hay làm lay động người ta nhất lại buồn đến thế? Tôi nhóm lò, vốc những vốc lá trà bỏ vào nồi, bắt đầu đun. Tôi hơ hai bàn tay trước ngọn lửa hồng, rồi áp lên hai má. Khói bay lên, hương sắc bay lên. Ngày xưa, mỗi sáng trước khi ra khỏi nhà, bao giờ mẹ cũng đun sẵn một bình trà để lại. Những lúc ngồi trước bếp lửa một mình thế này, trong khi hai cha con vẫn đang chìm trong giấc ngủ, chẳng hiểu mẹ đã nghĩ gì?
Tôi bắt đầu những tách trà đầu tiên bằng suy nghĩ về mẹ. Tôi không muốn lặp lại cái việc này nhiều đến vậy, việc đã nghĩ về mẹ, không hẳn là nỗi nhớ, đó là sự ám ảnh lớn dần theo năm tháng và nhận thức của một đứa con gái. Cảm thông nhiều và đau xót cũng nhiều. Thân phận phụ nữ thật xót xa biết nhường nào.
Cây đàn tranh vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong buồng ngủ của tôi. Tôi lại đụng đến nó, có một bài ca quen thuộc, lâu lắm rồi chẳng muốn chơi, chẳng hiểu sao sáng nay lại muốn gảy lại, giờ chẳng có giọng ai đó cất lên theo tiếng đàn nữa, thôi tự hát ca cho lòng mình vào một sớm mai…
“Trái tim của hoa nấp trong nhụy, bỏ quên cả một mùa hoa nở.
Trái tim em đã quen bốn mùa, không dễ để người đời hiểu.
Sao không nắm tay nhau nghe bài ca của nhật nguyệt?
Hết đêm lại đến ngày, đời người là mấy chốc?
Xuân đi xuân lại quay về
Hoa tàn rồi hoa lại nở
Chỉ cần em đồng ý,
Ta sẽ đưa con thuyền mộng đến bến bờ trái tim em.”
Ngày trước, Di vẫn thường hát bài ca này…
Nhưng chuyện nhân thế ở đời… Xuân đi là mang theo những ái ân chẳng thể nào quay về, hoa tàn nghĩa là tan thành cát bụi. Con thuyền ấy, đành vỡ mộng trước một bình minh… Tôi sẽ không bao giờ chơi lại khúc nhạc này…
Gần trưa, Thúy Quỳnh gọi điện, bảo muốn gặp tôi. Tôi lại hẹn cô đến nhà. Tôi đun lại nồi nước trà. Cô ấy uống xong cốc đầu tiên, miệng nhoẻn cười như một đứa trẻ:
- Thơm quá. Vị trà ngon quá.
- Trà Long Tỉnh đấy. Loại trà này rất nổi tiếng. – Tôi bảo.
- Không hiểu sao, nói chuyện với bạn, nhìn thấy bạn, tôi lại thấy bình an hơn. – Quỳnh chợt hạ giọng, mặt hơi cúi xuống.
- Quỳnh đang có tâm tư gì đúng không? – Tôi hỏi.
- Tâm tư ư? Sao dùng từ nhẹ nhàng thế.
- Nếu bạn không ngại chia sẻ, có thể nói với tôi tất cả cho nhẹ nhõm. Tôi tin là bạn cũng chưa từng nói với ai về những câu chuyện của cuộc đời mình.
Quỳnh ngã người ra sau ghế, mắt nhắm nghiền lại, bỗng buông lửng:
- Mọi thứ trần trụi, bạc bẽo và lạnh lẽo quá, chẳng ích chi đâu…
- Quỳnh có uống được rượu không? – Tôi hỏi.
- Sao cơ? Bạn định mời tôi uống rượu sau khi uống trà đấy à? – Quỳnh bật cười.
- Không. Nếu bạn uống được, đêm nay hay đêm mai ta sẽ cùng nhau uống, ở ngay chùa gần đây thôi. Ở đấy có khuôn viên rất đẹp.
- Thú vị đấy. Được, tối mai tôi sẽ đến.
Chúng tôi ngoéo tay hứa hẹn. Quỳnh quay về. Tôi không biết liệu những cốc trà và lời mời vào đêm mai của tôi có làm cô ấy khá lên chút nào không? Tôi đang thấy cô ấy rất nặng nề, và cô ấy đã tìm đến tôi. Cái duyên và những nỗi niềm u hoài khiến chúng tôi vô tình trông thấy nhau.
Caleb nhắn tin: “Một ngày trống trải. Không có Tuyên và bọn trẻ.”
“Nhưng có Bắc Kinh.” – Tôi trả lời.
“Nó chỉ quan trọng nếu vì một người…”
“???”
“Có muốn đi cùng tớ không?”
“…”
“???”
Chương 34
Gió tháng Tám mát rượi. Mùa mưa ở Singapore thật rất dễ chịu, mưa đi qua từng ngày, xối xả trong chốc lát, trắng xóa cả một khoảng trời, và dịu lại trong tiếng run rẩy của lá cây, mùi đất nồng ướt át, và cả những làn khói MB27 bay lên yếu ớt, mỏng manh, hòa lẫn vào gió trời.
Con phố Orchard bỗng vắng người đi bộ qua lại, mà tôi thì chỉ thích xuống phố trong cảnh vắng lặng. Có những người đã trách cứ cuộc đời vì không biết làm gì giữa một chiều mưa thế này…
“… What I’ve felt. What I’ve known. Never shined through in what I’ve shown. Never free. Never me. So I dub the Unforgiven…”
Một anh bạn, mái tóc dài xoăn tít, cột thành đuôi ngựa ở phía đằng sau, đang say với con Jeff Hanneman màu đen trắng, họa tiết da báo, trông rất độc đáo. Tất nhiên là không phải vì cây đàn guitar của anh mà tôi dừng lại, mà vì những ca từ cả “The Unforgiven”, và chất giọng khàn đặc biệt đang vang lên. Có một thời tôi cũng suốt ngày nhốt mình trong phòng, và để Metallica gào đi gào lại bài hát này đến nỗi tưởng chừng như thiêu đốt cả chiếc laptop. Nhưng bây giờ thì anh bạn kia làm tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn khi nghe lại những giai điệu cũ, mặc dù ca từ của nó thật đau khổ và đầy bất lực. Ở giữa khu mua sắm Orchard, hiện đại và sầm uất, anh ta biểu diễn ở một khoảng đất trống, anh ta gảy đàn và lắc lư cái đầu như khong nhìn thấy một ai xung quanh, bên cạnh là là một ca gái, cô ấy mặc chiếc váy bô hê miêng dài màu xanh lá cây, ngồi vắt vẻo trên ghế cao, trước mặt là bộ trống, cơ thể cô nhún nhẩy, đung đưa qua lại, và tay gõ liên tục lên các mặt trống. Và ở phía trước mặt cả hai người là một thùng sắt nhỏ, phơi bày những tờ tiền nhỏ lẻ của những vị khách có chút ân tình để vào. Tôi bắt đầu hòa tan cả cơ thể và tâm trí mình vào cái trò kiếm tiền đầy mê hoặc này. Tôi thuộc hết lời các ca khúc của Metallica. Cái thứ âm nhạc mà mẹ tôi bảo chỉ toàn là gào thét và chẳng thể nào hiểu nổi. Giờ đây, với con Jeff Hanneman, anh bạn kia đã làm “The Unforgiven” trở nên nhẹ bẫng. Cơ thể tôi bắt đầu bị dao động, miệng tôi lẩm bẩm theo ca từ bài hát, cả tâm trí tôi đã bị hòa tan vào khoảnh khắc này. Đó có lẽ sẽ trở thành thời khắc tuyệt nhất trong ngày, nếu như giữa đám đông đang tò mò và thích thú bởi anh bạn này, tôi không vô tình nhìn thấy… một đôi mắt nhỏ. Đôi mắt ấy, hơi xếch và buồn đến lạ lung, đứng cách xa tôi chỉ dăm bảy người. Không gian như ngưng lại. Thời gian không tồn tại. Đôi mắt nhỏ, bỗng lùi ra sau, và biến mất. Cô họa sĩ ở Chinatown, cô ấy không nhìn thấy tôi. Đáng lẽ tôi nên chạy theo. Sự hồi hộp đã chặn đứng những mong muốn tối thiểu của tôi với cô gái.
Tối đến, hình ảnh khu Chinatown lại hiện ra. Câu chuyện về bức tranh dang dở ấy lại làm tôi khắc khoải. Tôi cứ hình dung lại gương mặt cô họa sĩ với một nỗi niềm mà chẳng thể lý giải nổi tại sao. Có lẽ tôi nên quay lại nơi đó một lần nữa chăng?
Chương 35
Bọn trẻ con ở trung tâm lũ lượt kéo nhau đi về. Tất thảy bố mẹ chúng đều hỏi tôi về những bức tranh được tạo nên từ những ngón tay nhỏ xinh, và non nớt. Tất thảy họ đều tin con mình sau này sẽ trở thành những họa sĩ tài năng. Mẹ ngày xưa cũng có một niềm tin với tôi như vậy… Một ngày dài với bọn trẻ đã kết thúc. Bãi cỏ ở khu Mandarin Gardens mượt mà, xanh êm như một tấm thảm nhung, đó là chỗ tôi có thể thả mình xuống thoải mái sau mỗi chiều tàn, hoàng hôn chưa kịp đến, nhưng đã kịp mang bọn trẻ đi mất. Tôi nằm bất động, và thường ngẩng cao mặt, trơ trọi với cả một bầu trời rộng lớn. Những suy nghĩ mông lung, ngổn ngang, và cả những day dứt khó hiểu, rồi cuối cùng bao giờ cũng kết thúc ở hình ảnh khu phố Tàu với những bức chân dung, nó khiến tôi phải uể oải bật người dậy. Lắm lúc tôi mong có thể làm bất động không gian và thời gian. Caleb đến, cậu ấy nằm xuống ngay bên cạnh, tôi không nhìn Caleb, nhưng tôi biết cậu ấy đang mỉm cười nhẹ nhàng.
- Tối nay tớ lại lại thích đến xem Tuyên vẽ. – Caleb nói.
- Sẽ chán lắm đấy. – Tôi trả lời.
- Với tớ, bất cứ thứ gì liên quan đến Tuyên chưa bao giờ chán cả.
- Tối nay vẽ xong, tớ có hẹn uống rượu với một người bạn ở sau chùa.
- Ai thế?
- Một cô bạn rất xinh và khá đặc biệt.
- Đặc biệt giống Minh Tuyên không?
- Không. Tớ chẳng là gì cả.
Tôi nhìn đồng hồ và ngồi bật dậy, tay ôm tập tranh đung đưa trước người, chào Caleb trong tiếng vi vu của gió chiều tháng Tám.
- Chào cậu nhé. Tối cậu thích thì cứ đến. Nhưng đừng làm phiền khi tớ làm việc.
Caleb lại nhoẻn miệng cười, lần này cậu ấy cười rất tươi, hai lúm đồng tiền tròn xoe như đồng hai mươi cent. Con đường Siglap dịu dàng trong màu xanh của cây, cỏ và những ngọn đồi nho nhỏ bao quanh những khu nhà cao tầng hiện đại.
Tôi không về Chinatown ngay, mà lại tự đưa mình đến trung tâm Orchard, đây vốn là nơi không dành cho tôi, mỗi lần đến lại thấy mình lạc long ít nhiều. Chiều nay chẳng hiểu sao lại thích được lạc lõng như vậy. Những cửa hàng thời trang với những món đồ đắt tiền, được trưng bày qua những tấm gương phản chiếu lấp lánh. Tôi sẽ trông thế nào trong những thứ ấy nhỉ? Chắc là sẽ rất lố bịch. Mẹ ngày xưa cũng rất đẹp với những bộ quần áo rẻ tiền.
Tiếng hát của một anh chàng nào đó vang lên làm tôi phải để ý và tiến dần đến cái đám đông trông rất hào hứng và sôi động, đang đứng quy tụ vào với nhau. Anh chàng cột tóc đuôi ngựa và cô gái mặc váy bô hê miêng, hình như lần nào tôi đến đây, cũng thấy họ biểu diễn. Bình thường cặp đôi này hay hát những ca khúc tiếng Anh bất hủ rất hay, hôm nay lại đổi phong cách, tôi chẳng thích thể loại này, mà thật ra tôi chỉ thích những bài hát Trung Hoa cổ, nó gắn liền với tôi từ nhỏ, từ khi có mẹ, rồi mất mẹ, rồi đi vẽ tranh, rồi… lạc loài như bây giờ.
Con đường về thật cô đơn. Chinatown tối nay có gì thú vị hơn không? Tôi sẽ vẽ gương mặt của những ai? Gió chiều tháng Tám, rơi lạc lõng một góc phố Orchard…