Đức Phật và Nàng p1 - Chương 29 - 30

Chương 29: Sự phẫn nộ của Pusyse­da

 

Tôi ngắt từng cánh hoa, đi, không đi, đi, không đi, cánh hoa cuối cùng: Không đi. Bỏ qua, bỏ qua, không tính, không tính, tôi ngắt một bông hoa khác, lần này kết quả khả quan hơn: Đi! Tốt rồi, đó là ý trời, nào thì đi!

 

Tôi đã quyết định có đến chùa Cakra vẽ tranh hay không bằng cách như thế đó. Vừa tới nơi, mắt tôi như thiết bị dò tự động, quét qua các góc cạnh để tìm kiếm bóng dáng ấy, tìm thấy rồi, hai má tự nhiên nóng bừng, lại cắm cúi làm việc. Cánh tay băng bó co duỗi khó khăn, chỉ vẽ được một lát là phải nghỉ. Đang vẽ vẽ xóa xóa thì một chú tiểu xuất hiện với cốc nước và một mảnh giấy, trên đó là những chứ Hán rất đẹp: “Vết thương chưa lành, đừng nên vẽ nữa”.  Niềm vui như ngọn lửa sưởi ấm cõi lòng tôi. Tôi ngẩng lên, Ra­ji­va đang trò chuyện với sư phụ Band­hud­da­ta trên đại điện, ánh mắt ơ hờ khẽ lướt về phía tôi, thấy tôi cầm mảnh giấy trên tay, cậu ấy lại bình thản tiếp tục câu chuyện.

 

Tôi không còn tâm trí để vẽ tiếp, kỷ niệm ngày đầu Ra­ji­va đưa tôi đến tham quan ngôi chùa này ùa về, tôi muốn dạo quanh một vòng. Vừa bước đi vừa nhớ lại biểu cảm và những lời cậu ấy nói khi đó, bất giác mỉm cười. Những hồi ức ngọt ngào đủ để tôi nhâm nhi hết một ngày dài.

 

Tôi chỉ trở về căn nhà nhỏ khi Ra­ji­va kết thúc giờ tụng kinh chiều muộn. Buổi tối cậu ấy sẽ tới, vì cánh tay tôi vẫn cần được chăm sóc. Tôi có nên nghĩ cách làm cho vết thương ấy phục hồi chậm lại một chút không? Vì như thế, tôi sẽ khỏi phải ủ dột khi nghĩ đến ngày tháng li biệt sắp tới. Mặc dù tôi biết rằng trước sau gì cũng phải ra đi, nhưng có thể chậm ngày nào tôi sẽ biết ơn ngày đó. Sếp ơi, xin thầy đừng trách em, khi trái tim phụ nữ đã rung động thì lí trí đâu còn chỗ trú chân.

 

Vừa về đến cổng đã thấy một cỗ xe ngựa, tôi chớp mắt nhìn cho kĩ, phù hiệu gắn trên cỗ xe rất quen. Ai đó xuất hiện từ phía sau xe, dáng người cao lớn, gương mặt khôi ngô tuấn tú, mặc một bộ quân phục màu đen, viền vàng lấp lánh, eo thắt một chiếc đai thêu kim tuyến, sau lưng dắt một thanh kiếm dài. Đàn ông mặc quân phục tỏa ra sức hấp dẫn thật kì lạ, có thể đánh bại bất cứ đối thủ cùng giới nào. Nhưng khuôn mặt này có điều gì đó rất lạ.

 

- Pusyse­da?

 

Tôi kinh ngạc kêu lên.

 

- Sao cậu lại đến đây?

 

Pusyse­da lạnh lùng nhìn tôi, hồi lâu mới cất tiếng:

 

- Đến đón chị về phủ.

 

Giọng nói lạnh như băng khiến tôi rùng mình.

 

- Tôi đã hẹn mười ngày sẽ về mà.

 

Tôi bước lại gần, quan sát kỹ khuôn mặt ấy.

 

- Xảy ra chuyện gì vậy?

 

- Cha tôi muốn gặp chị.

 

Pusyse­da quay mặt đi, né tránh.

 

- Cha tôi… từ lúc biết tin của mẹ, đã không ngừng thổ huyết…

 

Tôi hoảng hốt:

 

- Ra­ji­va có biết không? Cậu đã đến chùa chưa? Đi nào, chúng ta phải thông báo ngay cho cậu ấy.

 

Tôi kéo tay Pusyse­da nhưng cậu ta không hề động đậy, ánh mắt chăm chăm nhìn bàn tay tôi, một tiếng cười nhạt bật ra:

 

- Cần gì phải đến chùa, tối nào anh ta chẳng về đây.

 

- Cậu…

 

Tôi sững người, cậu ta biết rồi ư!

 

- Mava­su đã nói hết với tôi. Thì ra chị đã trở về được ba tháng rồi và ba tháng ấy chị luôn ở bên Ra­ji­va.

 

Pusyse­da đột ngột kéo tôi sát lại, cánh tay cứng như thép bóp chặt vết thương của tôi, tiếng kêu đau đớn của tôi không khiến cậu ta bận tâm. Cậu ta ép sát tôi vào ngực mình, đổ người lên khuôn mặt tôi, sắc diện u ám, nghiến răng gầm gào:

 

- Anh ta giấu chị ở đây, định bụng học theo Hán Vũ Đế “lầu son giấu người đẹp” chứ gì? Một vị cao tăng đại đức như anh ta mà cũng chẳng thể kháng cự được sức quyến rũ của đàn bà! Thật nực cười, thế mà tôi vẫn nghĩ chị chưa bao giờ đụng đàn ông. Không ngờ, từ lâu đã bị kẻ đạo đức giả ấy chiếm đoạt rồi!

 

- Pusyse­da, cậu không được ăn nói xằng bậy!

 

Tôi nổi cơn thịnh nộ, định dùng cánh tay còn lại cho cậu ta một cái tát, nhưng đã bị giữ chặt, tay tôi như muốn lìa ra. Càng ra sức vùng thoát, cơn đau buốt, nhức nhối càng dữ dội. Nước mắt trào ra, tôi kêu gào:

 

- Buông tôi ra! Cậu không được phép lăng mạ Ra­ji­va! Chúng tôi hoàn toàn trong sạch…

 

- Trong sạch ư?

 

Pusyse­da cướp lời tôi, ánh mắt dữ dằn, khuôn mặt như biến dạng.

 

- Được thôi, bây giờ chúng ta sẽ lên giường, hãy chứng minh cho tôi thấy chị vẫn là một trinh nữ.

 

Cậu ta lôi tôi đi về hướng căn phòng, cánh tay phải thoát khỏi gọng kìm, tôi bám chặt lấy cột chống hiên nhà, kiên quyết không thả ra. Giây phút ấy tôi vô cùng khiếp sợ, vì xưa nay chưa từng thấy Pusyse­da dữ tợn như vậy. Cậu ta mà làm tới, tôi chẳng thể chống cự nổi.

 

- Buông ra! Vì sao tôi phải chứng minh bằng cách đó? Cậu không đủ tư cách ép buộc tôi!

 

Cánh tay phải của tôi như sắp gãy, vết thương nhức buốt khiến tôi không còn sức để bám vào cột nhà nữa. Nhưng nếu tôi đầu hàng, thật không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo! Cậu ta như đã mất hết lí trí. Tôi vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết:

 

- Pusyse­da, cậu điên rồi. Lẽ nào cậu muốn tôi phải căm ghét cậu?

 

Vợ chồng Mava­su đều chạy ra, kinh hãi đứng bên, hết lời khuyên nhủ Pusyse­da. Pusyse­da thấy tôi nhất quyết không chịu buông cây cột, liền quay người, túm chặt hai tay tôi, cơ thể cường tráng áp sát lên thân thể tôi.

 

- Tư cách hả?

 

Pusyse­da nhếch môi cười, một tay nắm chặt hai tay tôi, một tay thô bạo túm cằm tôi, đẩy gương mặt lên đối diện với đôi mắt của cậu ta.

 

- Tôi điên dại bám lấy chị bao nhiêu ngày qua. Không biết là chị quá ư xuẩn ngốc hay quá ư thông minh nữa? Với anh ta thì được, với tôi thì không ư? Mở miệng ra là trong trắng, cao thượng, sách vở, nào là cuốn hút nào là yêu thương nào là gắn bó, thế nhưng chị đã không ngại “ra tay” quyến rũ cả hòa thượng nức danh Tây vực. Giờ còn giả bộ trong trắng, thuần khiết ư?

 

- Sao cậu dám xỉ nhục tôi? Tôi hoàn toàn trong sạch, tôi không trác táng như cậu, lúc nào cũng chỉ muốn lên giường với phụ nữ. Mối quan hệ giữa tôi và Ra­ji­va, một kẻ thô thiển như cậu không bao giờ có thể hiểu được.

 

Tôi gào lên trong nước mắt, cánh tay bị thương như sắp rời bỏ thân thể, tôi đau đớn tê dại.

 

Pusyse­da toan lên tiếng, bỗng dừng lại, ánh mắt lạnh lùng lướt qua cánh cổng, khóe môi thoáng qua một tia cười gi­an manh, bất chợt nghiêng đầu về phía tôi. Trong hỗn loạn đau đớn và sợ hãi, một vật thể mềm ướt trùm lên môi tôi, đầu óc tôi trống rỗng…

 

Pusyse­da gan lỳ o bế, đòi tách đôi môi đang cố mím chặt của tôi ra, đầu lưỡi đưa đẩy hít hà trên môi tôi, tìm đường xông tới. Tôi dặn lòng phải khép môi thật chặt, nhưng một cơn đau nhói ở môi dưới khiến tôi rụng rời, cậu ta cả gan cắn tôi! Phản xạ tự nhiên của tôi là lập tức hé miệng, Pusyse­da đột nhập, đầu lưỡi ẩm ướt của cậu ta quần đảo trong miệng tôi, tìm kiếm, săn đuổi đầu lưỡi tôi đang trở nên bất lực đến tội nghiệp.

 

- Cậu cả!

 

Tiếng Mava­su. Tôi rùng mình, trời ơi, Ra­ji­va đến rồi! Cậu ấy đã nhìn thấy! Tôi vắt kiệt sức tàn, cố gắng vùng thoát, nhưng vô ích. Trong cơn quẫn bách, tôi cắn Pusyse­da, cậu ta kêu lên một tiếng, nhả tôi ra, một tay ôm lấy miệng, tay kia vẫn giữ chặt hai tay tôi. Chùm tia vằn vện tức tối trong mắt nhạt dần, nụ cười khó hiểu trồi trên khuôn mặt, ánh mắt thách thức, khiêu khích hướng ra ngoài sân.

 

Tôi quay đầu, nhìn thấy Ra­ji­va đang đứng như trời trồng giữa sân, sắc mặt tái nhợt. Pusyse­da gào lên một câu tiếng Phạn, toàn thân Ra­ji­va rung động, sắc mặt càng trở nên thảm hại.

 

- Buông tôi ra!

 

Tôi nổi trận lôi đình, trong đời mình, chưa bao giờ tôi phải chịu sự lăng mạ thế này, tôi không thể nhẫn nhịn được nữa:

 

- Pusyse­da, đến bao giờ cậu mới chịu lớn hả? Cha cậu đang hấp hối trên giường bệnh, vậy mà cậu vẫn còn tâm trạng giở trò ở đây à?

 

Khuôn mặt Pusyse­da đột nhiên biến sắc, dần buông cánh tay đang khóa chặt lấy tôi. Ra­ji­va sải bước đến trước mặt cậu ta, giật tay Pusyse­da ra khỏi người tôi, đứng chắn ngang giữa chúng tôi, giọng nói thảng thốt:

 

- Cha sao rồi?

 

Quầng mắt Pusyse­da đỏ hoe, cúi thấp đầu, vẻ mặt đau khổ:

 

- Thầy thuốc bảo… rất nguy kịch…

 

Ra­ji­va chắn trước mặt tôi, không nhìn thấy vẻ mặt, chỉ thấy tấm lưng của cậu ấy đang rung động. Pusyse­da đột nhiên xông tới, túm lấy cổ áo Ra­ji­va, cất lời chì chiết:

 

- Tất cả là tại anh! Anh thừa biết cha đang yếu, vì sao vẫn báo tin mẹ mất?

 

Ra­ji­va im lặng, tôi thấy bất bình.

 

- Pusyse­da, thôi đi!

 

Tôi chạy đến bên họ, ra sức gỡ cánh tay Pusyse­da đang khóa chặt Ra­ji­va.

 

- Bây giờ là lúc tranh cãi chuyện này hay sao? Việc cần kíp trước mắt là phải nhanh chóng về phủ.

 

Tôi ngừng lại, nhìn hai anh em họ, tâm trạng nặng nề.

 

- Tôi không muốn hai người hao phí thời gi­an vào cuộc tranh chấp vô nghĩa này, để rồi ngày sau phải ân hận…

 

Họ như bừng tỉnh sau cơn mê, Pusyse­da buông tay. Tôi nhẹ nhàng đến bên Ra­ji­va:

 

- Ra­ji­va, cậu có cần chuẩn bị gì không?

 

Ra­ji­va rầu rĩ lắc đầu, tôi hạ lệnh:

 

- Vậy thì chúng ta sẽ khởi hành ngay, chừng nửa đêm là tới nơi.

 

- Chờ đã!

 

Ra­ji­va bước nhanh vào phòng. Lúc trở ra, cậu ấy cầm trên tay một túi đồ nhỏ.

 

- Đi thôi!

 

Ba chúng tôi yên lặng trên xe. Pusyse­da muốn ngồi cạnh tôi, nhưng tôi bỏ sang ngồi phía đối diện. Ra­ji­va lên sau, quan sát một lát, rồi lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh em trai.

 

Cỗ xe lăn bánh, Ra­ji­va mở gói đồ, tôi lặng người. Bên trong có thuốc bôi ngoài da, rượu thuốc và vải sạch.Lúc này tôi mới nhớ đến cánh tay nóng rát của mình, vết máu loang lổ tay áo. Tôi gắng gượng dùng tay trái đỡ lấy tay phải, cơn đau buốt ập đến, khiến tôi kêu bật thành tiếng.

 

- Ngải Tình, tay chị sao vậy?

 

Từ lúc lên xe, Pusyse­da ngượng ngập không dám nhìn tôi, nhưng khi nghe tiếng tôi kêu, cậu ta đột nhiên nắm chặt cánh tay tôi, định vén tay áo lên kiểm tra. Tôi không muốn cậu ta chạm vào người mình thêm nữa, cố sức rút tay ra, nhưng càng ra sức, vết thương càng nhức buốt tưởng như không thở nổi, tôi rên rỉ.

 

- Khi nãy tôi đã không phải, tôi cũng không biết mình làm sao nữa, tôi không nên xử sự như vậy.

 

Tôi kêu đau, cậu ta liền buông tay. Không gi­an trên xe quá ư chật hẹp, Pusyse­da gần như quỳ trước mặt tôi, ánh mắt nhìn tôi vừa xót xa vừa ân hận.

 

- Cho tôi xem vết thương của chị được không?

 

Tôi thờ ơ không đáp, tự mình vén cao tay áo, hai anh em họ đồng thanh thốt lên một tiếng kêu nhỏ. Máu đã thấm đẫm lớp vải quấn bên ngoài. Trời ơi, nếu cứ tiếp tục thế này, cánh tay tôi hỏng mất!

 

Tôi cắn răng, tháo lớp vải quấn, Pusyse­da muốn giúp, tôi vung tay né tránh, cánh tay đập vào thành xe, cơn thống khổ đẩy nước mắt tuôn lã chã. Một cánh tay gầy guộc nhẹ nhàng vươn ra, đỡ lấy tay tôi. Không một lời, cậu ấy chỉ lặng lẽ, chậm rãi, thận trọng gỡ lớp vải bọc trên vết thương của tôi, Tôi thư thái tận hưởng sự chăm sóc dịu dàng ấy, tâm trạng trở nên nhẹ nhõm hơn, nỗi đau thuyên giảm.

 

Lớp vải cũ được gỡ xuống, Pusyse­da hốt hoảng. Vết thương há miệng rất rộng, nhiễm trùng nghiêm trọng, vệt máu sẫm đỏ. Ra­ji­va cầm chai rượu thuốc trên tay, tôi cắn răng quay đầu không nhìn. Cơn đau đớn, buốt xót làm tê tái tim gan, mình mẩy, dù đã gắng sức kìm chế, tiếng kêu thê thảm vẫn rung lên trong cuống họng. Tôi nắm chặt tay trái, móng tay như cắm sâu vào da thịt. Một bàn tay giá lạnh ôm lấy cánh tay tôi, tôi gắng gượng nhìn lên, bắt gặp nỗi hoảng sợ trên gương mặt Pusyse­da.

 

- Ngải Tình, chị bị thương khi nào vậy? Sao tôi không hề hay biết?

 

Tôi không đáp, mắt nhắm chặt, ngã lưng vào thành xe. Rượu thuốc lành lạnh liếm trên vết thương, giúp tôi hạ nhiệt cơn bỏng rát. Bàn tay Ra­ji­va nhẹ nhàng phủ từng lớp vải mới lên cánh tay tôi, từ lúc bắt đầu cho tới khi kết thúc, cậu ấy hoàn toàn thinh lặng.

 

Trời sẫm tối, khí lạnh thổi vào trong xe, tôi co người lại. Pusyse­da vẫn chưa ngớt lời xin lỗi, bất giác tôi cảm thấy mỏi mệt vô hạn, không phải nỗi nhọc mệt thể xác mà là tinh thần.

 

Sự điên cuồng của Pusyse­da ngày hôm nay khiến tôi nhận ra, không biết từ khi nào cậu ta đã có ý với tôi. Nhưng tôi không thể đáp lại tình cảm của cậu ta, tôi không thể đáp lại tình cảm của cả hai anh em họ…

 

- Pusyse­da…

 

Nếu tôi không ngắt lời, chắc là cậu ta sẽ xin lỗi cả đêm.

 

- Tôi tha thứ cho cậu…

 

Bóng đêm bao phủ, không nhìn rõ gương mặt cậu ta, nhưng trong giọng nói đã lộ rõ niềm vui. Tôi điềm nhiên:

 

- Về thăm cha cậu, nếu ông không có gì đáng ngại, vài ngày nữa tôi sẽ theo đội thương nhân đến thành phố Taqian của Ban Siêu, sau đó sẽ đi Trường An.

 

- Chị…

 

Tay trái tôi bị nắm chặt, giọng Pusyse­da hốt hoảng:

 

- Chị vẫn muốn ra đi ư?

 

- Tôi có kế hoạch của riêng mình, không thể ở lại Khâu Từ.

 

Tôi muốn bứt tay ra, nhưng cậu ta ngoan cố kìm chặt. Tôi gắng dùng sức, cậu ta mới nhả tay.

 

- Ngải Tình…

 

- Pusyse­da, tôi rất mệt…

 

- Ngải Tình, chị mệt thì dựa vào vai tôi mà ngủ.

 

- Pusyse­da, xin cậu, ít nhất là hôm nay, đừng đụng vào tôi nữa…

 

Tiếng vó ngựa lạc lõng vang trên đường. Tôi không nhìn rõ gương mặt Ra­ji­va, từ lúc lên xe đến giờ, cậu ấy không hề lên tiếng, kể cả lúc băng bó cho tôi. Như vậy cũng tốt, nhìn thấy, nghe thấy có khi lại khiến tôi động lòng. Ba chúng tôi im lặng hòa mình vào bóng đêm…

 

 

 

Chương 30: Nỗi mất mát

 

Bước chân vào phòng Ku­marayana, không gi­an nồng nồng hơi thuốc. Chúng tôi trở về phủ quốc sư đã hơn mười ngày, bệnh tình của Ku­marayana không hề thuyên giảm. Mỗi ngày ông đều thổ huyết, hôn mê bất tỉnh nhiều lần. Pusyse­da túc trực bên cha cả ngày lẫn đêm, cậu ta gầy rộc đi trông thấy. Ra­ji­va cũng ngày ngày cận kề bên giường cha, chăm sóc ông và tụng kinh cho ông. Hai anh em họ bận bịu tới mức không còn tâm trí để ý đến tôi nữa, điều đó khiến tôi thấy thoải mái hơn. Tôi không thể ra đi lúc này, tôi phải góp sức giúp họ chăm sóc Ku­marayana.

 

- Quốc sư…

 

Tôi ghé sát bên giường Ku­marayana, ông héo hon, tàn tạ đến thương tâm, trên người ông, dường như chỉ còn đôi mắt màu xám nhạt là nơi duy nhất toát ra sự sống.

 

- Cô Ngải Tình đến đấy à?

 

Ông khẽ gật đầu, gượng dậy, tôi vội vàng đến bên, chèn gối tựa sau lưng ông, bàn tay chạm phải thân hình da bọc xương của ông, trong lòng bỗng dâng lên nỗi chua xót!

 

- Cô Ngải Tình hẳn là rất bất ngờ khi ta muốn trò chuyện riêng với cô, đúng không?

 

- Vâng, một chút ạ.

 

Tôi thành thật thừa nhận. Không hiểu sao, tôi luôn có cảm giác ông giống như là “sếp” của tôi vậy. Mặc dù tôi luôn gọi thầy hướng dẫn của mình là sếp, nhưng thầy luôn là người mà tôi kính trọng nhất. Tôi mỉm cười.

 

- Quốc sư cho gọi Ngải Tình, hẳn là có chuyện muốn nói.

 

- Cô Ngải Tình không giống những cô gái bình thường khác, mười năm trước ta đã nhận ra điều này.

 

Tôi lặng yên không đáp.

 

- Ta tự biết không còn sống được bao lâu nữa, lòng ta vốn đã chán ngán cõi trần, đi sớm ngày nào sẽ bớt phiền hà cho người thân ngày ấy.

 

Sống mũi tôi cay cay, tôi muốn nói điều gì đó thật lạc quan để an ủi ông, nhưng ánh mắt tinh anh của ông đã ngắt lời tôi:

 

- Nhưng người ta ai cũng vậy, đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa hết những mối bận tâm, với ta là hai đứa con này…

 

Trực giác mách bảo với tôi rằng, chủ đề lần này của ông chắc chắn có liên quan đến anh em họ, nên tôi yên lặng chờ đợi.

 

- Cô Ngải Tình là người kì lạ, liệu cô có thể tiết lộ cho kẻ sắp rời xa thế gi­an này được biết, hai đứa con trai của ta ngày sau sẽ ra sao không?

 

Tôi kinh ngạc, ngước lên đôi mắt sáng như thấu tỏ tâm can người đối diện. Lẽ nào ông ta đã đoán ra lai lịch của tôi? Nhưng, vì sao ông biết được?

 

- Mười năm qua dung mạo của cô không hề thay đổi, năm xưa cô lại đột ngột biến mất. Ta tin rằng, cô nhất định biết được những chuyện mà người bình thường không thể biết.

 

Tôi không được phép tiết lộ lịch sử, nhưng tôi có nên cứng nhắc giữ nguyên tắc đó với một người sắp qua đời? Thấy tôi do dự, ông tiếp tục:

 

- Xin cô hãy tin ta, ta không tiết lộ thiên cơ đâu.

 

Sau khi suy xét kĩ lưỡng, tôi quyết định tiết lộ một vài thông tin quan trọng, vì tôi không đành lòng giấu ông.

 

- Thưa quốc sư, Ra­ji­va ngày sau sẽ lưu danh sử sách.

 

Tôi ngập ngừng giây lát:

 

- Còn về Pusyse­da, xin quốc sư yên tâm, Ngải Tình hứa sẽ bảo vệ cậu ấy.

 

Lịch sử không ghi chép bất cứ điều gì về Pusyse­da, có lẽ cậu ta sẽ sống cuộc đời bình yên giống như những người bình thường khác. Và tôi quyết định sẽ chủ động nhắc nhở cậu ta khi cần thiết, để cậu ta không rơi vào thảm kịch sẽ xảy ra mười một năm sau. Tôi cũng chỉ có thể giúp cậu ta chừng đó.

 

- Thành tựu mà Ra­ji­va có được là về lĩnh vực Phật học?

 

Tôi gật đầu.

 

- Ra­ji­va có sức ảnh hưởng rất lớn đến quá trình truyền bá đạo Phật vào Trung Nguyên.

 

Ku­marayana trầm ngâm suy tư, một lúc lâu sau ông mới lên tiếng:

 

- Người làm cha làm mẹ, ai cũng mong con cái thành đạt, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là sự bình an.

 

Cơn ho ào đến, tôi vội vã tới bên giúp ông giữ nhịp thở đều đặn. Ông lấy hơi, tiếp tục câu chuyện:

 

- Tôi không thấy lo nhiều về Pusyse­da. Nó là người dám làm dám chịu, tính cách phóng khoáng, tuổi trẻ nông nổi có chút phản kháng cũng không sao, rồi thời gi­an qua đi, nó sẽ trưởng thành và chín chắn hơn. Người khiến tôi lo lắng hơn cả là Ra­ji­va…

 

Trống ngực đập thình thịch, tôi ngạc nhiên nhìn ông. Từ khi đổ bệnh, Ku­marayana chưa bao giờ trò chuyện nhiều đến thế. Gương mặt ông lúc này ửng lên sắc đỏ dị thường, ông nói trong tiếng ho khan:

 

- Nó quá thông minh và từ nhỏ đến lớn chưa từng nếm trải cực khổ. Trong lòng suy nghĩ rất nhiều, nhưng không bao giờ tâm sự với ai. Tính cách ấy sẽ khiến cuộc đời nó trở nên bất hạnh.

 

Tôi nhớ từng đọc một bài báo viết về một nhóm các nhà khoa học nghiên cứu, lai tạo ra giống chuột đột biến gen thông minh hơn rất nhiều loài chuột thông thường. Và người ta hào hứng kháo nhau rằng, nếu áp dụng phương pháp gây đột biến gen đó lên cơ thể người thì con người sẽ trở nên thông minh hơn, tài giỏi hơn rất nhiều. Nhưng không lâu sau, người ta lấy làm vui mừng vì đã không vội vàng biến giấc mơ ấy thành hiện thực. Bởi vì nghiên cứu cho thấy, tuy rằng loài chuột đột biến gen trở nên thông minh hơn, nhưng chúng cũng phải trả một cái giá rất đắt. Bộ gen mới trong cơ thể “chuột thông minh” có tác dụng kích thích thần kinh, giúp chúng phát triển trí nhớ và trí tuệ, nhưng đồng thời cũng khiến chúng trở nên mẫn cảm hơn với nỗi đau và sự tổn thương.

 

Thế nên, quá ư thông minh không hẳn đã tốt. Khi bi kịch xảy đến, người thông minh sẽ cảm thấy vô cùng tồi tệ và không thể chấp nhận hiện thực, thậm chí không thể chịu đựng nổi. Người bình thường có thể xem nhẹ hoặc bỏ qua để tiếp tục sống, nhưng họ thì không. Họ dễ trở nên mất phương hướng và hóa điên dại và cuộc đời họ vì thế sẽ chỉ toàn thảm kịch. Đó là bi kịch của những người thông minh. Ra­ji­va cũng khó tránh khỏi vận mệnh này.

 

- Tuy không rõ cô Ngải Tình từ đâu tới, nhưng cô nói Ra­ji­va thành công trong lĩnh vực Phật học, ta tin là cô đúng.

 

- Quốc sư, xin hãy nghỉ ngơi một lát.

 

Tôi mang nước tới cho ông. Ông thở dài, mệt nhọc cất tiếng:

 

- Không nói, e là không còn thời gi­an nữa.

 

Ku­marayana đột nhiên hướng ánh nhìn nghiêm khắc về phía tôi:

 

- Cô Ngải Tình đã biết trước Ra­ji­va sẽ dâng hiến trọn đời nơi cửa Phật, vì sao vẫn để nó nảy sinh tình cảm với cô? Như thế, có tàn nhẫn quá không? Phải chăng, Phật tổ cử cô tới đây để thử thách nó?

 

Bàn tay tôi run bắn, cốc nước rơi xuống, vỡ choang. Tôi hốt hoảng thu dọn, trong lúc cuống quít, mảnh vỡ lẹm một đường vào tay, vết cứa ấy đánh thức tôi. Vậy là ông đã biết từ lâu. Cũng phải thôi, Mava­su là người nô bộc trung thành đã theo ông từ Ấn Độ đến Khâu Từ. Tôi sống trong căn nhà nhỏ của Ra­ji­va ba tháng trời, làm sao giấu ông được.

 

- Quốc sư…

 

Ông thở dài, vẻ mặt mỏi mệt, buồn khổ.

 

- Ta là người từng trải, từng bị nỗi khổ vì yêu dày vò. Năm xưa hoàn tục, ta đã chịu rất nhiều lời phỉ báng, chỉ trích. Cứ ngỡ, một chữ tình có thể hóa giải tất cả, đền bù tất cả. Nào ngờ, người ta yêu thương lại là người có trái tim sắt đá, một lòng theo đuổi lí tưởng, khiến cả hai đứa con phải chịu khổ cùng ta.

 

Ông dứt cơn thở gấp, ngừng lại nghỉ ngơi, rồi mới tiếp tục.

 

- Ta biết cô cũng có tình cảm với Ra­ji­va. Nhưng nó đã một lòng hướng Phật, ngày sau lại có được thành tựu như vậy, nó không thể dành chỗ cho tình yêu trong tim mình được.

Đức Phật và nàng

 

Ông nhắm mắt, vẻ mệt mỏi cùng cực, khóe môi run run:

 

- Xin cô Ngải Tình đừng giẫm lên vết xe đổ của ta…

 

Tôi thẫn thờ bước ra khỏi căn phòng của Ku­marayana, cảm thấy mình như đang trôi đi, thân thể hoàn toàn trống rỗng, hoàn toàn kiệt sức. Pusyse­da đang đi đi lại lại trước cửa phòng, thấy tôi, vội vã bước tới truy hỏi:

 

- Cha đã nói gì với chị?

 

- Không có gì?

 

Tôi khẽ lẩm bẩm, thấy cậu ta ý chừng vẫn muốn hỏi tiếp, tôi rầu rĩ lắc đầu:

 

- Pusyse­da, tôi rất mệt, muốn nghỉ một lát.

 

Trên đường về phòng, tôi gặp Ra­ji­va đang mang thuốc vào cho cha, ánh mắt nhìn tôi đăm đắm, đầy vẻ lo lắng và xót xa. Nước mắt cứ muốn trào ra, tôi vội cúi đầu để cậu ấy không thấy được, lẳng lặng rảo bước về phòng.

 

Ngày nào cũng vậy, khi màn đêm tĩnh mịch buông xuống, Ra­ji­va lại ngồi trong phòng tụng kinh. Đã thành thói quen, tôi tắt đèn, giấu mình trong bóng tối. Ánh đèn leo lét bên phòng đối diện hắt lên khung cửa sổ một bóng hình cô độc. Bóng người dường như bất động, chỉ có âm thanh tụng niệm lầm rầm vang vọng trong không gi­an tĩnh lặng. Ra­ji­va, nếu chúng ta không bị ngăn cách bởi 1650 năm thời gi­an, nếu cậu không phải mang thân phận người tu hành, suốt đời chẳng thể thay đổi ấy, có lẽ tôi sẽ có đủ nghị lực để thổ lộ tình cảm với cậu. Tôi tin rằng cậu cũng có tình cảm với tôi, không biết khi ấy, cậu có bằng lòng không? Nhưng, vì sao cuộc đời lắm nỗi trái ngang như vậy? Hai chúng ta, rốt cuộc cũng vẫn chỉ là hai đường song song tình cờ gi­ao nhau. Khi trở lại vị trí của mình, chúng ta vẫn chẳng thể rũ bỏ những chướng ngại trong lòng mỗi người. Tôi yêu cậu, bởi vậy, tôi quyết định, sẽ từ bỏ…

 

Bệnh tình của Ku­marayana ngày một trầm trọng. Đức vua, hoàng hậu và hoàng thân quốc thích Khâu Từ thường xuyên tới thăm ông. Tôi đã nhìn thấy Bạch Chấn, em trai út của Bạch Thuần, người mà mười một năm sau đã được Lữ Quang đưa lên ngôi vua Khâu Từ. Tôi cũng đã nhìn thấy công chúa Ak­saya­mati, lúc này vẫn còn là một cô bé gái chừng tám, chín tuổi. Cảm xúc của tôi lúc nhìn thấy cô bé thật khó diễn tả. Ak­saya­mati là người mà mười một năm sau sẽ trở thành vợ Ra­ji­va. Lúc trước, khi đọc tới đoạn sử này, tuy có cảm thông với Ra­ji­va, nhưng cảm xúc chính của tôi là câu chuyện này thật ly kỳ, thú vị, tôi hào hứng mang nó đi kể cho mọi người nghe. Giờ đây, khi tôi đã trở thành một phần trong cuộc sống của cậu ấy, đoạn sử ngắn ngủi kia trở nên vô nghĩa, yêu Ra­ji­va, tôi nhận ra mình không thể chịu đựng được việc sau này cậu ấy có mối quan hệ như thế với người phụ nữ khác. Nghe thấy giọng nói ngọt ngào của Ak­saya­mati khi gọi Ra­ji­va và nhìn thấy cậu ấy tươi cười với cô bé, tôi nổi cơn ghen tuông, bất chấp đối tượng chịu trận chỉ là một cô bé con. Nhưng khi cơn thịnh nộ sắp bộc phát, thì những lời nói của Ku­marayana lại văng vẳng bên tai, lạnh buốt tựa băng giá, thấm vào lòng tôi, dập tắt mọi ngọn lửa điên cuồng trong tôi. Phải rồi, tôi đã hứa với Ku­marayana sẽ nhanh chóng rời khỏi đây. Vậy thì tôi lấy tư cách gì để ghen tị với số mệnh đã được an bài của Ra­ji­va?

 

 Những loại thuốc quý giá nhất cũng chỉ có thể kéo dài sự sống của Ku­marayana được hơn chục ngày, ông như ngọn đèn trước gió. Đêm đó, hai anh em họ túc trực bên giường cha, tôi nép mình vào một góc khuất, giọng nói ngắt quãng của Ku­marayana xen trong hơi thở khó khăn, đủ biết ông đã gắng gượng chừng nào.

 

- Pusyse­da, đừng ghét bỏ mẹ con… bà ấy… lúc nào cũng yêu con!

 

Ánh mắt tinh anh của ông giờ phút này đã trở nên mơ hồ, chỉ có thanh quản vẫn phập phồng lên xuống, khó khăn lắm mới nghe rõ lời ông:

 

- Không biết… có thể… đoàn tụ với bà ấy… trên cõi cực lạc… hay không?

 

Gương mặt héo hon chỉ còn da bọc xương thoáng hiện một nét cười khổ sở:

 

- Chắc là không được rồi… Bà ấy đã chứng tam quả… cắt đứt mọi tơ tình nhân thế… trong khi ta vẫn đắm chìm trong bể khổ tương tư…

 

Pusyse­da nắm chặt tay cha, khóc cạn cả nước mắt. Ra­ji­va vẫn thinh lặng nhìn cha, vẻ mặt thê lương. Ku­marayana mấp máy môi:

 

- Lần đầu gặp bà ấy, con tim ta đã lạc nhịp…

 

Ánh mắt ông chợt bừng sáng, như thể ông vừa nhìn thấy ai đó.

 

- Bà ấy rất đẹp, lại thông minh, lanh lợi, dễ thương… Ji­va, đừng đi… bọn trẻ còn nhỏ lắm…

 

Ku­marayana đột nhiên đưa tay về phía trước, ông đã hoàn toàn đắm chìm trong kí ức. Tôi nhìn thấy nét dịu dàng, yêu thương chưa từng thấy trong đôi mắt ông, như thể, người ông ngày đêm mong nhớ đang hiển hiện trước mắt ông vậy.

 

- Ji­va, chờ ta…

 

Ku­marayana chới với vươn ra phía trước, Pusyse­da ôm chầm lấy cha. Cánh tay Ku­marayana buông thỏng, ông đổ người vào vòng tay Pusyse­da. Pusyse­da gọi cha trong cơn tuyệt vọng, nhưng ông không đáp lại. Ra­ji­va vẫn thinh lặng đứng đó, không một biểu cảm đặc biệt nào trên nét mặt, đột nhiên cậu quỳ sụp xuống, tiếng tụng niệm vang lên. Hai anh em họ thể hiện những tâm trạng hoàn toàn không ăn khớp với nhau.

 

- Thôi đi! Ngoài tụng kinh ra, anh còn biết làm gì nữa?

 

Pusyse­da đặt cha xuống giường, quay người lại gằn hắt anh trai, giọng nói đầy vẻ thô bạo.

 

- Cả ngày chỉ biết tụng kinh thì ích gì chứ? Tụng kinh có làm cha sống lại không?

 

Cậu ta chỉ tay vào Ra­ji­va, điệu bộ chì chiết dữ dằn:

 

- Anh chỉ biết trốn chạy trong kinh văn, Phật tổ của anh, ngoài việc vẽ ra cái thế giới vô nghĩa sau khi chết, còn có thể làm được việc gì nữa?

 

- Pusyse­da, không được lăng mạ anh trai cậu!

 

Tôi bước đến, kéo tay Pusyse­da. Cậu ta không còn tỉnh táo nữa, cậu ta muốn trút nỗi đau mất cha lên anh trai mình.

 

Cậu ta quay lại nhìn tôi, ánh mắt vằn lên những tia đỏ, khuôn ngực rung động mãnh liệt:

 

- Trong lòng mẹ chỉ có anh ta là người con duy nhất. Cha cũng vậy, lúc nào cũng thương nhớ anh ta, tự hào về anh ta, mặc dù anh ta chưa một ngày tận hiếu với cha.

 

Cậu ta hất tay tôi ra, sức mạnh cuồng bạo khiến tôi chao đảo:

 

- Cả chị nữa, trong lòng chị cũng chỉ có mình anh ta. Anh ta được tất cả mọi người yêu thương, nhưng hãy xem xem, anh ta đã mang lại cho những người yêu thương mình được những gì nào? Cha qua đời mà anh ta cũng không thèm nhỏ một giọt nước mắt! Anh ta là đồ quái vật máu lạnh!

 

- Đủ rồi! Cậu có biết là cậu ấy còn đau khổ hơn cả cậu không? Cậu có thể gào thét để giải tỏa, muốn khóc là khóc, thích nhiếc móc là nhiếc móc, nhưng còn cậu ấy…

 

Ra­ji­va vẫn nhắm nghiền mắt, lầm rầm tụng kinh, nước mắt tuôn trào.

 

- Cậu ấy không phải không biết đau đớn là gì, mà vì cậu ấy đau khổ tới mức không rơi nổi nước mắt…

 

- Ngải Tình…

 

Cậu ấy bất chợt lên tiếng, giọng nói như lạc đi.

 

- Pusyse­da nói không sai, tôi là người xuất gia, người xuất gia vốn dĩ không thể có tình cảm thế tục…

 

- Ra­ji­va…

 

Cậu ấy đứng lên, bước ra ngoài cửa.

 

- Tôi vào cung thông báo cho đức vua…

 

Tôi định đuổi theo nhưng đã bị Pusyse­da giữ lại. Tôi đẩy cậu ta ra bằng hết sức lực mà tôi có. Tôi không biết Ra­ji­va sẽ làm gì, nhưng tôi phải đi theo, để bảo vệ cậu ấy.

 

Cậu ấy đi rất vội, không rẽ về hướng hoàng cung mà ra khỏi thành. Lính gác cổng thành thấy cậu ấy thì lập tức cho qua, đến lượt tôi, tôi phải đưa cho họ toàn bộ số tiền có trên người, họ mới đồng ý để tôi đi.

 

Cậu ấy bước đi lang thang, vô định, bước chân gấp vội trong đêm, xiêu vẹo, loạng choạng. Điểm đến sau cùng là bờ sông Tongchang. Cậu ấy gào khóc thảm thiết với mặt nước lặng như tờ. Đêm khuya tịch mịch, ngoại thành xa vắng, tiếng khóc của cậu ấy khuấy động không gi­an.

 

Tôi lặng lẽ đứng nhìn từ xa. Ra­ji­va, cậu không phải không có tình cảm, chỉ là cậu không thể khóc trước mặt người khác. Một người giàu cảm xúc và giàu yêu thương như cậu, vì sao lại sùng bái thứ tôn giáo buộc người ta phải đoạn tuyệt với mọi cảm xúc của con người?

 

Tôi đã rất muốn đến bên an ủi cậu ấy, nhưng những lời nói của Ku­marayana cứ văng vẳng bên tai. Ra­ji­va, tôi không muốn sự xuất hiện của mình khiến cậu rối bời, tôi chỉ có thể lặng lẽ ở bên cạnh cậu như thế này thôi.

 

Chợt nhớ đến những ca khúc của Tề Dự, bài hát khiến tôi cảm động nhất của cô là “Nước mắt lạc đà”.  Lúc trước, tôi cảm động vì câu chuyện tình đẹp mà buồn trong tiểu thuyết cùng tên của Tam Mao. Còn bây giờ, trong đêm sâu cô quạnh, con người mà ngay cả khóc cũng không được khóc ấy khiến tôi không khỏi cảm khái mà nhớ đến ca khúc này, nỗi buồn ngập tràn trong tôi. Con tim trốn chạy, tìm nơi trú ẩn nhưng vô ích, đành ở đó, nhẫn nhịn chống chịu với cơn đau.

 

“Em mang theo hạnh phúc rượt đuổi nỗi đau. Ra đi có lẽ là cách duy nhất để yêu anh.

 

Chỉ biết trao đi, em đã không học cách nhận lại. Lãng quên, có lẽ là lời chúc phúc thành tâm nhất ta dành cho nhau.

 

Đôi mắt ấy dịu dàng từ thuở khai sinh, nhưng ngay cả khóc than cũng chịu sự nguyền rủa, không có nước mắt, làm sao chảy ra cho vơi cạn nỗi cô đơn?

 

Gió cát mịt mùng, mắt em nhạt nhòa, bước đi xô lệch trong đêm tối. Lạc lối trong sa mạc, trái tim là vì sao Bắc cực, cần mẫn, kiệm lời.

 

Gió cát mịt mùng, hoang ảo tiếng gọi tình yêu, muốn nhớ lại cũng nhọc nhằn. Hai ta, chẳng dám yêu, không dám hận, để mặc gió cát vô tình cuốn đi dấu chân”.

 

Trái tim tôi hát lên lời ca này, nước mắt chan hòa, gió đêm thổi tới, tâm can càng thêm giá lạnh. Ra­ji­va, sức ảnh hưởng của cậu mới lớn làm sao, ngay cả hát tôi cũng không dám cất lời, ngay cả khóc cũng không dám khóc thành tiếng. Ra­ji­va, đêm nay cậu không cô đơn, tôi luôn ở bên cạnh cậu, cùng khóc với cậu. Hãy để nước mắt của hai mươi tư năm tuổi đời trong tôi được một lần vì cậu mà khóc cạn. Sau này, chúng ta đừng khóc nữa, hãy để gió cát vô tình cuốn đi dấu chân hai ta từng lưu lại trên sa mạc cuộc đời này.

 

Tờ mờ sáng cậu ấy mới lặng lẽ quay về với vẻ mệt mỏi, rã rời, tưởng như hồn bay phách lạc. Đêm lạnh như băng, khi tôi đứng lên để đi theo cậu ấy, toàn thân dường như không còn một chút hơi ấm nào.

 

Mùa hạ qua đi, mùa thu lặng lẽ kéo về.