Sherlock Holmes toàn tập ( Tập 3 ) - Phần 02 - Các bản vẽ của tàu ngầm Bruce Partington
Trong tuần lễ thứ ba của tháng 2 năm 1895, một làn sương mù vàng dày đặc phủ lên London. Từ thứ hai cho tới thứ năm, đứng tại các cửa sổ của đường Baker không thể nào thấy dãy nhà trước mặt. Holmes đã sử dụng ngày đầu tiên của tuần đó để tham khảo một số tài liệu và hai ngày sau được dành cho đề tài: “Âm nhạc thời Trung cổ”. Nhưng vào ngày thứ tư, sau điểm tâm, anh thấy rằng liên tiếp mấy ngày qua, các cuộn sương mù nhớp nhúa xám xịt nặng nề đang lửng lơ trên đường phố, vẫn còn đọng lại thành từng giọt nhờn nhợt trên các cửa kính, thì cái tính dễ nổi nóng của anh bộc phát. Anh bước sải trong phòng khách nhỏ bé, cắn móng tay, vấp chân vào đồ gỗ, nguyền ̉a sự rảnh rỗi.
- Báo chí không có tin gì hả Watson?
Tôi thừa biết rằng đối với Holmes, hai chữ “tin gì” có nghĩa là “tin về hình sự”. Hôm đó có đăng tin về một cuộc cách mạng, về một cuộc chiến có thể bùng nổ, về các lời đồn đại rằng chính phủ sẽ đổ. Các tin tức loại này nằm ngoài phạm vi của Holmes. Ở mục tin vặt, không mẩu tin nào đáng được lưu ý. Holmes than thở rồi tiếp tục sải bước qua lại.
- Bọn tội phạm hình sự ở London thật là ngu. Anh Watson, hãy nhìn qua cửa sổ mà xem. Đâu thấy mặt người rõ ràng? Trong sương mù dày đặc này, một thằng ăn cướp hay một thằng giết người có thể đi ngang dọc tại thủ đô như cọp giữa rừng già nhiệt đới. Con mồi chỉ hay biết sau khi đã nằm trong nanh vuốt.
- Có nhiều vụ trộm vặt. - Tôi nói.
Holmes hít hít một cách miệt thị:
- Cái sân khấu vĩ đại với ánh sáng bệch bạc, thuận lợi cho những vở kịch hay hơn ngàn lần. Xã hội có diễm phúc khi tôi không có tính cướp bóc.
- Quả thật là một diễm phúc.
- Thí dụ tôi là một trong đám giang hồ tứ chiếng thì London chết với tôi. Chỉ cần tung ra một giấy mời giả, hoặc một câu hẹn láo là xong. May mắn sao các xứ Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... nơi mạng người được xem như cỏ rác, không có nạn sương mù này, chắc ta sẽ thoát khỏi cái đơn điệu chết người này.
Người làm bước vào với một bức điện tín. Holmes mở ra và cười lớn:
- Ngày của những phép lạ - Holmes nói - Anh Mycroft sẽ đến.
- Sao lại gọi là phép lạ?
- Tại sao ư? Như thể bạn gặp một xe lửa điện chạy trên một đường mòn ở đồng quê. Mycroft có đường ray riêng mà anh ấy không bao giờ rời chúng. Cái căn hộ tại Pall Mall, cái câu lạc bộ Diogène, Văn phòng nội các là các t́n xe lửa điện của anh. Chỉ có một lần anh ấy đến đây. Hôm nay tai họa gì đã khiến anh ấy tới đây?
- Anh ấy không giải thích sao?
Holmes đưa cho tôi bức điện tín. “Muốn gặp em về vụ Cadogan West. Anh sẽ đến, Mycroft”.
- Cadogan West? Cái tên này gợi lên cho tôi điều gì?
- Đối với tôi cũng chả gợi lên tý gì cả. Nhưng trước sự kiện Mycroft phá lệ, anh có thấy tôi rối bời không? Thực ra, anh có biết Mycroft là ai không?
- Tôi có biết anh ấy khi chúng ta giải quyết vụ “Người thông ngôn Hy Lạp”. Anh có nói rằng Mycroft có một chức vụ nhỏ trong guồng máy nhà nước.
Holmes mỉm cười:
- Lúc đó tôi chưa quen anh nhiều, nên phải giữ miệng. Anh đúng khi tin rằng anh ấy là viên chức. Nhưng anh cũng không sai khi nói rằng lúc ấy bản thân Mycroft là Nhà nước Anh quốc.
- Khiếp thật!
- Mycroft lĩnh lương 450 bảng một năm, là người tuyệt đối không có tham vọng gì. Mycroft không chức tước gì, nhưng lại là người rất cần thiết cho đất nước.
- Bằng cách nào?
- Vị trí của Mycroft là vô song. Trên đời này, anh ấy đặc biệt có bộ nhớ phi phàm. Các kết luận của các Bộ được đệ trình mỗi ngày. Anh ấy là bộ phận đầu não điều tiết, tổng hợp các thông tin đó. Một ông bộ trưởng cẩn nhận xét một thông tin liên quan tới hải quân Ấn Độ, Canada? Với tài liệu cung cấp chỉ có Mycroft mới có khả năng nhìn tổng thể và giải thích ngay sự tác động của các yếu tố. Sơ khởi anh ấy được sử dụng như một công cụ để tiết kiệm thời gian. Nhưng hiện thời anh ấy đã trở nên tối cần. Trong đầu anh ấy, mọi việc được xếp theo thứ tự hẳn hoi. Khá nhiều việc phải chờ ý kiến của anh ấy rồi mới quyết định. Anh ấy sống trong chính giới. Anh ấy không hề phân tâm vào chuyện nào khác trừ phi để đấu trí cho vui. Thỉnh thoảng anh ấy cũng xen vào vài vấn đề lặt vặt của Hôm nay là ngày Thượng đế giáng trần, không biết Mycroft cần gì ở tôi? Cadogan West là ai? Liên quan gì đến Mycroft?
- Tôi biết rồi! - tôi kêu lên sau khi lục lọi chồng báo - Đúng rồi, chính y. Cadogan West là chàng thanh niên đã chết sáng thứ ba trong xe điện ngầm.
Holmes sững người, lắng nghe.
- Chắc chắn là chuyện quan trọng, Watson à. Một cái chết, buộc anh tôi phải thay đổi thói quen thì tất nhiên không thể là cái chết bình thường. Chắc nó có liên quan với anh ấy. Nội vụ là tầm thường, nếu tôi nhớ không lầm. Anh chàng từ xe điện ngầm ngã xuống. Không hề bị mất mát gì, nên không có lý do để ngờ vực có chuyện đen tối, đúng không Watson?
- Một cuộc điều tra đã tiến hành và đã phát hiện thêm những dữ kiện mới mẻ. Xem kỹ lại thì thấy đó là chuyện khá lạ kỳ - Tôi đáp.
- Căn cứ vào tác động của nó đối với anh tôi, tôi đồng ý rằng nó không phải là chuyện vặt vãnh.
Holmes thu mình lại trong ghế bành.
- Nào Watson, các dữ kiện mới là những gì?
- Arthur Cadogan West, 27 tuổi, độc thân, thư ký tại xưởng hải quân Woolwich.
- Viên chức? Hèn chi liên quan tới Mycroft.
- Anh ta đột ngột rời Woolwich vào tối thứ hai. Cô Violet Westbury, vị hôn thê của anh ta, là người gặp anh ta cuối cùng. Anh ta từ giã cô ấy một cách đột ngột lúc 7 giờ 30 trong sương mù. Họ không hề cãi nhau. Hiện cô ấy chả hiểu ra làm sao cả, chỉ biết rằng xác anh ta được một công nhân xe điện ngầm phát hiện gần ga Aldgate.
- Hồi mấy giờ?
- Xác được phát hiện vào 6 giờ sáng thứ ba, nằm bên trái, xa đường sắt, tuyến phía đông gần xe, ở nơi kết thúc đường hầm. Đầu bị vỡ, có thể do bị ngã. Nếu xác được khiêng trong đường phố gần đó ra, thì nó đã phải đi qua cửa người bấ đứng, điều này khá rõ.
- Rất tốt. Chuyện khá rõ. Xô ngã hoặc bị quăng xác từ tàu xuống. Cứ tiếp tục?
- Các tàu chạy gần đó từ Tây sang Đông có chuyến thuộc loại nội thành, có chuyến từ Willesden hay ngoại thành vào. Có thể đoán chắc rằng khi rơi xuống, anh chàng này đi hướng Tây Đông vào lúc khá khuya. Tuy nhiên khó xác định anh ta lên tàu lúc mấy giờ.
- Thì xem trên vé.
- Anh ta có vé đâu?
- Không có vé? Đó mới là điều cực kỳ dị thường. Không ai có thể vào bến xe điện ngầm mà không có vé. Như vậy thì rất có thể anh chàng này có vé đàng hoàng, nhưng bị lấy đi để che giấu tên ga mà anh ta lên tàu. Đó là một giả thiết. Anh ta đã làm rơi trên toa, đó là giả thiết thứ hai. Nhưng có một chi tiết lạ, hình như anh ta không bị lấy cắp gì phải không?
- Không, đây là danh sách đồ vật tìm thấy trong người nạn nhân: cái ví với 2 bảng 15, một cuốn chi phiếu do chi nhánh Woolwich của Nân hàng Capital & Counties phát hành. Chính nhờ cuốn chi phiếu này mà nhận diện được. Còn có hai vé hát của đêm đó là một gói tài liệu kỹ thuật.
Holmes lớn tiếng biểu lộ sự hài lòng:
- Chúng ta có tất cả. Nhà nước Anh, hải quân công xưởng Woolwich, tài liệu kỹ thuật, anh Mycroft của tôi. Dây chuyền khép kín. Nhưng anh ấy đã tới kia, nếu tôi không lầm.
Một giây đồng hồ sau, chúng tôi đón Mycroft Holmes to lớn và oai phong, có cái trán kẻ cả, đôi mắt sắt thép linh hoạt, đôi môi thật là cương nghị. Theo gót ông là thám tử Lestrade. Chẳng nới chẳng rằng, viên thám tử bắt tay chúng tôi. Mycroft Holmes cởi áo choàng và thả mình trên ghế bành.
- Một vụ vô cùng bực bội, Sherlock à. Anh không thích thay đổi thói quen. Tuy nhiên anh thấy cần phải đến đây? Chưa bao giờ anh thấy Thủ tướng bối rối đến thế. Còn tại Bộ tư lệnh hải quân họ cãi nhau như mổ bò. Chú đã đọc báo chứ?Vừa đọc xong. Mà tài liệu kỹ thuật gì vậy?
- À, cái chết là ở chỗ đó. May thay, chưa tiết lộ chính xác. Nếu biết, báo chí đã làm om sòm. Tài liệu ở trong túi người thanh niên là các bản vẽ của tàu ngầm Bruce Pardington.
Mycroft Holmes đã nói với giọng trịnh trọng để nhấn mạnh tầm quan trọng của tài liệu.
- Các bản vẽ này có tầm quan trọng sinh tử trong tất cả các bí mật của Nhà nước. Cách đây hai năm, một số tiền kếch xù được trích từ ngân sách quốc gia để mua độc quyền sáng chế. Mọi biện pháp đã được áp dụng để giữ bí mật cho công việc. Các bản vẽ cực kỳ rắc rối, được để trong một tủ sắt vô cùng chắc chắn trong một văn phòng gần công xưởng hải quân; các cửa lớn và cửa sổ đều bất khả xâm phạm. Với bất cứ lý do nào, các bản vẽ này đều không được rời văn phòng đó. Dù kỹ sư trưởng của hải quân có muốn tham khảo, cũng phải tới văn phòng này tại Woolwich. Nhưng dù kỹ lưỡng đến thế, các tài liệu đó vẫn bị lọt vào túi một thư ký trẻ. Về phương diện Nhà nước, chuyện này quả là nhục nhã.
- Lấy lại được rồi mà?
- Không! Đâu có lấy lại được. Trong 10 bản vẽ bị trộm tại Woolwich có 7 cái trong túi của Cadogan West. Còn ba cái quan trọng nhất thì mất hút. Sherlock à, chú phải dẹp mọi chuyện để lo việc này! Suy đoán vặt vãnh các vấn đề linh tinh đâu có lý thú gì. Chú phải giải đáp câu hỏi tại sao Cadogan West ăn cắp các bản vẽ? Các bản vẽ bị thiếu bây giờ ở đâu? Hắn chết trong trường hợp nào? Xác hắn được đưa tới điểm đó bằng cách nào? Hãy giải đáp các câu hỏi đó! Tổ quốc sẽ ghi công chú.
- Tại sao anh không tự giải quyết lấy? Anh có tầm nhìn xa hơn em.
- Có thể, nhưng trước tiên phải thu gom các yếu tố chi tiết. Chú cung cấp cho tôi các tin tức này. Tôi sẽ ngồi tại ghế bành mà tổng hợp. Chạy đây, chạy đó, thẩm vấn các công nhân, nói năng lộn xộn, bò sát mặt đất, khám nghiệm này nọ bằng kính lúp... không phải là nghề của anh. Chú là người độc nhất có thể xoay xở để giải quyết vụ này. Rất có thể, chú sẽ có tên trong bảng phong tước quý tộc kỳ tới...
Holmes mỉm cười và đầu:
- Nếu em tham dự trò chơi này, thì chỉ vì thích nó, vì đầu đề của bài toán do anh đề ra có những dữ kiện lý thú. Em sẵn sàng đảm nhận, anh vui lòng cho thêm vài yếu tố phụ.
- Trên tờ giấy này có vài yếu tố thiết yếu, cũng có kèm theo địa chỉ cần dùng. Người quản lý các tài liệu này là ngài James Walter. Ông có thâm niên cao, lại là một nhà quý tộc được trọng vọng tại thủ đô. Lòng ái quốc thì không ai nghi ngờ được. Ông là một trong hai người có chìa khóa tủ sắt đó. Tôi có thể nói thêm rằng các bản vẽ chắc chắn nằm trong văn phòng vào giờ làm việc từ sáng thứ hai và ngài James quay về London khoảng 3 giờ, mang theo chìa khóa. Suốt buổi tối hôm bị đánh cắp, ông lưu lại nhà đô đốc Sinclair ở quảng trường Barclay.
- Sự kiện có được kiểm chứng không?
- Có! Đại tá Valentine Walter, em ruột của ngài James, đã làm chứng cho việc ông rời khỏi Woolwich. Còn đô đốc Sinclair thì làm chứng cho đêm ở London. Ngài James không còn là một yếu tố trực tiếp trong vấn đề.
- Ai giữ cái chìa khóa kia?
- Ông Sidney Johnson, thư ký cao tuổi nhất chuyên về vẽ. Bốn mươi tuổi, có vợ, 5 con, ít nói, khó chịu, nhưng được xem là một công chức mẫu mực. Đồng nghiệp không ưa có lẽ vì ông làm việc rất nghiêm. Ông ấy đã khai và lời khai này chỉ được xác nhận bởi vợ ông, rằng ông không rời khỏi nhà vào tối thứ hai, sau khi từ văn phòng về và chìa khóa của ông đã không hề rời khỏi dây đeo đồng hồ.
- Anh hãy nói về Cadogan West.
- Thâm niên 10 năm và được tiếng tốt. Anh ta nổi tiếng là người sôi động và nóng nảy, nhưng được tiếng là người chính trực và thanh liêm. Chúng tôi không phiền trách gì về anh ấy. Tại văn phòng, anh ấy là phụ tá của Sidney Johnson. Mỗi ngày anh ta phải đích thân sắp xếp các bản vẽ, không một người nào khác được phép động tới chúng.
- Tối hôm đó ai đã cất các bản vẽ trong tủ sắt?
- Sidney Johns
- Như vậy thì nói tên người ta ăn trộm đâu phải là chuyện khó. Tài liệu được tìm thấy trong người của Cadogan West, điều đó có vẻ là dứt khoát rồi phải không? - Holmes nói.
- Đúng. Nhưng giả thiết này bác lại nhiều điều trong bóng tối. Trước hết, tại sao hắn ăn cắp chúng? - Mycroft nói .
- Vì tiền, đúng không?
- Hắn có thể kiếm ra mấy ngàn bảng Anh một cách dễ dàng.
- Anh có thể đưa ra cho em một giải thích khác không?
- Không.
- Vậy thì phải chọn giả thiết của em: Cadogan West đánh cắp tài liệu, bằng cách sử dụng một chìa khóa giả.
- Như vậy phải dùng nhiều chìa khóa giả. Vì phải mở cả cửa tòa nhà, cửa phòng nữa.
- Như vậy là y có nhiều chìa khóa đôi. Y ăn cắp tài liệu, đem lên London bán cái bí mật của đề án, rồi thu hồi, đem trả về tủ sắt vào sáng sớm hôm sau, để không ai hay biết . Chúng ta giả thiết rằng trên đường đi về Woolwich, hắn bị giết và bị ném khỏi toa.
- Ga Aldgate là nơi ta tìm thấy xác hắn. Ga này nằm chệch xa ga London Bridge trên lộ trình bình thường để đi Woolwich.
- Chúng ta có thể tưởng tượng một ngàn lý do khiến y bỏ qua ga London Bridge. Thí dụ y có thể say sưa nói chuyện với một người ngồi cùng toa: một cuộc nói chuyện có kết cục đưa tới cái chết, có thể y có mưu toan rời khỏi toa, bị ngã ra khỏi tàu và người đối thoại đóng cửa lại. Sương mù dày đặc nào ai trông thấy gì đâu.
- Dựa vào những gì chúng ta đang có, không có lối giải thích hay hơn. Tuy nhiên, Sherlock, chú hãy suy nghĩ lại xem, chú có bỏ sót yếu tố nào không. Có thể, vì cần thảo luận sâu thêm, anh chàng Cadogan West quyết định mang mớ tài liệu đó lên London. Tất nhiên hắn đã có cuộc hẹn với một điệp viên người nước ngoài. Đằng này hắni vé xem hát, cùng đi với vị hôn thê được nửa lộ trình, rồi mới biến mất .
- Đó là hắn ngụy trang. - Lestrade nói xen vào, tỏ ra bồn chồn trước cuộc thảo luận giữa hai anh em.
- Một sự giả đò khá dị thường, tôi đã đưa ra nhận xét thứ nhất. Và đây là nhận xét thứ hai: nếu như anh ta có đến London và có gặp điệp viên nước ngoài, thì anh ta phải thu hồi các bản vẽ trước sáng hôm sau, nếu không thì bị bại lộ. Anh ta đã lấy cắp mười, nhưng chỉ còn có bảy cái trong túi. Vậy ba cái kia đâu? Chắc chắn anh ta không dễ dãi trước sự mất mát này. Ngoài ra tiền thưởng đâu? Lẽ ra phải có một số tiền kếch xù trong túi hắn.
- Đối với tôi thì mọi sự đều sáng tỏ như ban ngày. - Lestrade nói. - Hắn đánh cắp bản vẽ để bán, đã gặp điệp viên. Hai bên mặc cả chưa xong, hắn bỏ đi nhưng điệp viên nước ngoài lại đi theo. Trên xe điện, người này ám sát hắn, cướp lấy các tài liệu quan trọng nhất và ném hắn khỏi toa xe. Giả thiết này giải thích êm xuôi nhất.
- Tại sao anh ta không có vé lên tàu?
- Vé sẽ tiết lộ tên cái ga gần nhà điệp viên nhất. Do đó người ta lấy và thủ tiêu rồi!
- Giỏi, Lestrade rất giỏi - Holmes khen - Giả thiết của anh đứng vững đó. Nhưng nếu giả thiết đó đúng thì nội vụ được xếp lại. Tên phản bội đã chết, và các bản đồ của tàu ngầm Bruce Pardington có lẽ hiện nằm bên kia bờ biển Manche. Ta còn làm cái gì nữa?
- Còn các hành động! - Mycroft la lớn và đứng dậy. - Trực giác của tôi bác bỏ giả thiết trên. Chú hãy vận dụng cái biệt tài của chú. Hãy ra hiện trường! Hãy hỏi thăm các nhân chứng. Trong suốt đường danh vọng của chú, chưa bao giờ chú có một cơ hội tốt hơn để phục vụ đất nước!
- Được! - Holmes nói và nhún vai - Bọn em sẽ lên đường ngay. Còn Lestrade, ông vui lòng đi theo chúng tôi. Trong một hoặc hai giờ, chúng ta sẽ bắt đầu thăm ga Aldgate. Tạm biệt Mycroft. Em sẽ gửi cho anh một báo cáo vào tối nay, nhưng em nói trước, đừng hy vọng nhiều.
Một giờ sau, Holmes, Lestrade và tôi đứng trên đường xe điện ngầm, tại đó nó ra khỏi đường hầm, ngay lối vào ga Aldgate. Một ông lão lễ độ thay mặt cho công ty tiếp chúng tôi. Ông nói:
- Đây là chỗ tử thi nằm. Anh ta không thể từ trên kia rơi xuống được, bởi vì có tường cao mà. Chỉ có thể rơi từ tàu và theo chúng tôi đoán là chuyến tàu 12 giờ đêm thứ hai.
- Các toa đã được khám nghiệm chưa. Có vết tích của sự ẩu đả không?
- Không có vết tích đánh đấm gì cả, cũng không tìm ra vé tàu của anh ta.
- Có thấy một cửa lớn hãy còn mở không?
- Không!
- Sáng nay có thêm một nhân chứng mới. - Lestrade nói - Một hành khách đi chuyến tàu ngang qua Aldgate lúc 11 giờ 40 tối thứ hai, khai rằng ông ta có nghe một tiếng “bịch” do một vật nặng rơi như xác người rơi xuống đất ngay trước khi tàu đến ga. Ngay lúc ấy, vì sương mù dày đặc nên không thấy được gì. Ông ấy chả khai báo gì cả. Nào, ông nghĩ gì đó, ông Holmes?
Holmes đang nhìn đăm đăm đường ray vòng cung khi ra khỏi đường hầm. Tuyến đi Aldgate là một cái nhánh nên có bộ phận bẻ ghi. Giờ đây cái nhìn soi mói của anh chăm chăm vào cái bộ phận bẻ ghi. Trên khuôn mặt nhọn và nhạy cảm của anh, tôi thấy miệng anh co lại, lỗ mũi run nhẹ, trán nhăn. Anh nói thật khẽ.
- Bộ phận bẻ ghi. Hừm, bộ phận bẻ ghi.
- Sao? Ông nói gì?
- Hình như trên tuyến này không có nhiều bộ phận bẻ ghi?
- Đúng, ít lắm.
- Đồng thời là một khúc quanh. Vừa có bẻ ghi vừa có khúc quanh. Khá đơn giản.
- Sao, ông Holmes, ông đã thấy gì?
- Một ý tưởng thôi. Tuy nhiên nội vụ trở thành hấp dẫn tột độ, nhất vô nhị! Quả vậy, tại sao lại không có vết máu trên đường.
- Gần như là không!
- Nhưng nó là vết thương trầm trọng mà!
- Xương vỡ, nhưng vết thương bên ngoài thì không đáng kể.
- Dù sao, tôi vẫn đoán phải có vết máu. Ta xem qua cái toa?
- Không được đâu, ông Holmes à. Đoàn tàu đã tháo ra, các toa đã phân phối qua các tàu khác.
- Ông Holmes, - Lestrade xen vào - Các toa đã được khám nghiệm kỹ lưỡng rồi. Tôi thân hành giám sát mà.
Holmes có cái khuyết điểm lớn là anh chịu đựng không được khi thấy người khác không sâu sắc bằng mình.
- Có lẽ là như vậy. Không phải tôi muốn nhìn qua các toa đâu. Watson, thôi đi. Chúng ta không còn việc gì ở đây. Ông Lestrade, tôi cho rằng cuộc điều tra của chúng tôi sẽ tiếp tục tại Woolwich.
Tại London Bridge, Holmes thảo một điện tín cho Mycroft. Anh đưa cho tôi xem trước khi gửi: “Một ánh sáng lập lòe trong đêm đen, nhưng có thể tắt. Trong khi chờ đợi, yêu cầu sai người làm cho em bản danh sách đầy đủ các điệp viên ngoại quốc nổi tiếng tại Anh cùng với các địa chỉ đầy đủ của họ. Sherlock”.
Khi ngồi trên xe lửa đi Woolwich, anh ấy nói với tôi:
- Watson à, dù việc gì xảy ra đi nữa, chúng ta cũng phải cảm ơn Mycroft đã cho chúng ta tham dự vào một vụ hứa hẹn có nhiều hấp dẫn.
Cái khuôn mặt nhọn của Holmes thể hiện một năng lực cao độ khi một yếu tố mới kích thích trí thông minh của anh. Tôi nghĩ đến con chó trong chuồng: tai xẹp, đuôi quặp. Vậy mà nó chạy trên đường săn mồi thì mắt sáng quắc, các thớ thịt dài, căng phồng. Kể từ sáng nay, một sự thay đổi đã diễn ra trong Holmes. Anh nói:
- Có chất liệu, có phạm vi hoa. Tôi quả ngu dại vì đã không thấy ngay các khả năng của nội vụ.
- Cho tới giờ này, tôi chả thấy gì cả.
- Nên nhớ là tôi chưa thấy toàn bộ đâu, nhưng tôi hiện đi trên một đường mòn đầy triển vọng. Người thanh niên bị giết ở một nơi khác, và xác chết nằm trên mui tàu.
- Trên mui ư?
- Lạ lắm phải không. Có phải ngẫu nhiên mà xác chết được phát hiện ngay chỗ tàu chuyển mình và hơi nghiêng vì đang đi vòng tại bộ phận bẻ ghi? Có phải đó là nơi dễ dàng nhất để một vật gì đó trên mui tàu phải rơi xuống? Qua vấn đề các vết máu, nếu xác bị mất máu ở chỗ khác, thì tất nhiên không còn đủ máu để rơi rải trên đường ray. Một yếu tố tự một mình nó cũng đã có nhiều ý nghĩa, phải không? Kết hợp nhiều cái như vậy lại, chúng càng có nhiều ý nghĩa hơn.
- Chúng cũng giải thích sự thiếu vắng của vé tàu? - Tôi nói lớn.
- Đúng thế! Rất ăn khớp với nhau.
- Dù vậy, chúng ta cũng chưa thấy gì sáng tỏ. Lời giải thích của anh làm cho các sự việc trở nên dị thường hơn.
- Có thể lắm! - Holmes đồng ý, vẻ mặt đăm chiêu.
Holmes rơi vào một trạng thái trầm cảm cho tới khi tàu ngừng lại ga Woolwich. Anh gọi một xe ngựa rồi rút trong túi ra tờ giấy của Mycroft.
- Chiều nay chúng ta phải đi thăm vài nơi. Người đầu tiên là ngài James.
Viên chức nổi tiếng này ngụ trong một biệt thự đẹp có bồn cỏ chạy dài xuống tận sông Thames. Khi chúng tôi đến, thì sương mù tan và ánh sáng yếu ớt của mặt trời đã chiếu rạng. Một quản gia ra mở cửa.
- Ngài James đã từ trần sáng nay.
- Chúa ơi! - Holmes kinh ngạc nói lớn. - Ông ấy chết như thế nà
- Kính mời ông vào nhà gặp người em của ngài, đại tá Valentine.
- Vâng.
Chúng tôi được đưa vào một phòng khách không sang lắm. Một lúc sau, chúng tôi được tiếp chuyện với một người khoảng 50 tuổi, cao lớn đẫy đà, cằm được tô điểm bằng một vòng râu đỏ hoe! Đó là người em út của ông kỹ sư vĩ đại. Đôi mắt hung tợn, đôi má lởm chởm những râu cạo xát, đầu tóc không chải, biểu lộ sự đau đớn đã giáng xuống cái gia đình này. Ông nói đứt đoạn:
- Tại vụ tai tiếng ghê tởm đó. Anh tôi có ý thức danh dự bén nhạy nên không thể trây mặt lâu hơn. Tim ông tan nát, ông luôn hãnh diện vì sự phục vụ của mình, ông không chịu nổi sự chấn động.
- Trước đây, chúng tôi hy vọng ông ấy có thể cung cấp cho vài chỉ dẫn giúp giải quyết câu chuyện.
- Tôi tin chắc rằng anh ấy cũng chẳng hiểu gì nhiều, cũng như ông và tất cả mọi người. Anh ấy đã thông báo cho cảnh sát tất cả những gì anh ấy biết. Tất nhiên anh ấy tin chắc rằng Cadogan West có tội. Phần còn lại hoàn toàn nằm ngoài sự hiểu biết của anh ấy.
- Ông không thể cung cấp cho chúng tôi một tin tức nào đem thêm ánh sáng mới cho nội vụ?
- Tự thân tôi không biết gì, ngoài những gì đã đọc hoặc nghe. Tôi xin lỗi, xin ông thông cảm cho hoàn cảnh chúng tôi hiện giờ. Tôi xin phép được coi cuộc nói chuyện này chấm dứt tại đây.
Trên đường về bằng xe ngựa, Holmes nói với tôi:
- Đây là một diễn biến hoàn toàn bất ngờ. Tôi không biết rằng đây có phải là cái chết tự nhiên hay ông này đã tự sát. Trong trường hợp thứ nhì, chúng ta có thể suy đoán rằng ông ấy hối hận vì đã sơ sót. Ngay bây giờ, chúng ta hãy qua gia đình Cadogan West.
Ở ven ranh thành phố, một ngôi nhà bé nhỏ tươm tất che chở một bà mẹ lâm cảnh tang tóc. Bà cụ bất hạnh này chả giúp đỡ chúng tôi được gì cả. Cạnh bà có c mặt tái xanh, tự giới thiệu là Violet Westbury, hôn thê của chàng trai và là người cuối cùng đã gặp nạn nhân.
- Tôi chả hiểu gì cả, ông Holmes ạ. Kể từ khi thảm kịch xảy ra, tôi có chợp mắt được đâu. Tôi chỉ suy nghĩ ngày lẫn đêm. Cadogan West là người trung thực, nghĩa hiệp và ái quốc nhất trên đời. Anh ấy có thể tự chặt tay mặt hơn là bán một bí mật quốc gia. Tất cả những ai quen biết anh ấy đều cho rằng nghi ngờ anh ấy là điều phi lý.
- Nhưng mà các dữ kiện sờ sờ ra đó, thưa cô Westbury.
- Tôi không thể hiểu được?
- Ông ấy cần tiền?
- Không đâu, anh ấy thanh đạm nên tiền lương kể như thừa thãi. Anh ấy đã tiết kiệm đến mấy trăm bảng và chúng tôi sẽ định kết hôn vào dịp năm mới này.
- Ông ấy không có biểu lộ triệu chứng rối loạn tâm thần. Nào, cô hãy tuyệt đối thành thật đi.
Con mắt sâu sắc của Holmes đã phát hiện một thay đổi nhỏ trong các cử chỉ của cô ta.
Cô hổ thẹn, rồi ngập ngừng.
- Dạ có. - Cuối cùng cô khai thật - Tôi có cảm giác rằng anh ấy đang lo lắng về một chuyện gì.
- Từ hồi nào?
- Khoảng một tuần, anh ấy đăm chiêu, lo lắng. Tôi có hỏi lý do. Anh ấy nhìn nhận có ưu tư, nhưng liên quan tới công vụ. “Quá nghiêm trọng để tiết lộ, dù là đối với em”. Anh ấy nói với tôi và tôi không thể biết nhiều hơn.
Holmes làm ra vẻ rất nghiêm nghị:
- Hãy nói tiếp, dù rằng cô thấy cô phản bội anh ấy. Hiện tại tất cả chúng ta đều đang bí mà.
- Một đôi lần, tôi có cảm giác anh ấy muộn tiết lộ điều gì đóột tối nọ, anh ấy nói về tầm quan trọng của một tài liệu bí mật và tôi nhớ có nghe nói rằng gián điệp ngoại quốc chắc chắn trả nhiều tiền.
Gương mặt Holmes trở nên nghiêm nghị hơn.
- Chỉ có bấy nhiêu?
- Anh ấy nói rằng chúng ta cẩu thả đối với những chuyện cùng loại. Bọn phản bội trộm tài liệu dễ ợt!
- Anh ấy chỉ mới tâm sự mới đây thôi ư?
- Vâng, rất mới.
- Cô hãy nói về cái đêm cuối cùng.
- Chúng tôi dự định đi xem hát. Sương mù dày đến nỗi chúng tôi thấy rằng đi xe ngựa cũng vô ích. Chúng tôi đi bộ. Đang đi qua văn phòng của anh ấy, thình lình anh ấy nhảy bổ vào trong sương mù.
- Không nói năng gì cả?
- Chỉ kêu lên một tiếng thôi. Tôi đợi, nhưng anh ấy không trở về. Tôi bèn về nhà. Sáng hôm sau, sau giờ mở cửa công sở, người ta tới thẩm vấn tôi. Khoảng 12 giờ, chúng tôi hay tin dữ. Ồ, thưa ông Holmes, nếu có khả năng, ông hãy cứu lấy danh dự của anh ấy.
Holmes lắc đầu một cách buồn thảm:
- Nào, Watson. Chúng ta qua nơi khác, qua văn phòng, nơi mà các bản vẽ bị đánh cắp.
Khi ngồi vào xe, Holmes nói thêm:
- Tất cả đã khá bất lợi cho chàng thanh niên và các cuộc điều tra của chúng ta chỉ củng cố thêm cái cảm giác không hay này. Dự định làm đám cưới là động cơ của tội ác. Đương nhiên, hắn cần tiền, hắn bị ám ảnh, nên đã nói ra. Hắn gần như đã biến cô bé thành đồng phạm khi tâm sự với cô ấy về các kế hoạch của mình.
- Dù sao cái tính khí cũng đóng một vai trò
- Tại sao hắn bỏ người vợ ở ngoài đường và nhảy bổ đi làm chuyện phi pháp?
- Có những cái phản bác đáng kể. Đây là vụ vô cùng khó gỡ.
Ông Sidney Johnson, viên chánh thư ký tiếp chúng tôi tại văn phòng với sự tôn kính. Đó là một người đeo kính, gầy, cau có, không thể đoán tuổi được, má đã hóp, đôi tay run run.
- Thật là khủng khiếp, ông Holmes.
- Ông có hay rằng ông sếp đã chết?
- Chúng tôi từ đằng đó tới đây.
- Tất cả đều tan vỡ: sếp chết, Cadogan West chết, tài liệu bị đánh cắp. Khi chúng tôi đóng cửa vào tối thứ hai, sở này vẫn hoạt động như tất cả các sở khác của Chính phủ, Chúa ơi! Nghĩ tới thật đáng tởm, thằng Cadogan West cả gan làm việc tày trời.
- Như vậy là ông cho rằng anh ta có tội?
- Tôi không thấy có giải pháp thứ hai. Tuy nhiên tôi tin cậy y như tin cậy vào chính bản thân tôi.
- Sở đóng cửa vào mấy giờ tối thứ hai?
- Hồi 5 giờ.
- Chính ông đóng?
- Tôi luôn là người sau cùng rời khỏi sở.
- Lúc bấy giờ thì các bản vẽ ở đâu?
- Trong tủ sắt này. Đích thân tôi để vào.
- Có người bảo vệ nào chịu trách nhiệm về tòa nhà này?
- Có chứ, nhưng ông ấy đồng thời canh chừng các tòa nhà khác nữa, ông ta là một chiến sĩ cao niên, hoàn toàn đáng tin cậy. Ông ta không thấy gì xảy ra cả. Đêm đó sương mù dày đặc.
- Giả dụ Cadogan West muốn vào tòa nhà sau giờ đóng cửa, y phải cần đến ba chìa khóa mới lấy được giấy tờ trong tủ sắt, phải vậy không.
- Đúng thế, chìa khóa cửa ngoài, chìa khóa phòng và chìa khóa của tủ sắt.
- Ngài James có phải là một người rất cẩn thận hay không?
- Phải, về các chìa khóa đó, ông luôn luôn móc nó vào cùng một vòng, tôi thường thấy như vậy.
- Và ông ấy luôn luôn mang chùm chìa khóa về London?
- Ông ấy nói với tôi như thế!
- Còn cái chìa khóa của ông thì không bao giờ rời khỏi ông chứ?
- Không bao giờ.
- Vậy, nếu Cadogan West là thủ phạm, hắn đã phải thuê làm những chìa khóa đôi. Tuy nhiên chúng tôi không thấy chìa nào trong xác của y. Ngoài ra, nếu một thư ký trong sở này muốn bán bản vẽ, chuyện giản dị là sao chép, chứ ai lại đánh cắp các bản chính như đã xảy ra?
- Để sao đúng các bản vẽ, phải có trình độ kỹ thuật cao.
- Tôi suy đoán rằng: ngài James hoặc ông, hoặc Cadogan West, các ông đều có kiến thức kỹ thuật này?
- Tất nhiên, nhưng tôi yêu cầu ông đừng mưu kéo tôi vào nội vụ, thưa ông Holmes. Thảo luận dông dài như thế này có ích lợi gì khi mà các bản vẽ đều được tìm thấy trong người của Cadogan West.
- Chịu rủi ro khi ăn cắp các bản chính trong khi có thể sao chép một cách an toàn! Quả là chuyện lạ!
- Lạ thật... Tuy nhiên y đã làm điều lạ lùng đó.
- Trong vụ này, càng đi sâu càng thấy thêm khó hiểu. Còn thiếu vắng ba bản vẽ. Theo tôi được biết, thì đấy là ba bản chính yếu?
- Đúng thế!
- Vậy là ông đồng ý rằng người sở hữu ba bản vẽ đó, tuy thiếu bảy bản vẽ kia, vẫn có thể đóng một tàu ngầm Bruce Pardington?
- Chính đó là điều tôi đã khai tại Bộ tư lệnh Hải quân. Nhưng hôm nay sau khi suy nghĩ lại, tôi không còn quả quyết như trước nửa. Những cái van đôi với đường rãnh ăn khớp với nhau được vẽ trong một bản vẽ nằm trong mình Cadogan West. Nếu không tự chế ra những cái van này, người nước ngoài không thể đóng chiếc tàu ngầm đó được Tất nhiên đó không phải là một trở ngại không thể vượt qua.
- Dù sao ba cái thiếu vắng là những cái quan trọng nhất?
- Đúng thế!
- Tôi xin phép đi tham quan một vòng, vì thấy không cần hỏi ông nữa.
Holmes khám nghiệm ổ khóa của tủ sắt, cửa lớn của căn phòng và sau cùng quan sát các cánh sắt của cửa sổ. Chỉ khi chúng tôi quay về bồn cỏ, Holmes mới hồ hởi trở lại. Ngoài cửa sổ có cây nguyệt quế mà nhiều nhánh có dấu vết bị bẻ quẹo hoặc bị gãy. Holmes khám nghiệm các dấu vết này bằng kính lúp, đồng thời cũng quan sát dấu tay lờ mờ trên đó. Cuối cùng, sau khi yêu cầu ông chánh thư ký đóng các cánh sắt của cửa sổ, Holmes lưu ý tôi rằng chúng không sít sao lắm và cho thấy từ ngoài, người ta có thể theo dõi những gì đang xảy ra bên trong.
- Các dấu vết đã hư hỏng vì chúng ta đến trễ tới ba ngày, có thể chúng chả có ý nghĩa gì cả. Nào Watson, có lẽ không còn gì quan trọng để tìm hiểu tại Woolwich. Kết quả thật là mỏng manh, có lẽ về London sẽ gặt hái được khá hơn.
Tuy nhiên, trước khi rời Woolwich, chúng tôi gặp một người bán vé tàu quả quyết rằng có thấy Cadogan West, mà ông ta quen mặt, đi London Bridge bằng chuyến tàu 8 giờ 15. Đi một mình với vé hạng ba. Nét mặt bực dọc, anh ta rối trí đến nỗi rất vụng về. Khi nhận tiền thừa trả lại, chính ông đã phải giúp đỡ anh ta. Dò lại trên bảng chỉ dẫn, chúng tôi nhận thấy rằng chuyến tàu 8 giờ 15 là chuyến tàu đầu tiên mà Cadogan West có thể đi, sau khi rời người vợ sắp cưới khoảng 7 giờ 30.
- Chúng ta hãy ôn lại. - Holmes nói, sau nửa giờ im lặng suy tư - Chưa bao giờ ta gặp một vụ khó như thế này. Mỗi lần bước thêm một bước, lại gặp thêm một bức tường. Cuộc điều tra của chúng ta tại Woolwich đi đến một kết luận không thuận lợi cho lắm. Các dấu vết thu lượm tại cửa sổ sẽ khớp với một giả thiết kém ảm đạm hơn. Thí dụ, một điệp viên nước ngoài có tiếp xúc với y. Cuộc tiếp xúc này có thể đã diễn theo các cách thức nào đó mà y thấy khó tiết lộ. Tuy vậy, y cũng khá bạo để xì ra một chút với vị hôn thê của mình. Giờ đây, trên đường đi xem hát với cô gái, y thấy qua sương mù, cũng chính người điệp viên đó đi về hướng văn phòng. Tính tình nóng nảy, y quyết định ngay và đặt nhiệm vụ là trên tất cả, y theo dõi qua cửa sổ, thấy tài liệu bị ăn cắp, nên rình đuổi kẻ trộm. Vậy là ta giải quyết được cái khúc mắc giữa ăn trộm tài liệu hay sao chép Người lạ mặt đó phải ăn cắp tài liệu vì y không thể sao chép chúng tại chỗ. Tới đây, thì tất cả đều ăn khớp với nhau.
- Rồi sau đó?
- Sau đó, vì tình huống đặc biệt, chàng thanh niên đã phải bắt kẻ trộm và báo động.
- Tại sao y đã không làm.
- Có thể tại vì kẻ trộm là một trong các thượng cấp của y. Giả thiết này giải thích cách xử sự của Cadogan West. Hoặc giả rằng trong sương mù, anh ta đi lạc và đã lên đường đi London ngay để tìm kiếm kẻ trộm tại nhà nó. Giả thiết rằng anh ta biết địa chỉ của nó. Chuyện phải là khẩn cấp lắm, bởi vì anh ta đã bỏ cô bé đứng một mình trong sương mù. Tới đây lối đi tẻ lạnh trở lại và một lỗ hổng to tướng nằm chắn giữa giả thiết của tôi. Dữ kiện rằng xác của Cadogan West cùng với bảy bản vẽ trong túi được đặt trên mui một xe điện ngầm? Trực giác buộc tôi khởi sự từ đầu kia của sợi chỉ. Có lẽ ta nên nhận dạng đối tượng của ta và đi theo hai lối, thay vì một.
Tất nhiên có một điệp văn chờ chúng tôi tại đường Baker. Một tổng thư văn đã trao đến. Holmes nhìn qua rồi trao cho tôi.
- Ḅn gián điệp nhãi nhép này nhung nhúc, nhưng kẻ có khả năng làm chuyện phi thường thì không nhiều đâu. Các tên đáng lưu ý là Adolph Meyer ở số 15 phố George Đại Đế, Westminster; Louis La Rothiere, Campden Mansions, Notting Hill và Hugo Oberstein, số 13 Caulfield Gardens, Kensington. Anh chàng này có mặt tại London vào thứ hai, nhưng người ta đoán chắc rằng y không còn ở đây nữa. Vui mừng khi hay tin rằng các chú có thấy một tia sáng. Nội các nóng lòng chờ báo cáo của chú. Đã có những lời khiển trách từ giới rất cao gửi xuống. Tất cả quyền lực của quốc gia đều đặt dưới quyền sử dụng của chú nếu có yêu cầu. Mycroft”.
- Tôi ngại rằng - Holmes cười và nói - Toàn thể kỵ binh và bộ binh của Nữ hoàng cũng chả giúp gì được tôi trong vụ này.
Holmes trải một bản đồ lớn của London rồi cúi xuống nhìn.
-… À, à! - Sau đó, Holmes nói với vẻ hài lòng. - Sự việc xoay theo một chiều thuận lợi hơn, anh Watson à! Tôi tin chắc rằng ta sẽ gỡ rối được.
Holmes vỗ vai tôi và đột ngột cười to tiếng:
- Tôi sẽ ra ngoài để thám sát qua loa. Tôi sẽ không làm điều gì quan trọng nếu thiếu anh. Anh ở lại đây: chắc chắn tôi sẽ quay lại trong một hay hai giờ. Nếu thấy quá lâu thì lấy giấy bút và bắt đầu tường thuật việc anh em mình đã cứu nguy đất nước như thế nào.
Tôi chờ suốt đêm, mỗi lúc một bồn chồn hơn. Cuối cùng khoảng sau 9 giờ, một sứ giả đến với tờ giấy này:
“Tôi ăn tại quán Goldini Gloucester, Kensington. Yêu cầu anh tới gặp tôi ngay. Nhớ mang theo kìm nạy cửa của bọn ăn trộm, một đèn ló, một cây kéo và một súng lục - S H”.
Tôi nhét tất cả các thứ lỉnh kỉnh vào trong áo choàng và bảo xe đưa tôi đến địa chỉ trên. Trong cái quán cũ Ý sang trọng, Holmes đang ngồi trước một bàn tròn nhỏ.
- Đã ăn gì chưa? Vậy thì uống cà phê với tôi, hay nhâm nhi một cốc ca-cao. Hãy hút một điếu thuốc của chủ hiệu. Có mang theo dụng cụ không?
- Hoan hô! Tôi sẽ tóm tắt những gì tôi đã làm và nói qua về việc chúng ta sẽ làm. Chắc chắn anh chưa đồng ý với tôi về việc xác chết được vứt lên mui toa. Tôi quả quyết như thế, chứ không phải bị vứt ra từ cửa toa.
- Không phải từ cầu rơi xuống mui toa?
- Không thể được! Nếu khám nghiệm các mui xe, anh sẽ thấy rằng chúng hơi cong, lại không có bờ ngăn. Anh cứ tin chắc rằng xác chết được vứt lên mui toa.
- Bằng cách nào?
- Chỉ có một giải thích đúng đắn mà thôi. Anh biết tàu chạy giữa trời xuyên qua vài chỗ của khu West End. Tôi nhớ lờ mờ rằng, một ngày nọ khi tôi đi tàu điện ngầm, tôi thấy những cửa sổ ngay trên đầu tôi. Nếu tàu điện ngừng ngay dưới một trong các cửa sổ này, thì vứt xác lên mui xe là chuyện dễ như trở bàn tay.
- Không thể như vậy được?
- Chúng ta bắt buộc phải nghĩ rằng khi các khả năng khác đều không hợp với thực tế, thì cái còn lại dù quái dị đi nữa, vẫn là sự thật. Các giải thích khác đều sai hết rồi. Khi tôi phát hiện tên điệp viên quốc tế sừng sỏ, hiện vắng mặt tại London lại ở tại một ngôi nhà trông xuống đường xe điện ngầm thì nỗi hân hoan bừng hẳn lên như anh đã ngạc nhiên.
- Chính vì thế...
- Vâng, chính vì thế mà Hugo Oberstein, số 13 Caulfield Gardens trở thành đối tượng của tôi. Tôi đã bắt đầu làm việc tại ga Gloucester. Một nhân viên dễ thương đã đưa tôi ra đường tàu điện ngầm và đã giúp tôi thấy rõ chẳng những cầu thang của cao ốc Caulfield Gardens ngó ra đường tàu mà tôi còn biết thêm một sự kiện quan trọng hơn là gần đó đường tàu điện gặp đường sắt, nên các đoàn tàu điện phải đậu lại vài phút.
- Thật kỳ diệu, Holmes ạ! Vậy là anh đã giải bài toán.
- Chưa hẳn. Ta có tiến tới, nhưng mục tiêu hãy còn xa. Sau khi ngắm nghía các bức tường phía sau của cao ốc Caulfield Gardens, tôi đã quan sát mặt tiền và đã kiểm chứng rằng con mồi của ta đã bay thật sự. Nhà của y mênh mông, các tầng trên, theo tôi thì không có đồ gỗ. Oberstein sống tại đó với một gia nô độc nhất, có lẽ là một đồng phạm được sự tin cậy hoàn toàn. Ta phải nhớ rằng: Oberstein đi vào lục địa là để thanh toán cái chiến lợi phẩm vừa rồi chứ không phải để chạy trốn. Y không có lý do để sợ một trát bắt giam hoặc một trát lục soát. Y không bao giờ dự kiến sẽ có một anh chàng nghiệp dư vào khám nhà.
- Hay là xin một cái trát để hợp pháp hóa việc làm của chúng ta.
- Đâu có bằng cớ cụ thể!
- Lục soát để kiếm được cái gì?
- Có thể là tìm một bức thư lý thú.
- Tôi không thích điều đó, Holmes à!
- Watson à, anh canh ngoài đường. Còn tôi thì tự dành cái vai tội đại hình. Không phải là lúc để chúng ta bàn tán. Hãy nghĩ tới Mycroft tới Bộ tư lệnh Hải quân, tới nội các, tới viên chức cao cấp đang đợi tin. Chúng ta phải hành động thôi.
Để trả lời, tôi đứng lên:
- Anh có lý! Chúng ta phải hành động thôi.
Holmes cũng đứng lên bắt tay tôi:
- Tôi biết chắc rằng anh không bao giờ bỏ rơi tôi vào phút nguy nan.
Trong chớp nhoáng tôi đọc trong mắt anh một tình cảm gần như sự trìu mến. Ngay sau đó anh lấy lại sự tự chủ và tỏ ra thực tế.
- Chỉ cách đây khoảng nửa dặm thôi, chúng ta cứ đi thong thả thôi. Anh nhớ đừng có bỏ quên dụng cụ. Việc anh bị cảnh sát bắt sẽ là một rắc rối đáng tiếc.
Tới nơi, Holmes thắp đèn lồng để chiếu sáng cái cửa
- Trở ngại đáng kể. Nó chắc chắn được phòng vệ bằng song sắt và được đóng chốt kỹ. Ta sẽ thoải mái hơn nếu ở ngoài sáng, có một cái vòm thấp hơn một chút để dự phòng trường hợp một cảnh sát viên quấy rầy chúng ta.
Một lát sau, cả hai chúng tôi trèo qua bức tường nhỏ, lọt vào cái sân trong nhà. Vừa đến góc có nhiều bóng tối nhất, chúng tôi nghe bước đi của một cảnh sát viên ngay trên đầu chúng tôi. Khi ông ta đi xa rồi, Holmes cúi xuống và đập mạnh vào cánh cửa dưới thấp cho tới khi cửa mở. Chúng tôi lọt vào một hành lang tối om và đóng cửa lại. Holmes đi trước để leo lên một cầu thang bằng đá trần. Đèn lồng chiếu ánh sáng màu vàng vào một cửa sổ thấp.
- Chắc chắn là cái cửa sổ này.
Holmes đẩy mạnh.
Cùng lúc đó chúng tôi nghe tiếng gầm nhỏ, thô, dần đà lớn dần, trở thành tiếng gào thét: đó là đoàn tàu điện ngầm chạy bên dưới chúng tôi trong đêm tối. Holmes chiếu sáng dọc bệ cửa đầy khói đen dày từ đầu máy phun lên. Diện tích vệt đen này có chỗ bị quệt nguệch ngoạc hoặc bị xóa hẳn.
- Anh thấy chỗ chúng đặt tử thi chưa. À Watson, cái gì kia? Một vệt máu, chắc chắn mà.
Anh chỉ cho tôi những chỗ nhạt màu trên bệ cửa sổ.
- Kìa, một vệt máu khác trên đá cầu thang. Chúng ta hãy ở lại đây chờ một đoàn tàu khác ngừng.
Không phải đợi lâu, đoàn kế tiếp gào rống khi ra khỏi đường hầm giống hệt đoàn trước rồi tiếng thắng ken két rít lên và đoàn tàu ngừng lại ngay bên dưới chúng tôi. Chỉ cách khoảng 4 bộ giữa bệ cửa sổ và cái mui của toa. Holmes nhè nhẹ đóng cửa sổ lại.
- Thực tế ăn khớp với giả thiết. Anh nghĩ sao, Watson?
- Một kiệt tác, chưa bao giờ anh nhận xét hay đến thế!
- Nghi tôi nghĩ rằng tử thi rơi xuống từ mui. Một suy nghĩ rõ ràng là không dở. Và mọi việc sẽ được suy ra từ đó. Nhưng sự khổ nhọc của chúng ta chưa dứt đâu. Có thể tại đây chúng ta sẽ gặp một vài điều hữu ích.
Chúng tôi leo cầu thang nhà bếp, lọt vào hành lang nối liền các văn phòng của tầng hai. Một căn phòng là ăn, giản dị tới mức khắc khổ. Căn thứ nhì là phòng ngủ cũng chả đem lại yếu tố nào mới mẻ. Căn cuối có vẻ hứa hẹn hơn, do đó Holmes ra công khám nghiệm nó một cách lớp lang. Đầy dẫy sách báo của một nơi được dang làm văn phòng, Holmes nhanh chóng khám xét mỗi ngăn kéo, mỗi tủ. Nhưng sau một giờ lục soát, không kiếm ra được gì.
- Con chó tinh khôn này đã xóa dấu vết trên đường nó đi. Đây là cái may mắn chót của chúng ta.
Chỉ còn cái hộp nhỏ bằng sắt trắng để trên bàn giấy. Holmes mở nó bằng một cái kéo. Bên trong có nhiều cuộn giấy đầy số và tính. Có cuộn giấy chữ được lặp lại liên tục: “sức ép của nước”, “sức ép trên một inch vuông”. Có thể chúng liên quan tới một tàu ngầm? Bực bội, Holmes vứt chúng qua một bên. Còn lại trong phong bì chứa vài mẫu cắt trong báo. Anh để chúng ra bàn, bỗng khuôn mặt của anh sáng ra.
- Có ý nghĩa gì đây, Watson. Nè, một loạt điệp văn trong cột nhắn tin ở góc phải trên của trang báo không ngày tháng, có lẽ là tờ Daily Telegraph.
Các điệp văn khớp nhau. Đây là cái đầu tiên:
“Tôi đợi tin tức sớm hơn. Đồng ý về các điều kiện. Viết thư qua địa chỉ trên thiếp. PIERROT.”
Cái kế tiếp:
“Quá rắc rối không mô tả được, cần phải làm báo cáo tường tận. Tiền trao, cháo múc. PIERROT.”.
Rồi đến bức điện văn này:
“Cấp bách lắm rồi, tôi phải rút lại đề nghị, nếu hợp đồng không được thực hiện. Hãy cho cái hẹn bằng thư. Tôi sẽ xác nhận lại bằng cách nhắn tin
Cuối cùng là:
“Tối thứ hai. Gõ hai tiếng, sau 9 giờ. Chỉ có chúng ta mà thôi. Đừng nghi ngại quá. Tiền mặt khi giao hàng. PIERROT.”.
- Sự việc gần như trọn vẹn, Watson à. Phải chi thộp được thằng ở đầu kia.
Gõ nhẹ trên bàn, Holmes suy nghĩ trong giây lát.
- Suy cho cùng, có lẽ không khó đâu. Chúng ta chả còn gì để làm tại đây. Ta phải đi tới báo Daily Telegraph và xứng đáng kết thúc một ngày công tác tốt đẹp.
Sáng hôm sau, Mycroft và Lestrade mau mắn đi tới điểm hẹn. Holmes tường thuật chuyện đêm qua. Viên thám tử chuyên nghiệp lắc đầu khi nghe việc phá cửa, đục tường của chúng tôi.
- Trong ngành cảnh sát - Lestrade thì thầm - Chúng tôi không thể làm những điều tương tự. Đó là lý do vì sao ông thành công nhiều hơn chúng tôi. Tuy nhiên một ngày nào đó, ông đi quá xa và sẽ gặp rắc rối đó.
- Vì Anh quốc, vì Tổ quốc, vì cái đẹp, phải không Watson. Hai con vật hy sinh trên bàn thờ Tổ quốc. Còn anh Mycroft, anh nghĩ sao?
- Tuyệt Sherlock, đáng phục! Nhưng rồi đi tới đâu nữa?
Holmes cầm tờ Daily Telegtaph đang nằm trên bàn.
- Mấy anh chưa đọc cái nhắn tin của hôm nay à?
- Sao? Lại nhắn tin?
- Đúng thế.
Đây là nội dung:
“Tối nay gõ 2 tiếng. Chỗ hẹn cũ. Giờ cũ. Tối quan trọng. Sự an toàn của bạn lâm nguy. PIERROT.”
- Chúa ơi! - Lestrade la lớn - Y tới, ta thộp thôi.
- Đó là điều tôi nghĩ, khi tôi thuê đăng cái nhắn tin. Nếu ông vui lòng, mời ông đến gặp lại chúng tôi khoảng 8 giờ tại Caulfield Gardens. Giải đáp đã gần kề.
Khoảng 9 giờ, tất cả chúng tôi đều ngồi trong văn phòng của tên điệp viên ngoại quốc, nhẫn nại chờ con mồi. Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa, lúc 11 giờ, khi chuông nhà thờ kế cận ngân vang, chúng tôi tưởng hy vọng đã tiêu tan Lestrade và Mycroft bồn chồn trên ghế, cứ hai phút lại nhìn đồng hồ một lần, Holmes thì ngồi như phỗng đá, mắt nửa nhắm, mắt nửa mở, cảnh giác cao độ. Thình lình anh ngẩng đầu.
- Nó đến! - Holmes nói.
Một người rón rén đi qua cửa. Đứng lại rồi quay ra sau, chúng tôi nghe những bước đi chậm và hai tiếng động cửa. Ngoài lan can, đèn lồng đã được vặn thấp xuống. Holmes mở cánh cửa trông ra đường: một bóng đen lọt vào bên trong. Anh khép cửa lại rồi gài chốt. Chúng tôi nghe anh nói nhỏ: “Đi lối này!”.
Ngay sau đó, con mồi đứng trước mặt chúng tôi. Holmes đi sau nó. Khi nó quay lại thốt lên một tiếng la ngạc nhiên và sợ sệt thì đã bị Holmes tóm cổ, ấn và trong phòng. Sau khi tên tù lấy lại bình tĩnh thì cửa đã đóng lại và Holmes tựa lưng vào cửa. Tên tù nhìn quanh, lảo đảo rồi ngã bất tỉnh xuống sàn nhà. Cái mũ rộng vành của nó tung ra, xuất hiện các đường nét thanh tú và chòm râu quai nón đỏ hoe của đại tá Valentine Walter. Holmes thốt ra một tiếng huýt sáo nhỏ vì ngạc nhiên.
- Lần này thì anh có thể liệt tôi vào hạng con lừa, Watson. Đâu phải con mồi mà tôi dự kiến.
- Ai hả? - Mycroft háo hức hỏi.
- Em trai của ngài James Walter.
Chúng tôi dã khiêng cái xác ngất xỉu để lên tràng kỷ. Lát sau hắn ngồi dậy nhìn quanh với khuôn mặt méo mó vì kinh hoàng và lấy tay sờ nhẹ lên trán như một người không tin vào giác quan mình.
- Nghĩa là sao? Tôi tới đây để nói chuyện với ông Oberstein mà
- Tan vỡ hết rồi, đại tá ơi! - Holmes đáp - Tôi thú thực không hiểu tại sao một bậc trượng phu Anh quốc có thể xử sự như vậy. Tất cả liên lạc thư tín giữa ông với Oberstein, chúng tôi đã nắm hết. Và các tình huống về cái chết của Cadogan West đã cho phép chúng tôi đưa ra một lời khuyên: hãy lấy lại một chút uy tín bằng sự ăn năn và thú tội thành thật. Chúng tôi cần chính ông cho thêm vài chi tiết.
Hắn rên rỉ và lấy tay che mặt, câm miệng.
- Chúng tôi biết ông cần tiền cấp bách. Ông thuê làm chìa khóa giã từ các chìa do anh ông giữ và ông quan hệ với Oberstein. Người này trả lời cho ông qua cột nhắn tin của tờ Daily Telegraph. Chúng tôi biết ông tới văn phòng trong sương mù vào buổi tối thứ hai. Ông bị Cadogan West phát hiện và theo dõi, người thanh niên cao đẹp này có cơ sở để theo dõi ông từ trước. Cadogan West đã chứng kiến màn ăn trộm nhưng không thể báo động vì còn cho rằng có thể ông tuân lệnh anh ông đến lấy bản đồ. Quên hẳn người yêu, Cadogan West bám sát ông trong sương mù cho tới tận nhà này. Tại đây, Cadogan West lộ mặt và bị ông giết.
- Không! Trước mặt Chúa, tôi thề rằng tôi không giết nó! - Người tù của chúng tôi kêu lớn.
- Vậy thì ông cho chúng tôi biết Cadogan West đã chết như thế nào trước khi bị vứt xác trên mui tàu điện ngầm.
- Tôi xin thú thật mọi chuyện đã diễn ra đúng như ông trình bày. Tôi phải trả một món nợ vì chơi chứng khoán. Oberstein đề nghị đưa tôi 5000 bảng Anh, cứu tôi khỏi sự khánh kiệt. Tuy nhiên về cái tội giết người tôi hoàn toàn vô tội.
- Yêu cầu ông nói rõ hơn.
- Mấy lúc gần đây, West nghi ngờ tôi và theo dõi tôi nhưng tôi không hay biết trước khi anh ta tới nhà này.
Sương mù bữa đó dày đặc, cách ba yard có thấy gì đâu. Tôi gõ hai lần và Oberstein ra mở cửa. Từ cánh cửa hé mở, West nhảy bổ tới, hỏi chúng tôi lấy bản vẽ làm gì. Oberstein liền cầm cái dùi cui đập vỡ đầu West, ném xác người thanh niên ra ngoài hành lang. Chúng tôi không biết phải làm sao thanh toán cái xác này, chính lúc đó Oberstein mới các chuyến tàu đậu dưới cửa sổ sau nhà. Trước tiên, Oberstein xem xét các bản vẽ tôi mang tới. Hắn nói:
- Ba bản này rất quan trọng, phải để lại đây.
- Không được đâu, sẽ náo loạn khủng khiếp tại Woolwich nếu tôi không mang trả lại!
- Tôi phải giữ lại, bởi vì chúng quá rắc rối, không có thời gian để sao chép.
- Tất cả đều phải được trả lại ngay trong đêm - Tôi nói.
Hắn suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Thôi được, tôi giữ lại ba bản, còn mấy bản kia, ta bỏ vào túi anh chàng này. Khi xác chết bị phát hiện thì nó lãnh đủ hết.
Vì không thấy có giải pháp khác, chúng tôi làm như hắn gợi ý: chúng tôi rình rập nửa giờ tại cửa sổ chờ một chuyến tàu dừng lại. Sương mù dày đặc. Do đó chúng tôi dễ dàng vứt xác của Cadogan West lên mui xe. Đối với tôi, công việc chấm dứt tại đấy.
- Còn anh của ông?
- Anh tôi không nói gì với tôi, dù có lần bắt gặp tôi cầm mấy cái chìa khóa của ông. Tôi tin rằng ông ngờ vực tôi. Qua mắt ông, tôi nghĩ rằng ông biết tôi là thủ phạm. Như các ông biết, ông không bao giờ nhìn mặt tôi nữa.
Sự yên lặng ngự trị căn phòng.
- Đề nghị ông hãy làm nhẹ lương tâm và giảm thiểu hình phạt của mình - Mycroft nói.
- Tôi phải làm gì?
- Oberstein cùng với các bản vẽ hiện ở đâu?
- Tôi không biết.
- Thằng khốn đó không cho ông địa chỉ ư
- Hắn có dặn, nếu cần thì viết thư cho hắn tại khách sạn Le Louvre ở Paris.
- Như vậy là được rồi - Holmes nói.
- Tất cả những gì thuộc phạm vi khả năng của tôi, tôi sẽ làm hết. Hắn là nguyên nhân của sự suy sụp của tôi.
- Đây là giấy bút, ngồi xuống viết theo lời tôi đọc: “Thưa ông, có lẽ ông đã nhận thấy ông còn thiếu một chi tiết thiết yếu. Tôi còn giữ một bức vẽ bổ sung toàn bộ. Tuy nhiên, tôi xin thêm 500 bảng Anh nữa. Tôi không gửi qua bưu điện, tôi chỉ nhận vàng hoặc giấy bạc ngân hàng. Tôi sẵn sàng đi nước ngoài để gặp ông, nhưng sự xuất ngoại của tôi chắc chắn sẽ gây ra tiếng ồn ào. Tôi đề nghị được gặp ông 12 giờ trưa thứ bảy tại quán ăn của khách sạn Charing”. Xong rồi, có chết nó cũng tới nhà.
Hắn chạy tới. Đó là một điểm lịch sử, lịch sử gián điệp có khi còn hấp dẫn hơn lịch sử công khai. Oberstein vì háo hức muốn hoàn tất sự nghiệp của đời mình, đã lọt vào bẫy và bị 15 năm tù. Trong va li của hắn, có các bản vẽ của tàu ngầm Bruce Pardington. Hắn chuẩn bị bán đấu giá cho các hải quân châu Âu. Đại tá Walter chết trong tù. Còn Holmes quay về cuộc nghiên cứu âm nhạc. Tác phẩm được phát hành bằng vốn tư, người sành nhạc khen nó là một công trình có giá trị.
Vài tuần sau, tình cờ tôi hay tin rằng Holmes đã đến thăm cung điện Windsor. Anh mang về một viên ngọc bích tuyệt đẹp gắn trên kẹp cà vạt. Khi tôi hỏi, anh trả lời rằng, đó là quà tặng của một mệnh phụ phu nhân kiều diễm. Tôi biết rõ đấng mẫu nghi đó là ai và tôi tin rằng cái kẹp cà vạt đó luôn luôn nhắc nhở anh nhớ tới chuyến đi tìm bản vẽ của chiếc tàu ngầm Bruce Pardington.
Hết