Cuộc đời của Pi ( Tập 1 ) - Chương 13 + 14
Chương 13
Rồi đến lượt đạo Hồi, chưa đầy một năm sau đó. Tôi đã mười lăm tuổi và đang thời thám hiểm chính ngay thành phố quê hương của mình. Khu phố của người Hồi giáo không xa vườn thú là mấy. Một khu cư dân nhỏ, yên tĩnh với những dòng chữ Arập và hình trăng lưỡi liềm sơn trên mặt tiền các ngôi nhà.
Tôi đến phố Mullah. Tôi thử ngó một cái vào Jamia Masjid, ngôi Đền Lớn của người Hồi giáo ở đó, tất nhiên vẫn thận trọng không dám vào hẳn bên trong. Hồi giáo có nhiều tai tiếng và tồi tệ hơn cả Cơ đốc giáo – ít thần thánh hơn, nhiều bạo lực hơn, và chưa thấy ai nói điều gì tốt về trường học Hồi giáo bao giờ - cho nên tôi không định bước vào đó làm gì, mặc dù lúc đó chẳng có ai. Ngôi đền sạch sẽ và trắng trẻo trừ một số cạnh sơn xanh lá cây, là một cấu trúc mở chạy quanh một gian phòng trống ở giữa. Chỗ nào cũng thấy trải những tấm chiếu dài bện bằng rơm. Phía trên, hai ngọn tháp mảnh dẻ vươn lên trời bên cạnh những tầu cọ sum suê. Không có vẻ tín ngưỡng gì rõ rệt, và do vậy có thể khiến cho ngôi đền thú vị hơn, những là một nơi yên tĩnh và thanh thản.
Tôi đi tiếp. Ngay sau ngôi đền là một dãy nhà ở liền vách nhau với những lối vào có hiên che. Những ngôi nhà sập sệ và nghèo nàn, vữa trát tường xanh lá cây đã phai màu hết cả. Một cái nhà trong dãy đó là một cửa hàng nhỏ. Tôi thấy một cái giá bầy những chai nước Thums Up bụi bặm với bốn cái bình nhựa trong đựng kẹo lỏng chỏng bên trong. Những món hành chính là thứ khác, một thứ gì bèn bẹt, tròn tròn và trăng trắng. Tôi đến gần. Hình như là một thứ bánh bột mì không có men. Tôi chọc thử ngón tay vào một cái. Cứng như mo. Giống như đã để ba ngày không có ai ăn. Ai có thể mua thứ bánh này nhỉ? Tôi nhặt hẳn một cái lên tay và lắc lắc xem nó có gẫy ra không.
Một giọng người cất lên, “Cậu có muốn nếm một cái không?”
Tôi hết hồn. Ai cũng biết lúc ấy nó ra sao rồi: mắt hoa chỉ thấy các đốm sáng tối và các mảng màu sắc hình thù khác nhau nhảy loạn xạ, còn tâm trí thì đi đâu mất - chẳng còn thấy gì trước mặt cả.
Cách đó độ hơn một thước, ngồi xếp chân bằng tròn đằng sau những cái bánh kia, là một người đàn ông. Tôi giật mình khiếp đến nỗi tay vung lên và cái bánh bay vèo ra giữa phố. Nó rơi tọet ngay xuống một bãi phân bò.
“Thôi chết! Xin ông tha lỗi cho! Cháu không nhìn thấy ông!” Tôi luýnh quýnh. Định sửa soạn chạy ù đi chỗ khác.
“Không sao,” ông nói bình thản. “Rồi một con bò sẽ được ăn cái đó. Cậu thử cái khác này.”
Ông xé cái bánh ra làm đôi. Chúng tôi cùng ăn. Nó cứng và dai như cao su, mỏi cả răng, nhưng mà dễ no. Tôi bình tĩnh lại.
“Bác làm chúng đấy ạ?” Tôi nói, cốt cho có chuyện.
“Vâng. Vào đây, để tôi chỉ cho cậu xem.” Ông đứng dậy rồi vẫy tôi vào nhà.
Một căn nhà tuềnh toàng có hai phòng. Phòng rộng hơn bị choán gần hết bởi một cái lò nướng, là xưởng bánh, và phòng kia, chỉ ngăn cách bằng một cái rèm tòm tem, là nơi ngủ của ông chủ. Đáy lò rải một lớp sỏi nhẵn. Ông đang giảng giải cho tôi cách nướng bánh trên những hòn sỏi hun nóng kia thì nghe thấy tiếng người xướng kinh cất lên từ phía đền thờ, giọng mũi ngân nga như một dòng chảy uốn lượn trên không trung. Tôi biết đó là tiếng gọi đến giờ cầu nguyện, nhưng chưa biết kết quả của nó là gì. Tôi tưởng tượng nó sẽ gọi tín đồ Hồi giáo đến thánh đường của họ, cũng như những hồi chuông gọi người Cơ đốc chúng tôi đến nhà thờ. Nhưng không phải vậy. Ông làm bánh đột ngột dừng lời. “Xin cậu cảm phiền,” ông nói, chui vào căn phòng bên cạnh độ một phút rồi trở ra với một tấm thảm cuộn tròn. Ông trải tấm thảm xuống sàn xưởng làm bánh, làm bụi bột mì bốc lên mù mịt. Rổi ở đó, ngay trước mắt tôi, giữa nơi ông làm việc, ông cầu kinh. Nó có vẻ chẳng ra sao, nhưng cảm giác ấy chỉ là của tôi mà thôi. May quá ông nhắm mắt lúc đọc kinh.
Ông đứng thẳng. Ông lẩm nhẩm bẳng tiếng Arập. Ông đưa tay lên hai bên tai, ngón cái chạm vào dái tai, trông như đang cố lắng nghe lời đáp của Allah. Ông cúi về phía trước. Ông đứng thẳng trở lại. Ông quỳ xuống úp trán và tay xuống sàn nhà. Ông ngồi lên. Ông phủ phục xuống nữa. Ông đứng. Ông lại làm lại tất cả những động tác ấy.
Sao thế nhỉ? Hồi giáo chỉ là một thứ thể dục đơn giản như vậy ư? Một thứ yoga cho những người du mục Bedouin ở xứ nóng. Các tư thế dễ thực hiện, thiên đường mà không cần phải mất sức gì nhiều.
Ông làm cả thảy bốn vòng các động tác giống nhau, miệng lầm rầm liên hồi. Khi đã xong- kết thúc bằng một động tác quay đầu từ trái sang phải, và một hồi mặc tưởng ngắn ngủi – ông mở mắt, mỉm cười, bước ra khỏi tấm thảm và cuộn nó lại chỉ bằng một cái phẩy tay chứng tỏ ông đã quen lắm với việc đó. Ông cất tấm thảm vào chỗ cũ trong căn phòng bên cạnh. Ông trở lại với tôi. “Lúc nãy tôi đang nói đến đâu rồi nhỉ?” Ông hỏi.
Lần đầu tiên tôi thấy một người Hồi giáo cầu nguyện đã diễn ra như vậy – chóng vánh, nhất thiết, thực thể, thầm lặng, mạnh mẽ. Trong lần cầu nguyện sau đó của tôi trong nhà thờ - quỳ gối, im lìm, lặng lẽ trước đấng Christ trên thập tự giá – cái hình ảnh của cuộc hội ngộ bằng xương bằng thịt với Thượng đế giữa những bao bột mì kia cứ hiện về liên tục trong óc tôi.
Chương 14
Tôi trở lại thăm ông ta.
“Tín ngưỡng của bác là về cái gì vậy ạ?” Tôi hỏi.
Mắt ông vụt sáng. “Về chuyện Được Yêu Thương,” ông trả lời.
Đố ai đã hiểu được đạo Hồi, hiểu được cái tinh thần của nó, mà lại không yêu nó. Đó là một tín ngưỡng đẹp đẽ của tình anh em và tinh thần dâng hiến.
Đền thờ Hồi giáo quả thực là một cấu trúc mở, về phía Thượng đế và gió trời. Ta ngồi xếp bằng lắng nghe vị thầy cả cho đến giờ cầu nguyện. Lúc ấy, ta không còn ngồi thành nhóm ngẫu nhiên với nhau nữa mà cùng đứng dậy xếp hàng vai kề vai, cho tới lúc mỗi hàng người trở thành đặc lại quánh với nhau và tất cả thành một khối cầu nguyện lớn. Cảm giác thật tốt lành khi vầng trán ta chạm xuống mặt đất. Ngay lập tức, nó như một tiếp xúc tín ngưỡng sâu thẳm.
CHƯƠNG 20
Ông ta là một suphi, một nhà thần bí học Hồi giáo. Ông tìm kiếm phana, sự đoàn tụ với Thượng đế, và có một quan hệ riêng tư đầy yêu thương với Thượng đế. “Nếu ta bước hai bước về phía Thượng đế,” ông thường bảo tôi, “Ngài sẽ chạy đến với ta.”
Ông là người không có nét gì đặc biệt, vẻ ngoài và áo quần ông chẳng có gì khiến ta chú ý và ghi nhớ. Cũng chẳng lạ khi lần đầu gặp nhau tôi đã không nhận ra ông. Cả khi đã rất quen với ông rồi, đã gặp nhau hết lần này đến lần khác rồi, tôi vẫn thấy khó khăn để nhìn được ra ông trong đám đông. Tên ông là Satish Kumar. Một cái tên rất phổ biến ở Tamil Nadu, nên việc trùng lặp đó cũng chẳng có gì đặc biệt. Tuy nhiên, tôi thấy rất hay là người làm bánh ngoan đạo ấy, sơ sài như một cái bóng đen và rất khỏe mạnh, và cái người cộng sản nhiệt thành với khoa học và là thầy dạy sinh học của tôi kia, cái quả núi treo trên cọc, từ thủa nhỏ đã từng bị bại liệt kia, lại trùng tên nhau. Ông Kumar ấy và ông Kumar ấy đã dạy tôi môn sinh học và đạo Hồi. Ông ấy và ông ấy đã dẫn dắt tôi vào môn động vật học và nghiên cứu tôn giáo tại đại học Toronto. Hai ông Kumar này đã là những nhà tiên tri của tôi thuở thiếu thời.
Chúng tôi cầu nguyện cùng với nhau và tập các bài dhikr, nghĩa là xướng lên chín mươi chín cái tên đã được tiết lộ của Thượng đế. Ông là một haphiz, người thuộc lòng kinh Khôngran, và ông tụng bằng một giọng hát trầm. Tiếng Ảrập của tôi chưa bao giờ khá cả nhưng tôi yêu cái âm thanh của nó. Những âm bật từ sâu trong thanh quản và những nguyên âm chảy trôi quay tròn ngay bên dưới tri giác của tôi như một dòng suối đẹp đẽ. Nó không rộng, chỉ vừa một giọng người, nhưng nó sâu thẳm như vũ trụ.
Tôi đã mô tả chỗ ở của ông Kumar như một túp nhà tuềnh toàng. Vậy mà không có một thánh đường, nhà thờ, đền miếu nào đã từng khiến tôi cảm thấy linh thiêng đến thế. Đôi khi tôi bước ra khỏi xưởng bánh ấy với một cảm giác tràn đầy vinh hiển. Tôi nhảy lên xe đạp và đạp sự vinh hiển ấy qua không trung.
Có một bận như thế tôi đã đạp tuốt ra khỏi thành phố, và khi quay trở về, ở một chỗ đất cao có thể nhìn thấy mặt biển ở phía trái con đường tít tắp ở phía dưới, tôi đột nhiên cảm thấy như mình đang ở trên thiên đường. Tôi đã đi qua chỗ ấy nhiền lần và nó vẫn hệt như thế, nhưng tôi đã nhìn nó bằng một con mắt khác. Cảm giác lúc ấy, một sự lẫn lộn rất nghịch lý của năng lượng đang đập dồn dập và trạng thái bình yên sâu thẳm, là một cảm giác thật mãnh liệt và sung sướng. Trước đó, con đường, biển cả, cây cối, không khí và mặt trời, mỗi thứ nói với tôi bằng một ngôn ngữ riêng. Còn bấy giờ tất cả chúng nói với tôi bằng cùng một ngôn ngữ hòa đồng. Cây cối để mắt đến con đường; con đường biết rõ sự có mặt của không khí, và không khí thì tràn ngập những suy tưởng về biển cả, mênh mang một niềm tin chia sẻ với mặt trời. Mỗi nguyên tố trong mối quan hệ hài hòa với các hàng xóm của chúng, và tất cả đều là anh em ruột thịt. Lúc quỳ xuống tôi còn là một kẻ phải chết; lúc đứng dậy tôi đã thành bất tử. Tôi thấy mình như tâm điểm của một vòng tròn nhỏ đồng tâm với một vòng tròn lớn hơn nhiều. Atman đã gặp được Allah(1).
Có một lần khác tôi cũng cảm thấy Thượng đế rất gần gụi với mình. Đó là ở Canada, rất lâu về sau này. Tôi đang đến thăm các bạn ở nông thôn, khi ấy là mùa đông. Tôi đã đi dạo một mình trong khu điền sản rộng lớn của họ và đang trên đường về nhà. Đêm hôm trước đã có tuyết rơi và trời hôm đó thật trong trẻo, sáng sủa. Thiên nhiên đắp chăn trắng. Khi đang bước lên ngôi nhà, tôi quay lại nhìn. Có một khu rừng và trong khu rừng đó có một quãng cây thưa. Một làn gió mà cũng có thể là một con vật, đã làm lay động một cành cây. Những hạt tuyết mịn đang rơi xuống trong không khí, lấp lánh trong ánh nắng mặt trời. Trong đám bụi vàng đang rơi trong quãng rừng thưa đầy nắng ấy, tôi nhìn thấy Mary Đồng trinh. Tại sao lại là bà, tôi cũng không biết nữa. Lòng ngưỡng mộ Mary chỉ là thứ yếu trong tôi. Nhưng chính là bà. Da bà tái xanh. Bà vận một bộ váy trắng và một áo choàng xanh da trời; tôi vẫn nhớ ấn tượng rất mạnh của mình lúc đó về những nếp váy áo của bà. Khi tôi nói tôi đã nhìn thấy bà, tôi không có ý nói theo nghĩa đen mặc dầu quả thực bà có thân thể và màu sắc hẳn hoi. Tôi cảm thấy đã nhìn thấy bà, một nhỡn ảnh bên kia nhỡn ảnh. Tôi sững người, nheo mắt. Bà thật đẹp và có một dáng vẻ vương giả cao quý cực kì. Bà mỉm cười với tôi, đầy vẻ phúc hậu. Vài giây sau, bà biến mất. Lòng tôi tràn ngập sợ hãi và vui sướng.
Sự hiện diện của Thượng đế là phần thưởng đẹp đẽ nhất.
Ghi chú:
(1) Atman: tiểu vũ trụ, linh hồn thế giới ngự trong từng cá nhân, một quan niệm Hinđu. Allah: Thượng đế trong đạo Hồi. Atman gặp Allah cũng có nghĩa là một người Hinđu đã giác ngộ được chân lí của đạo Hồi.