Cuộc đời của Pi ( Tập 2 ) - Chương 13 + 14
Chương 13
Tôi lôi cuốn cẩm nang ra đọc. Các trang sách vẫn còn ướt. Tôi cẩn thận giở từng trang. Tác giả là một sĩ quan thuỷ quân hoàng gia Anh. Cuốn sách là một kho báu các thông tin thực dụng về việc làm sao để sống sót sau khi bị đóng tàu, bao gồm cả những mẹo nho nhỏ như sau:
* Luôn luôn đọc kỹ các hướng dẫn.
* Đừng uống nước giải. Hoặc nước biển. Hoặc máu chim.
* Đừng ăn sứa. Hoặc các loại cá có ngạnh. Hoặc cá có mồm như mỏ vẹt. Hoặc cá có thể phồng người lên như bóng thổi.
* Bóp mạnh hai mắt cá sẽ làm cho nó tê liệt.
* Cơ thể tự nó rất dai sức để sinh tồn. Nếu bị thương, phải cảnh giác với các phương pháp chữa trị tưởng là hay nhưng vô căn cứ. Phương pháp lang băm là nguy hiểm nhất. Không có hộ lí nào tốt hơn là nghỉ ngơi và giấc ngủ.
* Nhấc chân cao lên ít nhất năm phút một lần.
* Nên tránh gắng sức không cần thiết. Nhưng đầu óc nhàn rỗi sẽ sinh u mê, cho nên cần tận dụng mọi cơ hội để có hoạt động trí não. Đánh bài, chơi trò Hai mươi câu hỏi và trò Trinh thám bằng mắt là những hình thức giải trí đơn giản tuyệt vời. Cùng nhau hát cũng là một cách nâng cao tinh thần rất hữu hiệu. Kể chuyện cũng vậy.
* Nước có màu xanh lá cây thì nông hơn chỗ nước có màu xanh da trời.
* Phải cảnh giác khi thấy các đám mây ngoài xa có dáng dấp như các dãy núi. Hãy để mắt tìm màu xanh lá cây. Chỉ khi nào đặt chân lên mặt đất hãy nghĩ là mình đã lên bờ.
* Đừng bơi. Việc này tiêu hao năng lượng. Hơn nữa, xuồng cứu nạn thường trôi nhanh hơn bơi. Chưa kể các nguy hiểm khác trong khi bơi. Nếu thấy nóng, tốt nhất là dấp nước lên quần áo.
* Đừng đái vào quần, có thể thấy ấm một chút lúc đó những sẽ ngứa ngáy rất khó chịu sau này.
* Hãy tìm cách che nắng. Phơi nắng có thể chết nhanh hơn cả khi đói khát.
* Khi không bị mất quá nhiều nước qua đường mồ hôi và bài tiết, cơ thế có thể sống sót được tới mười bốn ngày mà không cần nước uống. Nếu thấy khát, hãy mút một cái khuy.
* Rùa vừa dễ bắt vừa ăn ngon. Máu rùa là đồ uống không có muối, rất bổ; thịt rùa thơm và chắc dạ; mỡ có nhiều công dụng khác nhau; và trứng rùa thì tuyệt hảo. Cẩn thận mỏ và móng rùa.
* Đừng để xuống tinh thần. Sờn lòng thì chấp nhận được, nhưng đừng bao giờ chịu đầu hàng. Hãy nhớ rằng: Tinh thần là quan trọng nhất. Nếu ta có ý chí sống, ta sẽ sống. Chúc may mắn!
Cũng có một vài dòng ngắn gọn chắt lọc từ nghệ thuật và khoa học hàng hải. Tôi học được rằng trong một ngày đẹp trời, lặng gió và với tầm mắt ở độ cao một thước sáu, thì đường chân trời cách ta khoảng hai dặm rưỡi.
Lời khuyên đừng uống nước giải là hoàn toàn không cần thiết. Chẳng có ai bị người ta gọi là “Pissing”, nghĩa là đang đi đái, từ thời thơ ấu chịu phải chết với một cốc nước giải trên môi, ngay cả khi chỉ có một mình giữa Thái Bình Dương. Còn các lời chỉ khuyên liên quan đến các món ăn chỉ làm tôi thêm tin chắc rằng người Anh không biết được ý nghĩa của từ thực phẩm. Ngoài những chi tiết đó ra thì cuốn sách cẩm nang là một tài liệu tuyệt vời. Chỉ có một chủ đề quan trọng không thấy nói đến: việc thiết lập mối quan hệ alpha – omega, chủ và tớ, với mấy con vật nuôi trên xuồng cứu nạn.
Tôi phải thiết kế một chương trình huấn luyện cho Richard Parker. Tôi phải làm nó hiểu được rằng tôi là con hổ đầu đàn và rằng lãnh thổ của nó chỉ là dưới sàn xuồng, kể từ cái ghế đuôi đến cái ghế giữa mà thôi. Tôi phải ấn vào đầu nó một ý thức rõ ràng rằng phần mui bạt và khu vực mũi xuồng, kể cho đến cái ghế nữa, là lãnh thổ của tôi, và tuyệt đối nó không được xâm phạm.
Tôi phải bắt đầu nghĩ cách câu cá càng sớm càng tốt. Chẳng mấy chốc, Richard Parker sẽ ăn hết chỗ thịt chết kia ở trên xuồng. Trong vườn thú, một con hổ hoặc sư tử đã trưởng thành trung bình ăn hết khoảng năm cân thịt mỗi ngày.
Và còn nhiều việc khác phải làm. Tôi phải tìm phương tiện che chắn cho mình. Nếu Richard Parker chúi dưới tấm mui bạt suốt ngày như thế là có lí do chính đáng lắm. Liên tục ở ngoài trời như thế này, nắng, mưa, gió, biển, sẽ làm kiệt quệ cả cơ thể lẫn tinh thần. Tôi đã chẳng đọc thấy rằng mưa nắng có thể đưa đến một cái chết rất nhanh đó hay sao? Tôi phải làm một cái mái che kiểu gì đó cho mình.
Tôi phải buộc cái bè vào với chiếc xuồng bằng một sợi dây nữa, đề phòng cái dây hiện nay bị đứt hoặc lỏng ra.
Tôi phải cải thiện bè. Hiện thời thì nó nổi đấy, nhưng khó lòng ở trên nó lâu được. Tôi sẽ phải làm cho nó tiện nghi hơn để sống cho tới khi có thể dọn về và ổn định chỗ của mình trên xuồng. Chẳng hạn như phải làm sao vẫn ở trên bè mà không bị ướt. Da dẻ tôi nhăn nhúm và sưng tấy khắp người do liên tục bị ướt. Tình trạng đó phải chấm dứt. Và cũng phải tìm cách cất giấu đồ ngay trên bè nữa.
Tôi phải thôi đừng hi vọng quá nhiều vào chuyện một con tàu sẽ đến cứu tôi. Không nên chờ đợi cái gì khác. Việc sống còn phải bắt đầu từ chính bản thân mình. Theo kinh nghiệm của tôi, sai làm tệ hại nhất của một nạn nhân đắm tàu là hi vọng quá nhiều và hành động quá ít. Việc sống còn bắt đầu bằng ý thức để ý đến những gì sờ thấy lấy được. Trông chờ xa xôi với niềm hi vọng lười nhác cũng có nghĩa là mộng mị để cuộc sống của mình tuột đi dần dần.
Có biết bao nhiêu việc tôi phải làm.
Tôi phóng tầm mắt về phía chân trời trống rỗng. Sao mà nhiều nước đến thế. Còn tôi thì chỉ có một mình. Chỉ có một mình.
Tôi bật khóc. Nước mắt tôi nóng bỏng. Vùi mặt vào hai khoeo tay, tôi khóc tấm tức. Tình trạng của tôi chắc chắn là vô vọng rồi.
Chương 14
Một mình hay không, mất hay còn, tôi vẫn thấy đói và khát. Tôi kéo dây. Nó hơi căng. Lỏng tay kéo là nó tuột đi, và khoảng cách giữa cái bè và xuồng lại tăng lên. Có nghĩa là chiếc xuồng trôi nhanh hơn và chiếc bè đang kéo nó theo. Tôi để ý thấy hiện tượng đó nhưng không nghĩ gì về nó. Đầu óc tôi còn đang tập trung vào những hành động của Richard Parker.
Trông thì có vẻ như nó đang ở dưới tấm bạt.
Tôi kéo dây cho tới khi đến sát cạnh mũi xuồng. Tôi rướn lên mép xuồng. Và khi đang kéo xuống, chuẩn bị tấn công vào cái tủ đựng đồ, một loạt các con sóng ào đến khiến cho tôi phải nghĩ. Và tôi nhận ra rằng với cái bè ở ngay sát cạnh, chiếc xuồng đã đổi hướng trôi. Nó không còn đi vuông góc với các ngọn sóng nữa và quay ngang sườn về phía chúng và bắt đầu lắc ngang từ bên này sang bên kia, kiểu lắc làm cho nôn nao hết cả bụng. Tôi chợt hiểu ra: Cái bè, khi ở xa chiếc xuồng thì có tác dụng như một cái neo có lực kéo khiến cho xuồng trôi trực diện qua các con sóng. Sóng và gió ổn định thường có chiều vuông góc với nhau. Cho nên nếu một chiếc xuồng bị gió đẩy đi nhưng lại bị neo nổi kéo lại, nó sẽ quay đầu vào vị trí ít cản gió nhất, tức là nằm xuôi theo chiều gió và vuông góc với sóng. Lúc ấy, nó dập dềnh theo chiều mũi và đuôi xuồng, dễ chịu hơn nhiều so với tình trạng lắc lư theo chiều ngang. Khi cái bè đã ở sát cạnh xuồng thì tác dụng neo kéo của nó mất đi, không có gì giữ cho xuồng đi xuôi gió nữa, và nó liền quay ngang.
Một chi tiết nhỏ nhặt ấy thôi sẽ cứu mạng tôi và sẽ khiến cho Richard Parker phải hối hận.
Như thể khẳng định cho ý nghĩ thoáng qua ấy của tôi là đúng, tôi nghe thấy nó gừ lên một tiếng. Đó là một tiếng gừ bất an, có một âm hưởng khó chịu và sống sượng rất khó định nghĩa. Nó có thể là một tay bơi lội cừ, nhưng không phải một phù thủy ra trò.
Tôi còn có cơ hội.
Có vẻ như tôi đã quá tự phụ về khả năng chi phối nó, nên ngay lúc ấy trời gửi đến cho tôi một dấu hiệu cảnh cáo rất lạ. Hình như Richard Parker là một cây nam châm sống với sức hút mãnh liệt đến nỗi các sinh vật ở gần nó không thể chịu nổi. Tôi đang sắp chèo lên mũi xuồng thì chợt nghe có tiêng xoèn xoẹt nhè nhẹ. Có cái gì nho nhỏ rơi xuống nước ngay cạnh tôi.
Đó là một con gián. Nó nổi bập bềnh được một hai giây thì bị một cái miệng dưới nước nuốt chửng. Lại một con gián nữa rơi xuống nước, một phút sau đó, đã có khoảng chục con gián thi nhau nhẩy xuống nước lõm bõm cả hai bên mạn xuồng. Con nào cũng nhanh chóng bị cá nuốt chửng.
Những hình thức sống ngoại lai đang rời bỏ chiếc xuồng.
Tôi thận trọng nhìn qua mép xuồng. Vật đầu tiên lọt vào mắt tôi là một con gián thật to, chắc là thủ lĩnh của cả bộ lạc gián trên xuống nước lõm bõm cả hai bên mạn xuồng. Con nào cũng nhanh chóng bị cá nuốt chửng.
Những hình thức sống ngoại lai đang rời bỏ chiếc xuồng.
Tôi thận trọng nhìn qua mép xuồng. Vật đầu tiên lọt vào mắt tôi là một con gián thật to, chắc thủ lĩnh của cả bộ lạc gián trên xuồng, đang nằm trong một nếp gấp của tấm bạt phía trên cái ghế mũi xuồng. Tôi ngắm con gián, tự nhiên thấy rất lạ. Khi nó đã quyết định là đã đến lúc, con gián giương cánh bay lên không trung với một âm thanh thật tinh tế, dừng lại một tí trên cao như thể đang kiểm tra xem còn có con nào khác ở lại trên xuồng nữa không, rồi nhào xuống biển để đón nhận cái chết.
Bây giờ thì chỉ còn hai chúng tôi. Trong năm ngày, toàn bộ dân số gồm khỉ độc, ngựa vằn, linh cẩu, chuột, ruồi, và gián đã bị tiêu diệt. Không kể bọn vi trùng và ròi bọ có thể vẫn sống trong chỗ thịt chết của các con vật kia, trên xuồng không còn ai khác đang sống ngoài Richard Parker và tôi.
Ý nghĩa đó chẳng dễ chịu chút nào.
Tôi nhổm lên và nín thở mở nắp cái thùng. Tôi cố tình không nhìn xuống dưới tấm bạt vì sợ rằng nhìn sẽ giống như một tiếng kêu có thể sẽ đánh động Richard Parker. Chỉ khi cái nắp thùng đã dựa vào tấm bạt rồi, tôi mới dám để ý xem phía bên kia có những gì.
Mùi khai xộc vào mũi tôi, mùi khai khẳn rất choáng của nước đái hổ vẫn thường thấy trong vườn thú. Hổ là con vật rất có ý thức về lãnh thổ, và chúng đánh dấu lãnh thổ bằng nước đái của mình. Vậy là rất tốt, cho dù thật là khai, vì mùi nước đái này chỉ bốc ra từ bên dưới tấm bạt mà thôi. Richard Parker hình như chỉ chiếm lĩnh khu vực sàn xuồng. Có hy vọng rồi. Nếu tôi chiếm được khu vực mui bạt, nó với tôi sẽ có thể cùng chung sống được.
Tôi nín thở, cúi đầu xuống và nghó nghiêng qua mép cái nắp về phía bên kia. Dưới sàn xuồng có khoảng mươi phân nước mưa đọng lại và sóng sánh bên này bên kia. Đó là cái ao riêng của Richard Parker. Nó đang làm đúng điều mà tôi cũng sẽ làm trong hoàn cảnh của nó: trốn trong bóng mát. Ngày mỗi lúc một nóng bức rất khó chịu. Nó nằm bẹp, quay đuôi về phía tôi, hai chân sau duỗi dài và dang rộng, móng vuốt chổng ngược, bụng và bẹn sát tịt xuống sàn. Trông thì buồn cười nhưng rõ rang là một tư thế rất dễ chịu.
Tôi trở lại với việc sống còn của mình. Tôi mở một hộp đồ ăn cấp cứu và ăn đến căng bụng, hết khoảng một phần ba hộp. Rất lạ là chỉ một chút thế thôi cũng đã làm no bụng tôi rồi. Sắp sửa uống nước từ trong cái túi nước mưa vẫn quàng qua cổ thì tôi nhìn thấy mấy cái bình đong nước có chia độ. Nếu không nhúng mình xuống nước được như nó, liệu tôi có quyền nhấp một chút nước ấy không? Nguồn nước riêng của tôi không thể vô tận được. Tôi vớ một cái bình đong, cúi xuống, hạ cả cái nắp theo mình cho đến khi nhúng được cái bình vào nước ao của Richard Parker, chỉ cách hai bàn chân sau của nó độ hơn một thước. Hai bàn chân chổng ngược với đám lông ướt của nó giống như hòn đảo nhỏ nổi lên giữa đám rong biển.
Tôi múc được đến nửa lít nước. Không trong lắm. Đầy những bụi bẩn lửng lơ. Tôi có lo uống phải vi trùng không ư? Thậm chí tôi không hề nghĩ đến chuyện đó. Trong đầu tôi chỉ biết có cơn khát của mình. Tôi nốc cạn cả bình nước, rất thỏa mãn.
Thiên nhiên lúc nào cũng lo giữ quân bình, cho nên chẳng lạ gì ngay lập tức tôi thấy buồn đái. Tôi đái vào cái bình. Đúng đến mức nước mà tôi đã vừa uống. Và lập tức thấy thèm được uống nữa. Tôi do dự. Tự nhiên muốn nghiêng bình uống luôn. Tôi cố chống lại cơn thèm đó mà thật khó. Xấu hổ gì mặc kệ, tôi thấy nước đái ở trong bình thật ngon lành. Chưa bị mất nước nhiều, nên nước đái của tôi vẫn còn màu trong. Nó sáng lên dưới ánh mặt trời, trông như một bình nước táo. Và nó đảm bảo tươi nguyên, chứ không như thứ nước uống đóng hộp dự trữ của tôi. Nhưng tôi chế ngự được mình. Tôi tưới nước đái của mình lên tấm bạt và nắp thùng để khẳng định lãnh thổ của mình.
Tôi trộm được thêm hai bình nước nữa của Richard Parker, lần này thì không bị đi đái, và cảm thấy mình tươi tắn như một đóa hoa vừa được tưới.
Bây giờ là lúc phải cải thiện tình hình của mình. Tôi quay về với một nội dung của cái tủ và những hứa hẹn của nó.
Tôi lấy một sợi dây thứ hai và buộc thêm vào cái bè.
Tôi phát hiện ra công dụng của cái máy cất nước bằng ánh nắng mặt trời. Nó biến nước biển thành nước uống được. Cái máy bao gồm một bộ phận chất dẻo trong thổi lên thành hình chóp nón, chụp lên trên một hộp nổi có dạng như cái phao cứu nạn, trên mặt có căng một tấm vải bọc cao su đen. Nước biển chứa trên tấm vải đen được mặt trời đun nóng lên và bốc hơi, đọng lại dưới bộ phận chóp nón. Thứ nước cất này chảy xuống máng rồi được thu góp vào một cái túi. Trên xuồng có mười hai cái cất nước như vậy. Tôi đọc cái hướng dẫn sử dụng rất cẩn thận ( như học được từ cuốn cẩm nang sống sót ), rồi thổi căng cả mười hai cái chóp nón, đổ đầy mỗi thùng phao được tới mười lít nước biển. Tôi buộc các máy cất nước vào với nhau, chằng một đầu dây vào xuồng và đầu kia vào bè, vừa để giữ an toàn cả mười hai cái cất nước cho dù một đầu dây có bị tuột, vừa để có thêm một đầu dây nữa nối xuồng với bè. Các máy cất nước trông đẹp và có vẻ rất khoa học kĩ thuật khi chúng nổi trên mặt nước, nhưng trông chúng cũng có vẻ bấp bênh và không biết chúng có làm ra nước uống thật hay không.
Tôi quay sang cải thiện cái bè. Tôi rà lại từng nút buộc, không để cái nào lỏng lẻo. Sau một hồi suy tính, tôi quyết định biến cái chèo thứ năm, vẫn dùng để gác chân, thành một cái cột buồm. Tôi tháo nó ra. Dùng cạnh lưỡi cưa của con dao săn, tôi hì hục cắt một cái khấc vào mái chèo, quãng giữa thân, rồi dùng mũi dao khoét ba lỗ thủng qua phần bẹt của mái chèo. Việc thì chậm nhưng tốt. Tôi suy tính liên miên. Khi đã xong, tôi buộc cái chèo theo tư thế thẳng đứng vào phía trong một cái góc bè, phần bẹt lên trên, phần cán khấc để giữ cho mái chèo không bị tụt xuống. Tiếp theo, để đảm bảo cột buồm sẽ đứng thẳng, cũng như có được những đường dây qua ba cái lỗ đã khoét và buộc căng chúng xuống các đầu của những mái chèo nằm ngang của bè. Tôi buộc cái áo phao trước đây đã chằng vào cái chèo gác chân vào chân cột buồm. Nó sẽ có hai tác dụng: vừa tăng thêm độ nổi để bù vào sức nặng thẳng đứng của cột, vừa làm một cái chỗ hơi cao lên để ngồi.
Tôi ném một cái chăn lên trên dàn dây căng. Nó trôi tuột xuống. Góc chằng dây quá dốc. Tôi gập cái chăn theo chiều dài, cắt hai lỗ quãng giữa, cách nhau chừng ba mươi phân, rồi n ối hai lỗ ấy bằng một đoạn dây ngắn. Tôi lại ném cái chăn lên, lần này thì có đoạn dây ở giữa chăn để buộc vào cột. Thế là có một cái dù che.
Tôi mất gần hết ngày hôm đó để sửa sang lại cái bè. Rất nhiều chi tiết phải để ý đến. Công việc chẳng dễ dàng gì vì lúc nào sóng cũng làm bè bập bềnh. Rồi lại phải dè chừng Richard Parker suốt ngày. Kết quả không có gì đáng gọi là mĩ mãn. Cái cột buồm, là tôi cứ gọi thế, chỉ cao hơn đầu tôi chừng năm bảy phân. Còn sàn bè thì chỉ đủ rộng để ngồi xếp bằng hoặc nằm co gần như là trong bụng mẹ. Nhưng tôi không phàn nàn gì cả. Cái bè chịu được biển cả, và nó giữ cho tôi cách xa Richard Parker.
Khi làm xong các việc đó thì đã gần hết chiều. Tôi lấy một hộp nước, một cái mở hộp, bốn cái bánh trong khẩu phần cấp cứu và bốn cái chăn. Tôi đóng cái tủ lại ( lần này rất nhẹ nhàng ), ngồi vào bè và thả dây. Chiếc xuồng trôi đi. Sợi dây chính căng ra, trong khi sợi dây bảo hiểm mà tôi đã cố tính buộc dài hơn thì chùng lại. Tôi trải hai cái chăn xuống dưới, gấp cẩn thận để chúng khỏi chạm xuống mặt nước. Tôi quấn hai cái chăn kia quanh vai và dựa lưng vào cột. Ngồi lên thêm một cái áo phao như thế rất thích, chỗ ngồi có cao hơn một chút. Thật ra cũng chẳng cao ráo gì nhiều, chỉ như người ngồi trên một cái gối dầy vứt dưới sàn nhà, nhưng dù sao thì tôi cũng hy vọng sẽ không bị ước nhiều.
Bữa ăn thật ngon khi tôi vừa ăn vừa ngắm mặt trời lặn trên bầu trời không một gợn mây. Đó là một thoáng thư giãn. Vòm trời rộng lớn bao trùm thế giới với những sắc màu hùng tráng. Những vì sao háo hức hiện dần ra, và ngay khi bức màn màu sắc kia bị kéo xuống một chút thôi là chúng bắt đầu sáng rực lên trên nền xanh sẫm. Gió thổi thành những làn nhẹ nhàng và ấm áp, còn biển cả thì chuyển mình từ tốn, mặt nước nhấp nhô như thể có những đám người múa thành từng vòng tròn, giơ tay lên, tản ra rồi lại tụ lại với nhau, hết vòng này đến vòng khác.
Richard Parker đã ngồi dậy. Chỉ thấy cái đầu và một ít vai nhô lên khỏi mạn xuồng. Nó nhìn ra. Tôi hét lên, “Này Richard Parker!” và vẫy tay. Nó nhìn tôi. Nó hít hoặc khịt mũi, cả hai động từ này đều không tả chính xác được. Prusten rồi. Thật là một con thú tuyệt vời. Thật quí phái. Đúng là một con hổ hoàng gia Bengal. Tôi may mắn thật đấy chứ. Thử nghĩ xem nếu tôi phải ở với một con vật trông ngốc nghếch hoặc xấu xí, một con tapir hoặc đà điểu, hoặc một bầy già tây chẳng hạn thì sao? Nhất định là quan hệ của chúng tôi sẽ khó khăn hơn nhiều.
Nghe có tiếng quấy nước, tôi nhìn xuống và há mồm vì kinh ngạc. Thế mà tôi cứ tưởng chỉ có một mình. Sự im ắng trong không trung, vẻ huy hoàng của ánh sáng, và cảm giác tương đối an toàn, những cái đó đã khiến tôi tưởng vậy. Bao giờ cũng có một yếu tố im ắng và cô đơn trong cảm giác bình yên. Có phải không nhỉ? Khó lòng tưởng tượng mình có thể thấy bình yên trong một ga tàu điện ngầm đông đúc, có đúng không nào? Vậy thì những nhộn nhạo này là cái gì đây?
Chỉ có một cái liếc nhìn tôi đã phát hiện ra rằng biển là cả một thành phố. Ngay phía dưới tôi, khắp xung quanh, tôi bất ngờ nhận ra những đường cao tốc, đại lộ, phố xá và bùng bình chật nịch xe cộ ngầm dưới nước. Trong nước, chúng thật dầy đặc, trong như thủy tinh và lấm chấm hàng triệu triệu những li ti rêu tảo, những loài cá như những làn xe tải, xe buýt, xe con, xe đạp và người đi bộ đang chạy như điên, rõ ràng là đang bóp còi inh ỏi và gọi nhau í ới. Màu chủ đạo là xanh lá cây. Dưới các tầng nước sâu khác nhau, nơi mắt tôi có thể dõi đến, tôi thấy những vệt óng ánh của những bong bóng xanh lá cây có dạ quang mà các con cá bơi rất nhanh để lại đàng sau. Vệt này phai đi, lập tức lại xuất hiện. Chúng hiện theo đủ các hướng. Chúng giống như các bức ảnh chụp để mở ống kính thật lâu của các thành phố ban đêm, với những vệt đỏ kéo dài do đèn hậu của những chiếc xe hơi tạo ra trên phim. Chỉ có khác là ở đây có làn xe phóng đi chồng chéo lên nhau như thể dọc các mạng lưới đường vượt cao lên hàng trục tầng nhà. Và ở đây xe cộ có những màu sắc điên rồ nhất. Những con các dorado – có tới hơn năm chục con đang tuần tiễu ngay bên dưới bè – khoe ra màu vàng ròng sáng rỡ, màu xanh lục và xanh lam khi chúng lượn qua lượn lại. Những con các khác mà tôi không thể nhận diện thì đủ cả vàng, nâu, xanh lơ, đỏ, hồng, xanh lá cây, trắng, kết hợp đủ kiểu, đơn sắc, sọc, vằn , chấm. Chỉ có bọn cá mập là nhất định không chịu có màu sắc gì hết. Nhưng cho dù xe cộ màu nào đi nữa thì tất cả chúng đều có chung một đặc tính là phóng như điên. Có nhiều vụ đụng xe – tất cả đều có tử vong, phải nói thế - và một số xe bị hất tung ra khỏi luồng, đân lung tung và nhào vọt lệ khỏi mặt nước để rồi lại rơi xuống trong một chùm bọt sáng lòa. Tôi ngây người ngắm nhìn cảnh đô thị hỗn độn đó như quan sát một thành phố từ trên kinh khí cầu. Đó thật là một cảnh tượng kì vĩ, choáng ngợp. Chắc chắn là Tokyo cũng có cảnh tương tự vào giờ cao điểm.
Tôi nhìn mãi cho tới khi các ngọn đèn lần lượt tắt đi trong thành phố đó.
Từ tàu Tsimtsum, tôi chỉ nhìn thấy những con cá heo. Tôi đã đồ rằng Thái Bình Dương, ngoài những đàn cá kéo nhau từng lũ đi qua, chỉ là một vùng nước thưa thớt sự sống và phí phạm. Từ bấy đến nay, tôi đã vỡ ra rằng tàu thủy trở hàng đi qúa nhanh so với cá. Khả năng nhìn thấy sự sống dưới biển tử trên tàu thủy cũng chỉ như khả năng nhìn thấy các con thú hoang trong rừng từ trên một chiếc xe chạy ngoài xa lộ. Cá heo, là loài bơi rất nhanh, chơi đùa quanh tàu thuyền cũng như chó hay chạy đuổi theo xe: chúng chạy theo cho đến khi không thể theo kịp nữa. Nếu muốn nhìn thấy các con vật hoang dã, phải đi bộ, rón rén, và có ý thức thám hiểm khu rừng đó. Ngoài biển cả cũng vậy. Ta phải thả bộ qua Thái Bình Dương với những bước chân từ tốn, là nói vậy, thì mới có thể thấy được kho báu vô biên trong lòng nó.
Tôi nằm nghiêng. Lần đầu tiên sau năm ngày, tôi cảm thấy một chút thanh thản. Một tia hy vọng – mà tôi đã xứng đáng được có sau bao công sức – sáng lên trong lòng tôi. Tôi ngủ thiếp đi.