Còn Đó Đam Mê - Rachel Gibson - Chương 9

Chương 9

“Kìa,
nhìn con này!”

Mae liếc nhìn lên từ những chiếc khăn ăn gấp cẩn thận trong tay khi Lexie chạy
qua kéo lê theo một chiếc diều Barbie màu hồng phía sau. Chiếc mũ bò gắn bông
hoa hướng dương to đùng ở phía trước rơi khỏi đầu con bé và đáp xuống mặt cỏ.

“Con giỏi lắm,” Mae gọi với. Cô đặt đống khăn ăn xuống rồi bước vài bước ngắn
tới săm soi nhìn bàn tiệc dã ngoại. Gấu khăn trải bàn kẻ sọc xanh phất phơ bay
trong làn gió nhẹ trong khi con thú đồ chơi Chia Pet của Lexie chễm chệ trên
một chiếc bát úp ngược ở giữa bàn. Chú lợn cỏ đeo cặp kính râm bé xíu cắt từ
tấm áp phích, và được thắt quanh cổ một chiếc khăn màu hồng nhạt. “Cậu đang cố
chứng tỏ điều gì thế?” cô hỏi

“Mình chẳng cố chứng tỏ điều gì cả,” Georgeanne đáp, xếp khay cá ngừ măng tây,
patê cá lục hun khói, và các khoanh bánh mì ở một đầu bàn. Chẳng hiểu vì vô
tình hay hữu ý mà có một con mèo sứ nhỏ ngồi giữa khay liếm chân. Trên đầu con
mèo là một chiếc mũ phớt nhọn màu vàng. Mae hiểu Georgeanne đủ rõ để biết rằng
cho chuyến dã ngoại này có chủ đề gì đó. Chỉ là cô chưa nhận thấy thôi, nhưng
cô sẽ tìm ra.

Cô đưa mắt từ con mèo sứ sang đủ loại thức ăn mà cô nhận ra từng được phục vụ
trong những bữa tiệc tuần trước. Cô nhận ra những chiếc bánh kếp pho mát và ổ
bánh mì vừng truyền thống đã được dọn ra trong bữa bar mitzvah 1 của cậu nhóc Michell Wiseman. Những chiếc
bánh thịt cua và bánh quy ca rô hình như có trong bữa tiệc làm vườn hàng năm
của bà Brody. Còn gà quay và món sườn thăn non rưới nước xốt mận thì mới xuất
hiện trong bữa tiệc liên hoan ngoài trời họ tổ chức đêm qua. “Ồ, trong có vẻ
như cậu đang muốn chứng tỏ với ai đó rằng cậu biết nấu nướng thì phải.”

“Tớ chỉ dọn sạch tủ lạnh ở cửa hàng, có thế thôi,” Georgeanne trả lời.

Không, không phải chỉ có thế. Cái tháp quả được chùi bóng một cách kỹ lưỡng và
sắp xếp một cách nghệ thuật ấy không phải được lấy từ chỗ làm. Những trái táo,
lê, và chuối tươi ngon hoàn hảo. Đào và dâu được xếp cẩn thận từng tí một, và
một con chim lông xanh mặc áo choàng có họa tiết cánh hoa nhìn xuống từ chỗ đậu
ở cao trên những trái nho tím và xanh bóng loáng. “Georgeanne, cậu không cần
phải chứng tỏ với bất kỳ ai rằng cậu là một phụ nữ thành đạt hay là một người
mẹ tốt cả. Mình biết cậu như thế và cậu cũng biết vậy mà. Và vì cậu với mình là
những người trưởng thành duy nhất ở đây đáng tính đến, sao lại phải vắt kiệt
sức mình để gây ấn tượng với một gã chơi khúc côn cầu ngớ ngẩn chứ?”

Georgeanne ngước lên khỏi con vịt pha lê khoác chiếc váy Hawaii được đặt bên
cạnh đống bánh quy ca rô. “Mình bảo John đưa theo bạn đến nên mình không nghĩ
anh ta sẽ đến đây một mình. Và mình không cố gây ấn tượng với anh ta. Đương
nhiên mình chẳng quan tâm đến chuyện anh ta nghĩ gì.”

Mae không tranh cãi. Thay vì thế, cô chộp lấy chồng cốc nhựa trong rồi để lên
bàn cạnh bình trà đá. Dù cố ý hay không, Georgeanne cũng đã bày biện để gây ấn
tượng với gã đàn ông đã bỏ rơi cô ở sân bay Sea- Tac bảy năm về trước. Mae hiểu
Georgeanne muốn chứng tỏ những thành công trong đời mình. Mặc dù cô thực lòng
nghĩ chiếc bánh sôcôla hạnh nhân mà Georgeanne đã đúc khuôn thành hình những
chú chó hơi quá mức cần thiết.

Vẻ ngoài của Georgeanne cũng có phần quá hoàn hảo đối với một ngày ở công viên.
Mae tự hỏi có khi nào Georgeanne đang cố thuyết phục John Kowalsky rằng cô cũng
hoàn hảo như June Cleaver. Mái tóc sẫm màu của cô được chải cao sang hai bên
rồi giữ lại bằng hai cái xược vàng. Đôi hoa tai vàng sáng bóng, và khuôn mặt
trang điểm hoàn hảo. Chiếc váy đầm halter 2 màu ngọc xanh hợp tông với màu mắt, còn
nước sơn móng tay màu hồng hợp màu với màu nước sơn móng chân. Cô hất đôi xăng
đan tuột ra, và chiếc nhẫn vàng mỏng mảnh đeo trên ngón thứ ba sáng lóng lánh
trong nắng.

Chỉ là một chút quá hoàn hảo đối với một người phụ nữ không bận tâm xem liệu
mình có gây ấn tượng với bố của con mình không.

Những ngày đầu Mae thuê Georgeanne làm việc, cô cảm thấy có phần mờ nhạt khi
đứng cạnh Georgeanne, giống như một con chó lai hoang đứng cạnh một con chó xù
được nuôi dạy tử tế. Nhưng cảm giác dè dặt của cô nhanh chóng qua đi. Việc
Georgeanne không thể không biến thành nữ hoàng quyến rũ cũng tự nhiên như Mae
luôn có thể cảm thấy thoải mái với áo phông và quần jeans. Hay với quần bò ngố và
áo hai dây như hôm nay.

“Mấy giờ rồi?” Georgeanne hỏi khi tự rót cho mình một cốc trà.

Mae nhìn vào chiếc đồng hồ chuột Mickey buộc dây quanh cổ tay mình. “Mười một
giờ bốn mươi.”

“Vậy thì mình còn hai mươi phút nữa. Có lẽ bọn mình sẽ gặp may là anh ta không
đến.”

“Cậu đã nói gì với Lexie?” Mae vừa hỏi vừa thả một viên đá vào cốc.

“Chỉ bảo có lẽ John sẽ đến dã ngoại với bọn mình thôi.” Georgeannne đưa tay lên
trán chăm chú nhìn Lexie đang thả diều.

Mae với lấy bình đựng trà và rót. “Có lẽ sẽ đến dã ngoại cùng bọn cậu ư?”

Georgeanne nhún vai. “Một đứa bé có thể hy vọng. Và mình không tin John sẽ thực
sự muốn trở thành một phần trong cuộc đời của Lexie mãi mãi đâu. Mình không thể
không nghĩ rằng sớm muộn gì anh ta cũng chán ngấy việc làm một ông bố. Mình chỉ
mong chuyện đó sẽ xảy ra sớm hơn, bởi vì nếu anh ta ruồng bỏ con bé sau khi nó
đã bắt đầu quấn quýt với anh ta, điều đó sẽ làm vỡ tan trái tim con bé. Cậu
biết mình bảo vệ con bé thế nào rồi đấy, và dĩ nhiên, những chuyện như thế sẽ
khiến mình nổi đóa lên. Rồi thì mình sẽ thấy ngộp thở, sẽ cảm thấy phải trả thù”.

Mae nghĩ Georgeanne là một trong những phụ nữ thật lòng tốt bụng bậc nhất mà cô
biết, trừ những khi Georgeanne nổi cơn tam bành. “Cậu sẽ làm gì nào?”

“Hừm, cái ý tưởng nhét mối vào ngôi nhà thuyền của anh ta cũng hay ho đây chứ.”

Mae lắc đầu. Cô luôn hết mực ủng hộ hai mẹ con Georgeanne, và coi họ như gia
đình mình. “Quá lâu.”

“Đâm xe cho anh ta đo đường thì sao?”

“Cậu đang bắt đầu nóng lên rồi đấy.”

“Lái xe qua anh ta rồi bắn chết?”

Mae mỉm cười, và bỏ lửng câu chuyện khi Lexie bước về phía họ, kéo theo chiếc
diều đằng sau. Cô bé ngã sấp vào chân mẹ, gấu váy bò hất tung lên tới chiếc
quần lót Pocahontas. Đôi xăng đan trong như thạch của cô bé vướng vào cỏ.

“Con không chạy được nữa,” nó hổn hển. Khác với thường lệ, Lexie để mặt mộc mà
không trang điểm.

“Con giỏi lắm, cưng yêu của mẹ,” Georgeanne khen, “Con có muốn một hộp nước quả
không?”

“Không. Mẹ chạy cùng con và thả cho diều của con bay cao lên nhé?”

“Mẹ con mình đã nói chuyện này rồi mà. Mẹ không chạy được đâu.”

“Con biết,” Lexie thở dài rồi ngồi dậy. “Chạy làm ngực mẹ đau và chạy trông
thật không ra làm sao.” Con bé chụp mũ sùm sụp lên đầu rồi ngước nhìn Mae. “Dì
chơi với con nhé?”

“Dì sẽ chơi, nhưng dì lại không mặc áo nịt mất rồi.”

“Sao lại không chứ?” Lexie muốn biết. “Mẹ có mặc mà.”

“Ừ, mẹ cần mặc, nhưng dì Mae thì không.” Cô chăm chú nhìn Lexie trong giây lát,
rồi hỏi, “Cái thứ nhớp nháp cháu thường bôi lên mặt đâu hết cả rồi?”

Lexie trợn ngược mắt. “Đó không phải là thứ nhớp nháp. Đó là phấn son, và mẹ
bảo nếu hôm nay con không đánh phấn, con sẽ được một con mèo bông Kitten
Surprise.”

“Dì đã bảo con là dì sẽ mua hẳn một cô miu nhỏ thật cho con nếu con không bôi
phấn. Con còn quá bé, chưa thể nào là tín đồ của Max Factor 3 được.”

“Mẹ bảo con không được nuôi mèo con, cún con hay con gì khác.”

“Phải rồi,” Georgeanne nói, và nhìn Mae. “Lexie chưa đủ tuổi để có trách nhiệm
với thú cưng, còn mình thì không muốn nhận cái gánh nặng ấy. Dừng chủ đề này ở
đây đi trước khi Lexie lại bắt đầu lải nhải.” Georgeanne ngừng lại, rồi hạ thấp
giọng. “Mình nghĩ cuối cùng thì con bé cũng qua được cơn ám ảnh về chuyện mình
sắp có... à, cậu biết mà. “

Phải, Mae biết, và cô nghĩ Georgeanne đã thật khôn ngoan khi không to mồm nói
ra khiến Lexie chợt nhớ. Trong gần sáu tháng qua, Lexie bị ám ảnh bởi ý nghĩ
Georgeanne sẽ sinh cho con bé một cậu em trai hay một cô em gái. Con bé làm mọi
người phát điên lên, và Mae thở phào nhẹ nhõm vì sẽ không phải nghe về chuyện
em bé nữa. Đứa bé này đã luôn bị ám ảnh về chuyện có một con thú cưng, và được
xác nhận là mắc chứng nghi bệnh sau khi sinh, đó là lỗi một trăm phần trăm do
Georgeanne bởi lúc nào cô cũng làm như sắp cháy nhà đến nơi từ những xây xước
rất đỗi vụn vặt.

Mae với lấy cốc trà, đưa lên gần tới miệng, rồi lại đặt xuống. Bước tới chỗ cô
là hai người đang ông to lớn rất có dáng vận động viên. Cô nhận ra người đàn
ông mặc áo phông trắng không cổ sơ vin trong chiếc quần jeans bạc là John
Kowalsky. Người kia thấp bé hơn một chút, cô chưa từng thấy bao giờ.

 Đàn ông cao to lực lưỡng lúc nào cũng khiến Mae bối rối, không chỉ bởi cô
cao chỉ hơn mét rưỡi mà còn bởi cô nặng những bốn mươi tám ký. Bụng cô chộn
rộn, và cô nhận ra nếu mình mà còn căng thẳng thế này thì chắc Georgeanne phải
vô cùng rối loạn. Mae nhìn bạn, nhận thấy vẻ bồn chồn trong mắt Georgeanne.

“Lexie, đứng dậy phủi cỏ khỏi váy con đi,” Georgeanne chậm rãi nói. Cô cúi
xuống đỡ con gái dậy, hai tay run run.

Mae thấy Georgeanne căng thẳng nhiều lần, nhưng chưa từng thấy cô căng thẳng
thế này suốt bao năm nay. “Cậu sẽ ổn chứ?” cô hỏi khẽ.

Georgeanne gật đầu, và Mae đăm đăm nhìn bạn dán một nụ cười lên mặt và bật mở
công tắc người chủ tiệc.

“Chào, John,” Georgeanne nói khi hai người đàn ông tới gần.

“Tôi hy vọng anh không phải vất vả tìm chúng tôi.”

“Không,” anh trả lời, đứng ngay trước mặt họ. “Khó gì đâu.” Mắt anh giấu sau
cặp kính râm đắt tiền. Môi anh mím thành một đường kẻ thẳng tắp, và trong vài
giây ngượng nghịu, hai người chỉ nhìn xoáy vào nhau. Rồi Georgeanne bỗng quay
sang người đàn ông kia, Mae đoán anh ta cao chừng mét tám. “Chắc anh là bạn của
John.”

“Hugh Miner.” Anh ta mỉm cười và chìa tay ra.

Trong khi Georgeanne đưa hai tay ra bắt, Mae quan sát Hugh. Qua cái liếc vội,
cô cho rằng nụ cười của anh ta quá ư dễ chịu so với một người đàn ông có đôi
mắt màu hổ phách dữ tợn nhường ấy. Anh ta quá cao lớn, quá bảnh trai, và cổ anh
ta quá dày. Cô không thích anh ta.

“Tôi rất vui vì hai anh đã đến đây với chúng tôi hôm nay,” Georgeanne nói khi
buông tay Hugh ra, rồi giới thiệu hai người đàn ông với Mae.

John và Hugh nói chào cùng một lúc. Vốn không giỏi che giấu cảm xúc như
Georgeanne, Mae cố nặn một nụ cười, đại loại thế. Thực ra nó giống một cái giật
môi hơn.

“Đây là chú Miner, còn chú Kowalsky thì con biết rồi, phải không Lexie?”
Georgeanne hỏi con, vẫn đang đạo diễn màn chào hỏi.

“Vâng. Chào chú.”

“Chào, Lexie. Cháu thế nào?” John hỏi.

“À,” Lexie bắt đầu vờ thở dài như người lớn, “Hôm qua cháu bị vấp ngón chân vào
hàng hiên trước nhà, bị va khuỷu tay rất mạnh vào bàn, nhưng giờ cháu ổn hơn
rồi.”

John thọc tay vào túi trước quần jeans. Anh nhìn xuống Lexie và băn khoăn tự
hỏi các ông bố sẽ nói gì khi đứa con gái bé bỏng bị vấp vào hàng hiên rồi va
khuỷu tay vào bàn. “Chú thật vui vì biết cháu đã ổn hơn,” là tất cả những gì mà
rốt cuộc anh có thể nói ra. Bởi không thể nghĩ ra bất cứ câu nào khác nữa nên
anh chỉ biết đăm chiêu nhìn. Anh tự cho phép mình được ngắm nhìn con bé thỏa
thích kể từ lần đầu anh nhận ra nó là con anh. Anh nhìn mặt con, không lớp lớp
son môi và tầng tầng phấn mắt, lần đầu tiên anh thực sự được nhìn thấy con bé.
Anh nhìn đám tàn nhang lấm chấm những chấm nâu nâu bé xíu trên chiếc mũi nhỏ
thẳng tắp. Làn da con bé mịn màng như kem thoa, và đôi má bầu bĩnh hây hây hồng
như thể nó vừa chạy. Đôi môi cong lên giống hệt Georgeanne, nhưng đôi mắt là
của anh, từ màu mắt tới hàng mi anh được thừa hưởng từ mẹ anh.

 ”Cháu có một cái diều,” con bé nói với anh.

Mái tóc nâu thẫm của nó rủ xuống thành từng lọn từ bên dưới chiếc mũ bò đính
bông hướng dương to đùng đằng trước “Ồ? Hay quá,” anh thốt lên, băn khoăn tự
hỏi chuyện quái quỷ gì đang xảy ra với mình. Đồng đội anh từng đưa con tới sân
tập, và chưa bao giờ anh thấy khó bắt chuyện với chúng. Nhưng chẳng hiểu sao
anh lại không nghĩ ra nổi bất cứ điều gì để nói với chính con đẻ của mình.

“Ổ, đúng là một ngày đáng yêu để đi dã ngoại,” Georgeanne nói, và Lexie quay
đi. “Chúng ta sẽ ăn trưa cùng nhau. Tôi nghĩ hai quý ông đây đều đói rồi.”

“Tôi đang chết đói đây,” Hugh thú nhận.

“Anh thì sao, John?”

Khi Lexie bước thẳng tới chỗ mẹ nó, John nhận thấy vết cỏ bẩn dính sau váy bò. “Tôi
thì sao?” anh hỏi, rồi ngước lên.

Georgeanne bước vòng tới bên kia bàn và ngước lên nhìn anh. “Anh có đói không?”

“Không.”

“Anh có muốn uống trà đá không?”

“Không. Không trà.”

“Tốt thôi,” Georgeanne nói, nở nụ cười gượng gạo. “Lexie, con đưa đĩa cho dì
Mae và chú Hugh trong khi mẹ rót trà nhé?”

Rõ ràng câu trả lời của anh khiến Georgeanne tức giận, nhưng thực lòng anh
chẳng bận tâm. Anh cảm thấy đúng cái cảm giác bồn chồn anh thường thấy trước
mỗi trận đấu.

Chiết tiệt thật, Lexie làm anh sợ chết khiếp mà anh không biết tại sao.

Trong đời mình, anh từng đối mặt với những hàng thủ lăn xả và dai sức nhất mà
giải NHL ném vào anh. Cổ tay và mắt cá chân từng vỡ toác, xương đòn hai lần gãy
răng rắc như cành cây, lông mày trái khâu năm mũi, bên phải đầu khâu sáu mũi,
và bên trong miệng khâu mười bốn mũi. Mà đó mới chỉ là những thương tích anh
nhớ được lúc này. Sau mỗi lần hồi phục chấn thương, anh lại chộp lấy chiếc gậy
và trượt vào sân băng, không sợ hãi.

“Chú Bức Tường, chú có muốn một hộp nước quả không ạ?” Lexie hỏi khi trèo lên
ghế.

Anh nhìn vào bắp chân gầy nhẳng và đầu gối khẳng khiu của cô bé, cảm thấy như
ai đó huých tay vào bụng mình. “Nước quả gì thế?”

“Nước việt quất hoặc nước dâu.”

“Cho chú nước việt quất,” anh đáp. Lexie nhảy xuống rồi chạy quanh bàn tới chỗ
thùng làm lạnh.

“Này, Bức Tường, cậu nên thử món măng tây cá ngừ này” Hugh nhắc, miệng ngốn
ngấu khi bước tới, đối diện John và gần Georgeanne.

“Tôi rất vui vì anh thích nó.” Georgeanne quay sang mỉm cười với Hugh, không
phải là cái cười giả tạo cô vẫn trao cho John. “Tôi không chắc mình thái lát cá
ngừ đủ mỏng đâu. À, mà anh nhớ thử cả món sườn thăn non nữa nhé. Nước xốt mận
quả là tuyệt cú mèo.” Georgeanne quay sang liếc cô bạn đang đứng cạnh mình bên
kia. “Cậu không nghĩ thế sao, Mae?”

Cô bạn thấp lùn tóc hoe vàng nhấm nhẳng nhún vai. “Ừ, chắc chắn rồi.”

Mắt Georgeanne mở to nhìn xoáy vào Mae, đoạn cô quay sang nhìn Hugh. “Sao anh
không thử món patê trong khi tôi cắt cho anh ít thịt gà nhỉ?” Rồi chẳng đợi câu
trả lời, cô chộp lấy con dao to. “Trong lúc tôi cắt thịt gà, sao mọi người
không nhìn quanh bàn xem? Nếu nhìn kỹ, mọi người sẽ thấy những con vật bé xíu
mặc đồ dã ngoại đấy.”

John khoanh tay trước ngực và dán mắt vào con lợn Chia quàng khăn đeo kính râm.
Cảm giác gai gai nhồn nhột rộn lên nơi gáy anh.

“Lexie và tôi nghĩ rằng hôm nay sẽ là một dịp tuyệt vời để trưng ra bộ sưu tập
trang phục hè cho thú cưng của con bé.”

“Ồ, giờ thì mình đã hiểu,” Mae vừa nói vừa với lấy chiếc bánh cua.

“Trang phục thú cưng?” Giọng Hugh đầy hoài nghi như cảm giác của John.

“Vâng. Lexie muốn may quần áo cho tất cả các con thú nhỏ bằng thủy tinh hay
gốm sứ trong nhà chúng tôi. Tôi biết điều đó nghe có vẻ lạ lùng,” Georgeanne
nói tiếp trong khi thái thịt gà, “nhưng đúng là con bé có sở thích ấy. Cụ con
bé, cụ Chandler, bên đằng nhà ông tôi, từng thiết kế quần áo cho đám gà mái
ghẹ. Là người miền Bắc, có lẽ mọi người không biết điều này nhưng gà mái ghẹ là
gà mái tơ. Tơ bởi chúng còn chưa kịp già thì đã…” Cô ngừng lại, giơ con dao
cách cổ họng chừng chục phân và giả tiếng cục tác. “Chậc, mọi người biết đấy.”
Cô nhún vai rồi lại hạ thấp con dao xuống. “Và gà mái vì, chẳng cần phải nói,
sẽ là sự hoài phí thời gian và tài năng ghê gớm khi thiết kế quần áo cho đám gà
trống, bởi lũ gà trống sớm muộn rồi cũng sẽ cư xử cục súc thôi. Dù sao thì cụ
tôi cũng từng may mấy cái áo choàng bé xíu không tay có mũ trùm đầu cho đám gà
mái tơ của gia đình. Lexie được thừa hưởng khiếu thời trang của cụ và đang nối
tiếp truyền thống lâu đời của gia đình. “

“Cô nói nghiêm túc chứ?” Hugh hỏi khi Georgeanne thảy lát thịt gà vào đĩa của
anh.

 Cô đưa tay phải lên. “Thề có Chúa.”

Cơn nhói buốt trong đầu John chạy thẳng tới não khi cảm giác ngờ ngợ quen thuộc
xâm chiếm anh. “Ôi, Chúa ơi.”

Georgeanne liếc qua bàn nhìn anh, và anh thấy cô của bảy năm về trước, một phụ
nữ trẻ trung xinh đẹp con cà con kê mãi về món thạch Jell-O và mấy người theo
phái Baptist. Anh thấy khuôn miệng gợi tình và đôi mắt xanh sát thủ. Anh thấy
cơ thể mời gọi của cô gói gọn trong lần áo choàng lụa đen của anh. Cô từng
khiến anh phát điên bằng những cái liếc mắt khiêu khích và giọng nói bọc đường.
Và cũng nhiều như anh ghét phải thừa nhận, nhưng anh không thể cưỡng lại cô.

“Chú Bức Tường.”

John cảm thấy ai đó giần giật ở đỉa quần, anh cúi xuống thì nhìn thấy Lexie.

“Hộp nước quả của chú này, chú Bức Tường.”

“Cảm ơn cháu,” anh nói và nhận lấy chiếc hộp nhỏ màu xanh từ tay cô bé.

“Cháu cho cả ống hút vào rồi đấy.”

“Ừ, chú thấy rồi.” Anh đưa hộp nước lên miệng và hút thứ nước xanh qua ống hút.

“Ngon chứ ạ?”

“Ừm,” anh nói, cố không nhăn nhó.

“Cháu mang cả cái này cho chú nữa.”

Con bé chìa cho anh tờ khăn giấy, anh đưa bàn tay rảnh ra bắt. Tờ khăn giấy gấp
thành hình thù gì đó mà anh không nhận ra.

“Nó là một con chó.”

“Ừ. Chú cũng thấy thế,” anh nói dối.

“Cháu có một cái diều.”

“Ồ?”

“Vâng, nhưng nó không bay được. Mẹ mặc áo nịt cỡ to rồi, nhưng mẹ vẫn không
chạy được.” Con bé lắc đầu buồn bã. “Còn dì Mae thì không chạy được vì dì không
mặc áo nịt.”Sự im lặng trùm lên buổi picnic như một tầm rèm u ám. John liếc
nhìn hai người phụ nữ ở bên kia bàn. Cả hai đều đứng chết trân như trời trồng.
Mae nắm chặt cốc nước ô liu đen trước miệng, còn Georgeanne thì giữ con dao to
trong không trung với một miếng vụn thịt gà dính ở mũi dao. Mắt họ mở lớn, và
má họ lựng lên những vết đỏ lừ.

 John ho vào tờ khăn giấy để cố nhịn cười, nhưng chẳng ai thốt lên được
lời nào.

Ngoại trừ Hugh. Anh chàng nhoài người tới trước, nhìn qua Georgeanne tới cô bạn
thấp hơn. “Có phải thế không, em yêu?” anh ta hỏi, ngoác miệng cười.

Cả hai người phụ nữ buông tay xuống cùng lúc. Georgeanne lúi húi cắt thịt trong
khi Mae quay sang nhíu mày với Hugh.

Hoặc là Hugh không nhận ra vẻ cáu kỉnh của Mae, hoặc là anh chả buồn bận
tâm. Đi guốc trong bụng Hugh, John cá là anh ta không bận tâm. “Tôi vẫn luôn
khoái một cô nàng phóng đãng,” anh nói tiếp. “Thực ra tôi đang cân nhắc chuyện
gia nhập tổ chức NOW 4.

“Đàn ông không thể tham gia tổ chức này,” Mae gắt gỏng.

“Điểm này thì em sai rồi. Tôi nghĩ Phil Donahue cũng là thành viên đấy.”

“Không phải vậy,” Mae cãi lại.

“Chà, nếu không phải thì ông ta nên tham gia. Ông ta là người ủng hộ nam nữ
bình quyền hơn bất cứ người phụ nữ nào tôi từng gặp.”

“Tôi ngờ là nếu có bị một người ủng hộ nam nữ bình quyền cắn cho một nhát vào
mông thì anh chả nhận ra cô ta.”

Kẻ Vũ Phu mỉm cười. “Tôi chưa từng bị cô nào cắn vào mông cả, dù có ủng hộ nam
nữ bình quyền hay không. Nhưng tôi rất sẵn lòng nếu em làm thế. “

Mae khoanh tay dưới ngực, nói, “Qua lối cư xử kém cỏi của anh, kích thước cái
cổ anh, và cái trán dốc, tôi đoán là anh chơi khúc côn cầu.”

Hugh liếc nhìn John rồi phá lên cười. Buông lời rác rưởi rồi hứng lấy khi bị
ném trả lại là một trong những điểm John thích ở Hugh. “Trán dốc”, Hugh khúc
khích khi đưa mắt nhìn Mae chằm chằm. “Câu nói của ngày đấy.”

“Anh chơi khúc côn cầu à?”

“Phải. Tôi là thủ môn của đội Chinooks. Còn cô làm nghề gì, đô vật hạng nặng à?”

“Dưa góp nhé?” Georgeanne với lấy chiếc đĩa dính nước xốt rồi chìa nó về phía
Hugh. “Tôi tự làm đấy.”

John lại cảm thấy ai đó giần giật ở đỉa quần. “Chú có biết thả diều không, chú
Bức Tường?”

Anh cúi xuống nhìn gương mặt ngẩng lên của Lexie, mắt con bé nheo lại dưới ánh
nắng. “Chú sẽ thử xem sao.”

Lexie mỉm cười, lúm đồng tiền hằn sâu bên má phải. “Mẹ” con bé vừa hò hét vừa
chạy quanh rồi lao nhanh về phía bên kia bàn. “Chú Bức Tường sẽ thả diều với
con!”

Ánh mắt của Georgeanne quay ngoắt sang anh. “Anh đâu cần phải làm thế, John”

“Tôi muốn thế.” Anh đặt hộp nước quả lên bàn.

Georgeanne đặt chiếc đĩa đầy nước xốt xuống, và nói, “Tôi sẽ đi cùng cả hai.”

“Không.” Anh cần và muốn có thời gian riêng với con gái. “Lexie và tôi có thể
tự lo được.”

“Nhưng tôi không nghĩ đó là một ý hay.”

“Tôi thì lại cho là hay đấy.”

Cô liếc nhanh qua vai mình nhìn Lexie, con bé đang quỳ xuống đất gỡ dây. Cô nắm
tay anh kéo anh ra xa vài mét. “Được rồi, nhưng không đi quá xa đâu đấy,” cô
nói, khựng lại trước anh. Cô kiễng chân lên nhìn những người khác qua vai anh.

Cô thì thầm điều gì đó về Lexie, nhưng anh chẳng buồn nghe. Cô đang gần sát
anh, và anh ngửi thấy mùi nước hoa của cô. Anh đưa mắt nhìn xuống những ngón
tay gầy guộc của cô bám vào bắp tay anh. Thứ duy nhất giữ đôi gò bồng đào của
cô không cọ vào ngực anh là một khoảng không rất mảnh. “Cô muốn gì?” anh hỏi,
ngước mắt lên nhìn đôi cánh tay trần nõn nà và cái hõm mềm mại nơi cổ họng cô.
Cô vẫn rất khiêu khích như xưa.

“Chỉ là tôi đã nói với anh.” Cô buông thõng tay, hạ gót chân xuống.

“Sao cô không nói lại với tôi nhỉ, nhưng lần này thì dẹp bộ ngực của cô qua một
bên đi.”

Lông mày cô nhíu lại. “Cái gì của tôi? Anh đang nói cái gì thế?”

Trông cô thật sự bối rối, và John gần như tin vào vẻ ngoài ngây thơ đó. Nhưng
chỉ gần như thôi. “Nếu cô muốn nói với tôi, thì đừng dùng cơ thể cô làm điều
đó. Dĩ nhiên là trừ phi cô muốn tôi chấp nhận lời đề nghị của cô.”

Cô lắc đầu, tỏ vẻ ghê tởm. “Anh là đồ bệnh hoạn, John Kowalsky. Nếu anh có thể
bỏ con ngươi anh khỏi thân trước váy của tôi, và dứt đầu óc anh khỏi những thứ cặn
bã dơ dáy, thì chúng ta sẽ có cái gì đó quan trọng cần bàn hơn là cái ảo tưởng
lố bịch của anh đấy.”

John suýt ngã ngửa, rồi nhìn xoáy vào gương mặt cô. Anh không bệnh hoạn. Ít ra
thì anh không nghĩ vậy. Anh không bệnh hoạn như mấy gã anh biết.

Georgeanne nghiêng đầu sang bên. “Tôi muốn anh nhớ lời hứa.”

“Lời hứa nào?”

“Không nói với Lexie rằng anh là bố con bé. Nó nên được nghe sự thật từ tôi.”

“Được thôi,” anh nói, và đưa tay lên cặp kính râm nơi sống mũi. Anh nhét hờ
chiếc kính vào túi trước quần bò, để nó lủng lẳng bên hông. “Và tôi muốn cô nhớ
rằng Lexie và tôi đang tìm hiểu về nhau. Chỉ riêng hai chúng tôi. Tôi sẽ đưa
con bé đi thả diều, và đừng lẽo đẽo theo chúng tôi trong khoảng mười phút đấy.”

Cô suy nghĩ trong chốc lát, rồi nói, “Lexie nhát lắm. Con bé cần có tôi.”

John thực sự hoài nghi rằng trong người Lexie lại có dây thần kinh nhút nhát. “Đừng
nói nhảm nhí, Georgeanne.”

Đôi mắt xanh lá của cô nheo lại. “Đừng có đi đâu xa khỏi tầm mắt của tôi đấy.”

“Cô nghĩ tôi sẽ làm gì chứ, bắt cóc con bé à?”

“Không,” cô nói, nhưng John biết cô chẳng tin tưởng ở anh hơn anh tin tưởng ở
cô. Anh có cảm giác đó chính là điều cô suy nghĩ.

“Chúng tôi sẽ không đi đâu xa.” Anh xoay người quay về phía hai người kia. Anh
đã kể cho Hugh nghe về Georgeanne và Lexie, và anh biết có thể yên tâm ở sự
chín chắn của anh bạn. “Cháu xong chưa, Lexie?” anh hỏi.

“Rồi ạ.” Con bé đứng lên với chiếc diều hồng trong tay, rồi cả hai cùng quay đi
rời xa khỏi đám người đang chơi trò ném đĩa Frisbees để chạy thẳng tới một
khoảng cỏ mênh mông tươi xanh. Sau lần thứ hai Lexie để chân mắc vào đuôi diều,
anh cầm lấy chiếc diều từ tay con. Đỉnh đầu nó còn chưa tới thắt lưng anh, và
mỗi khi bước đi bên con anh lại cảm thấy mình thật cao lớn. Lại một lần nữa anh
không biết phải nói gì và chỉ nói rất ít. Nhưng rồi anh chẳng cần phải nói gì
nhiều.

“Năm ngoái, khi còn bé tí, cháu học ở vườn trẻ,” con gái anh gợi chuyện, rồi
gọi tên từng đứa trong lớp, kể xem chúng có thú cưng hay không rồi mô tả những
con thú.

“Và cậu ta cóa những ba con chó. “Cô bé giơ ba ngón tay lên. “Thật bất
công.”

John nhìn qua vai, ước tính hai người đã bước được khoảng sáu mươi mét nên dừng
lại. “Chú nghĩ chỗ này tuyệt đấy.”

“Chú cóa con chó nào không?”

“Không. Chú không có chó.” Anh đưa lại cuộn dây cuốn quanh một cái que cho con
bé.

Nó lắc đầu buồn bã. “Cháu cũng không có, nhưng cháu muốn một chú chó đốm,” con
bé vừa nói vừa túm lấy hai đầu que. “Một chú chó to với nhiều thật là nhiều
đốm.”

“Cầm chặt lấy sợi dây nào.” Anh giữ chiếc diều hồng trên đầu và cảm thấy gió
đẩy nhè nhẹ.

“Cháu không phải chạy ư?”

“Hôm nay thì không.” Anh đưa chiếc diều sang bên trái và gió thổi mạnh hơn. “Giờ
thì bước lùi lại, nhưng đừng buông dây cho tới khi chú bảo buông ra nhé.” Cô bé
gật đầu, nhìn anh với vẻ hệ trọng đến mức anh suýt bật cười.

Sau mười lần thử, chiếc diều bay lên được chừng sáu mét. “Giúp cháu với.” Con
bé hốt hoảng, mặt ngước lên trời. “Nó lại sắp rơi nữa rồi.”

“Lần này thì không,” anh bước lại gần trấn an con. “Mà nếu nó có rơi thì chúng
ta sẽ lại thả nó bay lên.”

Nó lắc đầu, chiếc mũ bò rơi xuống đất. “Nó sẽ rơi, cháu biết mà. Chú cầm lấy
này.” Nó ấn cuộn dây về phía anh.

John ngồi sụp xuống một bên gối cạnh cô bé. “Cháu làm được mà,” anh nói, và khi
con bé tựa lưng vào ngực anh, anh cảm thấy tim mình lỡ vài nhịp đập. “Chỉ cần
thả dây từ từ thôi.” John nhìn chăm chú khuôn mặt con khi nó dán mắt nhìn chiếc
diều bay lượn vút trên cao. Mặt con bé thoắt chuyển từ lo lắng sang vui sướng.

“Cháu làm được rồi,” con bé thì thầm, rồi quay lại nhìn anh qua vai.

Hơi thở dịu dàng của con bé khiến má anh thoáng đỏ và xoáy sâu vào tâm hồn anh.
Một khoảnh khắc trước, tim anh còn gần như ngừng đập vậy mà giờ đây đã lại đập
dồn. Nó giống như một quả bóng đang được bơm căng bên dưới khung xương ức của
anh. Nó căng phồng, đập nhanh và mạnh mẽ, và anh phải quay đi. Anh nhìn những
người khác đang thả diều xung quanh mình. Anh nhìn những ông bố, bà mẹ và lũ
trẻ. Gia đình. Anh đã lại được làm bố. Nhưng lần này sẽ là bao lâu đây? tiềm
thức anh lên tiếng.

“Cháu làm được rồi, chú Bức Tường ơi.” Con bé khẽ reo, ngỡ như sợ tiếng nói to
sẽ làm cái diều bổ nhào xuống đất.

Anh nhìn con. “Tên chú là John.”

“Cháu làm được rồi, chú John ơi.”

“Phải rồi, cháu làm được rồi.”

Con bé mỉm cười. “Cháu thích chú.”

“Chú thích cháu, Lexie ạ.”

Con bé ngước lên nhìn chiếc diều. “Chú có con không?”

Câu hỏi của cô bé khiến anh ngỡ ngàng, và anh ngừng lại một lát trước khi trả
lời, “Có.” Anh sẽ không nói dối con bé, nhưng con bé chưa sẵn sàng đón nhận sự
thật ấy, và dĩ nhiên là, anh đã hứa với Georgeanne. “Chú có một cậu nhóc, nhưng
cậu bé đã mất từ nhỏ.”

“Sao lại thế được?”

John ngước lên liếc nhìn chiếc diều. “Cháu thả thêm dây ra đi.” Khi Lexie làm
theo, anh nói, “Cậu bé ra đời sớm quá.”

“Ôi, mấy giờ ạ?”

“Cái gì?” Anh nhìn vào khuôn mặt bé bỏng rất gần mặt mình.

“Cậu ấy được sinh ra lúc mấy giờ?”

“Khoảng bốn giờ sáng.”Con bé gật đầu cơ hồ như điều đó đã trả lời cho tất cả. “Phải
rồi, sớm quá. Lúc ấy bác sĩ nào cũng đang ngủ cả. Cháu thì ra đời muộn.”

John mỉm cười, ấn tượng trước logic của cô bé. Con bé này hẳn là rất sáng dạ.

 ”Tên cậu ấy là gì ạ?”

“Toby.” Và anh là anh trai con đấy.

“Tên gì kỳ quá.”

“Chú thích cái tên ấy,” anh nói, cảm thấy tự nhiên hơn một chút kể từ lúc lái
xe vào công viên.

Lexie nhún vai. “Cháu muốn có em bé, nhưng mẹ không đồng ý.”

John thận trọng sửa lại tư thế sao cho cô bé tựa vào ngực anh thật thoải mái và
dễ chịu, và mọi thứ dường như trôi vào đúng chỗ của nó, giống như một đường
bóng trơn tru: di bóng, đập bóng, ghi bàn. Anh đặt tay lên hai đầu que gần tay
con và thư giãn thêm chút nữa. Cằm anh chạm vào thái dương con mềm mại khi anh
nói, “Trời, cháu còn bé quá mà, sao có thể có em bé chứ.”

Lexie khúc khích cười và lắc đầu. “Có phải cháu đâu! Mẹ cháu kia mà. Cháu muốn mẹ
sinh em bé.”

“Và mẹ cháu nói không à?”

“Vâng, vì mẹ không cóa chồng, nhưng mẹ có thể kiếm được một tấm chồng
nếu cố gắng hơn một chút.”

“Một tấm chồng?”

“Vâng, và rồi mẹ sẽ có thể sinh em bé nữa. Mẹ nói mẹ ra vườn và nhổ cháu lên
như nhổ một củ cà rốt, nhưng không phải thế. Trẻ con không mọc ở trong vườn.”

“Thế chúng sinh ra từ đâu?”

Cô bé va mạnh vào cằm John lúc ngước lên nhìn anh. “Chú không biết thật á?”

Anh đã biết từ lâu lắm rồi. “Sao cháu không kể cho chú biết nhỉ?”

Cô bé nhún vai rồi lại chăm chú nhìn cánh diều. “Ồ, đàn ông và đàn bà lấy nhau,
rồi họ trở về nhà và nằm lên giường. Họ nhắm mắt thật chặt, chặt lắm và nghĩ
nhiều, nhiều lắm. Thế rồi một đứa bé chui vào bụng của người mẹ.”

John cười, không sao nhịn được. “Mẹ có biết cháu nghĩ trẻ con được hình thành
là nhờ thần giao cách cảm không?”

“Sao ạ?”

“À, không có gì.” Anh đã nghe nói hoặc đọc ở đâu đó rằng bố mẹ nên nói chuyện
với con cái về tình dục khi con còn nhỏ. “Có lẽ cháu nên nói với mẹ rằng cháu
biết trẻ con không mọc lên ở trong vườn.”

Cô bé nghĩ một lát rồi nói, “Không. Thỉnh thoảng mẹ lại thích kể câu chuyện ấy
vào ban đêm. Nhưng cháu đã bảo mẹ rằng cháu đã quá lớn để tin vào mấy chuyện
như thỏ Phục sinh rồi.”

John cố tỏ vẻ như bị sốc. “Cháu không tin có thỏ Phục sinh sao?”

“Không.”

“Sao lại không?”

Cô bé quay lại nhìn anh hồ cứ như thể anh ngốc nghếch lắm. “Vì thỏ chỉ có mấy
cái chân bé xíu thôi, làm sao nhuộm trứng Phục sinh được.”

“À… đúng rồi.” Một lần nữa anh lại bị ấn tượng trước logic-sáu-tuổi của con bé.
“Thế thì chú cá là cháu cũng lớn rồi và không tin có ông già Noel nữa nhỉ.”

Con bé há hốc miệng, choáng váng. “Ông già Noel có thật mà!”

Anh đoán là cái lý lẽ làm con bé tin thỏ không biết nhuộm trứng không áp dụng
cho những con tuần lộc biết bay, một ông già béo tròn trượt xuống ống khói nhà
cô bé, hay những người lùn nhỏ bé vui vẻ sống để làm đồ chơi suốt
ba-trăm-sáu-mươi-tư ngày trong cả năm. “Thả thêm một chút dây ra nữa nào,” anh
nói, cảm thấy thật thư thái. Anh lắng nghe tiếng con nói không ngớt và nhận ra
những chi tiết nho nhỏ về con. Anh nhìn gió thổi bay mái tóc mây bồng quanh nó,
nhận ra cái cách nó khom vai và đặt tay lên môi mỗi khi cười khúc khích. Lexie
rất hay khúc khích cười. Chủ đề yêu thích của nó là thú cưng và em bé. Nó có
năng khiếu trầm trọng hóa mọi chuyện, và chẳng còn nghi ngờ gì nữa, nó mắc
chứng luôn nghĩ mình có bệnh.

“Đầu gối cháu bị trầy rồi,” con bé nói với anh sau khi ngâm nga một danh sách
dài dặc những thương tích nó gặp phải trong mấy ngày vừa rồi. Nó kéo váy lên
đến cặp đùi gầy nhẳng, đưa một chân ra trước mặt, và chạm ngón tay vào miếng
băng cứu thương màu xanh nê ông. “Nhìn ngón chân cháu nữa này,” nó nói thêm,
chỉ vào miếng băng dán màu hồng lộ ra bên dưới chiếc xăng đan nhựa. “Cháu bị
vấp ở nhà Amy. Chú có chỗ nào bị đau không?”

“Chỗ đau à? Ừm…” Anh nghĩ một lát, rồi bịa, “sáng nay chú bị xước cằm.”

Mắt con bé nhiu nhíu lại khi săm soi nhìn cằm anh. “Mẹ cóa băng gạc. Mẹ cóa
nhiều nhiều băng gạc trong túi. Cháu sẽ lấy một miếng cho chú.”

Anh tưởng tượng ra miếng băng gạc hồng dán dưới cằm mình. “Không. Không mà, cám
ơn cháu nhé,” anh từ chối, và bắt đầu ghi nhớ những nét đặc biệt của Lexie, như
cái cách con bé thường nói “cóa” thay vì “có”. Anh dồn hết sự chú ý vào
bé, làm như chỉ có hai người bọn họ trong công viên. Nhưng dĩ nhiên là không
phải thế, và giây phút ấy trôi qua mau khi hai cậu bé bước tới chỗ họ. Bọn trẻ
trạc mười ba tuổi, và cả hai đều mặc quần soóc đen rộng lùng nhùng, bơi trong
áo phông không cổ rộng thùng thình và đội mũ lưỡi trai bóng chày ngược ra sau.

“Chú là John Kowalsky ạ?”

“Là chú đây,” anh vừa nói vừa đứng dậy. Thường thì anh không thấy khó chịu bị
đám trẻ, nhất là những đứa trẻ thích trò chuyện về khúc côn cầu, làm phiền.
Nhưng hôm nay anh không muốn ai tới gần. Lẽ ra anh phải cẩn thận hơn. Sau mùa
khúc côn cầu vừa rồi, đội Chinooks lớn mạnh và nổi tiếng trong cả cái bang này
hơn bao giờ hết. Bên cạnh Ken Griffey và Bill Gates, anh là gương mặt nổi tiếng
nhất ở bang Washington, nhất là sau vụ chụp hình quảng cáo trên panô cho Hiệp
hội Sữa Dairy Association.

Đồng đội ném cho anh cả đống lời bỡn cợt mắc dịch về bộ ria mép sữa trắng, và
dù tỏ ra không phải vậy, anh vẫn cảm thấy mình như một gã trai èo uột mỗi khi
lái xe đi ngang qua mấy tấm panô quảng cáo đó. Nhưng John cũng đã học được từ
lâu rằng chẳng có chuyện gì phải quá bận tâm mấy chuyện không tránh khỏi với
một vận động viên-ngôi sao.

“Chúng cháu đã xem chú đấu với đội Black Hawks,” một cậu bé nói, trên chiếc áo
phông không cổ in hình một người trượt ván tuyết. “Cháu rất kết cái cách chú
đẩy hông Chelios ở giữa sân băng. Trời ạ, chú ấy bay vèo vèo.”

John cũng nhớ trận ấy. Anh đã bị phạt ra sân hai phút và bị một vết thâm tím cỡ
bằng quả dưa đỏ. Đau muốn chết, nhưng đó là một phần của cuộc chơi. Một phần công
việc của anh.

“Chú vui khi biết cháu thích,” anh nói và nhìn sâu vào những đôi mắt trẻ thơ.
Lòng tôn sùng người hùng anh thấy trong đó khiến anh khó chịu. “Cháu có chơi
khúc côn cầu không?”

“Chỉ trên đường phố thôi ạ,” cậu bé kia trả lời.

“Ở đâu cơ?” Anh quay sang Lexie và nắm lấy tay con để con bé không cảm thấy bị
gạt ra ngoài.

“Phía đằng kia ở trường tiểu học gần nhà cháu. Chúng cháu tụ tập cả hội con
trai rồi cùng chơi.”

Khi hai cậu bé kể lể cho anh nghe về trò khúc côn cầu đường phố, anh nhác thấy
một phụ nữ trẻ đang bước thẳng về phía họ. Chiếc quần jeans của cô chật đến
phát đau, và chiếc áo dây không chạm nổi đến rốn. Từ cách anh năm mươi bước,
John đã có thể điểm mặt chỉ tên ngay đó là một em thỏ cái đang nứng. Các cô em
này luôn quanh quẩn bên anh. Đợi trong tiền sảnh khách sạn, chờ ngoài phòng
thay đồ, và đứng trấn giữ ngay cạnh chiếc xe buýt của đội. Đám đàn bà thèm muốn
được gần gũi với những ngôi sao luôn dễ nhận thấy giữa đám đông. Tất cả hiện rõ
ở dáng họ bước đi và cách họ hất tóc. Trong cả cơn ham muốn ánh lên trong mắt
họ.

Anh thầm mong em này sẽ đi qua họ. Nhưng không.

“David, mẹ tìm cháu đấy,” cô ta nói khi dừng lại gần hai cậu bé.

“Nói với mẹ cháu là chỉ một giây nữa thôi ạ.”

“Mẹ cháu bảo bây giờ.”

“Chết tiệt!”

 ”Thật tuyệt được gặp các cháu.” John chìa tay ra bắt. “Lần sau có đến xem
thì nhớ đợi chú ở ngoài phòng thay đồ nhé, rồi chú sẽ giới thiệu cho vài chú
khác.”

“Thật không ạ?”

“Thật chứ.”

Khi hai đứa trẻ đi khỏi, cô ta vẫn đứng trơ ở đó. John buông tay Lexie ra và
liếc xuống chỏm đầu cô bé. “Đã đến lúc thu diều về rồi,” anh nói. “Mẹ sẽ thắc
mắc không biết chúng ta làm sao rồi cho mà xem.”

“Anh là John Kowalsky à?”

Anh ngước lên. “Phải,” anh trả lời, giọng tỉnh bơ báo cho cô ta biết một cách
rất rõ ràng rằng anh chẳng mặn mà gì trước sự có mặt của cô ta. Cô ta khá xinh
đẹp nhưng gầy nhẳng và bộ tóc nhuộm vàng trên đầu khiến cô ta trông chẳng khác
nào bị vứt ngoài nắng quá lâu, và John không hiểu cô ta sẽ khiếm nhã đến mức
nào để ép anh lên giường cùng mình.

“Ồ, John,” cô ta nói, và từ từ nhếch đôi mép lên thành một nụ cười tán tỉnh. “Em
là Connie.” Mắt cô ta săm soi John từ đầu đến chân. “Và trông anh khá tuyệt
trong chiếc quần jeans ấy.”

Anh nhớ mang máng có nghe câu nói ấy trước đây, nhưng cũng lâu lâu rồi nên
không nhớ rõ lắm. Cô ta không những xâm phạm vào khoảng thời gian riêng tư của
anh với Lexie, mà còn chẳng có gì độc đáo.

“Nhưng em nghĩ em còn tuyệt hơn cơ. Sao anh không cởi ra rồi mình cùng xem thế
nào?”

Giờ thì John đã nhớ. Lần đầu nghe câu nói này là hồi anh hai mươi tuổi và mới
chỉ vừa ký hợp đồng với đội Toronto. Thưở ấy chắc anh còn khờ khạo nên dễ cắn
câu. “Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều cứ nên mặc nguyên quần,” anh nói, và tự hỏi
tại sao chỉ cánh mày râu mới bị buộc tội hay dùng mấy câu trích dẫn rẻ tiền lỗi
mốt. Những lời mời gọi chớt chả của đám đàn bà tệ nào kém gì, mà toàn những lời
dâm dục nói toạc móng heo.

“Được rồi. Vậy em chỉ còn biết bò thẳng vào trong thôi.” Cô ta lân la đầu móng
tay dài sơn đỏ dọc theo cạp quần anh, rồi dò dẫm xuống.

John đưa tay gạt ngón tay cô ta ra khỏi khóa quần, nhưng Lexie đã lo vụ này.
Con bé vỗ vỗ xua tay người phụ nữ ra rồi bước vào giữa hai người.

“Đụng chạm như thế là không tốt,” Lexie nói khi ngẩng nhìn chằm chặp vào
Connie. “Cô có thể sẽ gặp rắc rối to đấy.”

Nụ cười của người phụ nữ ngập ngừng khi cô ta liếc xuống. “Con anh đấy à?”

John khẽ cười thầm, thích thú trước phản ứng dữ dội của Lexie. Đương nhiên là
trước đây anh cũng cần có vệ sĩ, nhất là ở Thành phố của Tình Anh em 5, nơi đám người hâm mộ sẽ trở nên cực kỳ
kích động nếu đội khách làm đau đội nhà của họ. Nhưng anh chưa bao giờ được một
cô gái bảo vệ, đặc biệt là một bé gái mới chỉ nhỉnh hơn một mét. “Mẹ cô bé là
bạn tôi,” anh nói qua nụ cười.

Cô ta ngẩng lên nhìn John lần nữa rối hất tóc. “Sao anh không gửi trả con bé
lại cho mẹ nó, rồi mình lên xe em. Băng ghế sau xe em rộng lắm.”

Ngay cả một chuyến tàu nhanh sau chiếc Buick cũng chẳng mảy may khiến anh hứng
thú. “Tôi không có hứng.”

“Em sẽ làm với anh những thứ chưa người đàn bà nào từng làm.”

John thực lòng nghi ngờ lời tuyên bố của cô ta. Anh cho rằng trò gì mình cũng
từng làm rồi, ít nhất một lần; và thường thì còn làm lại lần hai cho chắc. Anh
đặt tay lên vai Lexie và nghĩ cách đuổi khéo Connie. Con gái anh đang ở gần,
anh phải cẩn thận từ chối cô ta.

Georgeanne tiến lại gần, và rắc rối của anh được gỡ bỏ. “Hy vọng tôi không chen
ngang chuyện gì chứ,” cô nói với giọng ngọt ngào.

Anh quay sang Georgeanne và quàng tay quanh eo cô. Tay anh đặt trên hông cô,
anh nhìn thẳng vào khuôn mặt sững sờ kinh ngạc của cô và mỉm cười. “Anh biết em
chẳng thể nào ở đâu xa.”

“John?” cô hổn hển.

Thay vì trả lời câu hỏi chất chứa trong giọng cô, anh nhấc tay khỏi vai Lexie
và chỉ vào người phụ nữ tóc vàng.

“Georgie, em yêu, đây là Connie.”

Georgeanne cố nặn ra một nụ cười giả tạo và nói, “Xin chào, Connie.”

Connie vội liếc qua Georgeanne một lượt, rồi nhún vai. “Chắc hẳn đó là một cú
đá nhỉ,” cô ta nói với John, và quay gót bước đi.

Ngay khi Connie đi khỏi, John nhìn đăm đăm vào đôi môi căng mọng của Georgeanne
đamg mím lại thành một đường kẻ chỉ. Có vẻ như cô muốn cho anh ăn một quả thụi
khuỷu tay thật mạnh.

“Em vui không?”

John mỉm cười rồi thầm thì vào tai cô. “Chúng ta đang là bạn của nhau, nhớ chứ?
Tôi chỉ đang vào vai thôi mà.”

“Bạn nào anh cũng rờ rẫm thế à?”

John cười. Anh cười cô, với toàn bộ tình huống này, nhưng chủ yếu là cười chính
mình. “Chỉ những cô gái xinh đẹp với đôi mắt xanh lá và đôi môi tươi tắn thôi.
Có lẽ cô muốn nhớ điều đó đấy.”

--------------------------------

1

Lễ
trưởng thành của người Do Thái.

2

Kiểu váy
liền thân có phần trên được giữ lại bằng dải vòng qua gáy, để lộ vai và lưng.

3

Một hãng
mỹ phẩm quốc tế do Maximilian Faktorowicz thành lập năm 1909.

4

Tên gọi
đầy đủ là National Organization for Women, Tổ chức Phụ nữ Quốc gia. Tổ chức
này được thành lập tại Mỹ năm 1966 với mục đích đưa phụ nữ Mỹ hòa nhập hoàn
toàn vào đời sống xã hội chính yếu của nước Mỹ.

5

Tên gọi
khác của thành phố Philadelphia.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3