Còn Đó Đam Mê - Rachel Gibson - Chương 12
Chương 12
Georgeanne
không định đồng ý với kế hoạch đi nghỉ của John. Cô đã định sẽ kiên quyết phản
đối chuyện đến bãi biển Cannon. Hẳn cô đã làm thế thật, nếu không phải vì Lexie
và vì mối quan tâm của con bé với người bố trong tưởng tượng, Anthony.
Cái ngày sau khi họ đi chơi thuyền buồm gần đảo San Juan, những câu hỏi của
Lexie bắt đầu ùa tới. Có lẽ việc nhìn thấy Charles và Amber bên nhau đã làm dấy
nên cơn tò mò trong con bé, Lexie đã lớn rồi chăng. Thỉnh thoảng con bé lại hỏi
về Anthony, nhưng đây là lần đầu tiên Georgeanne cố gắng trả lời mà không quanh
co lảng tránh. Rồi cô gọi cho John, bảo với anh họ sẽ gặp anh ở Oregon. Nếu sau
này Lexie có mối quan hệ nào đó với John thì con bé cần có thời gian bên anh
trước khi nó được biết anh là bố nó. Giờ đây khi lái xe về thành phố bên bờ biển
Cannon, Georgeanne thầm mong mình không đang phạm phải sai lầm khủng khiếp nào
đó. John đã hứa sẽ không cố khiêu khích cô, nhưng cô không thực bụng tin anh.
“Tôi sẽ cư xử tốt nhất,” anh hứa.
Ừ. Phải rồi. Thế thì chắc voi phải ngủ trên cây.
Cô nhìn con gái ngồi trong ghế bên mình, đai an toàn đã cài. Trong khi Lexie hí
húi tô màu Mupper Baby, chiếc mũ lưỡi trai màu đen có hình mặt cười che trước
trán, còn chiếc kính râm trẻ em màu xanh che mắt. Hôm đó là thứ Bảy, nên môi
con bé phủ một lớp son đỏ chói. Và cuối cùng, đôi môi đỏ nhỏ xíu kia cũng nín
thinh, và im lặng bao trùm khắp bên trong chiếc Huyndai.
Chuyến đi khởi hành khá dễ chịu, nhưng rồi đến đâu đó quanh Tacoma, Lexie bắt
đầu hát… hát… và hát. Con bé hát đoạn duy nhất nó thuộc trong bài Phù thủy,
con rồng phép và cả bài Ngón tay cái đâu rồi? Nó hát váng lên những
từ trong bài Sâu thẳm trong trái tim Texas và vỗ tay nhiệt tình như bất
kỳ người dân Texas đầy kiêu hãnh nào. Không may là nó cứ hát đi hát lại bài này
tới tận Astoria.
Ngay khi Georgeanne tính toán xong mất bao nhiêu năm thì cô mới có thể gửi
Lexie đi học đại học, tiếng hát ngừng lại và Georgeanne cảm thấy mình như một
người mẹ tồi tệ vì đã tưởng tượng cảnh đá đít Lexie khỏi tổ ấm.
Nhưng rồi những câu hỏi bắt đầu. “Mình đến nơi chưa ạ?” “Còn bao lâu nữa ạ?” “Mình
đang ở đâu rồi ạ?” “Mẹ có nhớ mang chăn nệm theo không?” Suốt từ Astoria đến
bãi biển, con bé trở nên lo lắng chuyện sẽ ngủ ở đâu và nhà John có bao nhiêu
phòng tắm. Nó không thể nhớ có mang theo móng tay giả không, và băn khoăn không
biết có mang đủ búp bê để chơi trong năm ngày hay chưa. Nó nhớ cả đồ chơi bãi
biển nữa, nhưng nhỡ trời mưa trong cả mấy ngày thì sao? Và rồi tự hỏi bên hàng
xóm có trẻ con không, có bao nhiêu đứa và chúng bao nhiêu tuổi?
Giờ đây khi lái xe qua bãi biển Cannon, khung cảnh nơi đây khiến cô nhớ tới
những cộng đồng ra vẻ yêu nghệ thuật nằm rải rác vùng duyên hải Tây Bắc. Các
studio, quán cà phê, và cửa hàng lưu niệm xếp dọc hai bên đường. Mặt trước các
cửa hiệu ngập trong sắc dịu của màu xanh, màu xám và xanh lá; người ta vẽ cá
voi và sao biển ở mọi nơi. Hai bên đường tấp nập khách du lịch, và những cờ
hiệu sặc sỡ phấp phới tung bay trong làn gió luôn ùa tới không ngớt.
Cô liếc nhìn đồng hồ điện tử phía trên radio trong bảng đồng hồ xe. Cô đã được
học về sự đúng giờ và thường đến đúng hẹn, nhưng hôm nay cô đến sớm khoảng nửa
giờ. Ở nơi nào đó giữa Tacoma và Gearhart, chân cô đã nhấn quá mạnh lên chân
ga. Quãng nào đó giữa bài hát Ngón tay cái đâu rồi? và câu hỏi Chúng
ta tới nơi chưa? cô đã cho chiếc Huyndai chạy với tốc độ gần một trăm bốn
mươi km/h. Cô không bận tâm tới chuyện bị tay cảnh sát nào đó chặn xe lại đưa
thẻ phạt. Thực ra lúc này cô sẽ hoan nghênh nếu được nói chuyện với một người
lớn.
Cô nhìn vào tờ bản đồ John vẽ cho mình rồi phóng qua những ngôi nhà bạc màu vì
mưa nắng kẹp giữa khu nghỉ dưỡng bên bờ biển. Cô chạy xe chầm chậm để đọc bản
viết tay nguệch ngoạc của anh, rẽ vào một phố rợp bóng mát, rồi đi thẳng theo
hướng dẫn và dễ dàng tìm thấy ngôi nhà. Cô đỗ chiếc Huyndai cạnh chiếc Range
Rover màu xanh đậm của John trên lối xe trước ngôi nhà trắng một tầng với mái
dốc lợp ván ốp. Đám thông keo xù xì che mất hàng hiên gỗ, hằn lên hiên một vệt
mờ màu xanh nhạt. Cô để hành lý trong ô tô, và nắm tay Lexie, bước tới cửa
trước. Theo mỗi bước chân, nỗi âu lo rằng cô đang phạm phải lỗi lầm lớn lại lớn
thêm trong cô.
Cô bấm chuông rồi gõ cửa vài tiếng. Không ai trả lời. Cô nhìn vào tấm bản đồ,
đọc kỹ lại lần nữa. Nếu tự vẽ, hẳn cô đã lại có cảm giác bất ổn quen thuộc vẫn
thường trực trong tim cô khi cô sợ mình lại tới nhầm địa chỉ.
“Có khi chú ấy đang ngủ trưa đấy,” Lexie gợi ý. “Mẹ con mình nên vào đánh thức
chú ý dậy đi.”
“Ừ, chắc phải thế thôi.” Georgeanne nhìn số nhà lần nữa, rồi cô bước tới hòm
thư đóng trên tường nhà và mở nó ra. Cô nhòm vào trong, hy vọng không có người
hàng xóm hay nhân viên bưu điện nào mang súng đang theo dõi mình. Cô lôi ra một
tấm danh thiếp gửi cho John.
“Mẹ có nghĩ chú ấy quên mất không?” Lexie hỏi.
“Mẹ hy vọng là không.” Georgeanne vừa trả lời vừa xoay nắm đấm cửa. Nhỡ anh ta
quên thì sao? Cô tự hỏi chính mình. Nhỡ anh ta đang ngủ đâu đó trong nhà. Cô
biết mình đến hơi sớm; sẽ thế nào nếu anh ta đang trên giường, ôm ấp một cô
nàng nhẹ dạ cả tin nào đó?
“John?” cô gọi, rồi bước vào. Chân cô lún vào tấm thảm lông màu sâm panh, và
với Lexie đang theo sát phía sau, Georgeanne bước vào phòng khách. Cô nhanh
chóng nhận ra đây không phải ngôi nhà một tầng như vẻ bên ngoài. Bên trái cô,
một nhịp cầu thang khác dẫn xuống dưới, trong khi bên phải cô một nhịp cầu
thang khác dẫn lên căn phòng áp mái lợp kính bên trên phòng ăn. Ngôi nhà được
xây ăn vào trong sườn đồi nhìn ra bờ biển và đại dương, và cả bức tường sau
được dựng bằng những ô cửa sổ lớn đóng khung bằng gỗ sồi tẩy màu. Ba ô cửa sổ
trên mái trần phía trên phòng khách.
“Oa,” Lexie thở hổn hển khi nhing quanh một lượt. “Chú John có giàu không ạ?”
“Nhìn thì có vẻ chú ấy giàu, đúng không?” Nội thất trong phòng hiện đại, chủ
yếu là đồ sắt và gỗ tẩy màu. Một bộ sofa lắp ghép bọc vải xanh thẫm như được nhồi
quá căng được xếp thành góc chữ L để người ngồi trên sofa có thể nhìn ra khung
cảnh đại dương hoặc chiếc lò sưởi bên tường trái. Trên lò sưởi treo một bức ảnh
lớn hình ông của John đứng cạnh một du khách đi bắt cá xanh ở bờ biển Florida.
Đã lâu rồi kể từ khi Georgeanne gặp Ernie, nhưng cô vẫn dễ dàng nhận ra ông.
“Con nghĩ có khi chú John bị ngã ở đâu đó rồi.” Lexie bước thẳng tới một trong
ba chiếc cửa kính trượt ngăn giữa phòng khách và phòng ăn. “Có khi chú ấy đã bị
gãy chân hoặc bị đứt chân rồi cũng nên.”
Cả hai cùng bước tới cửa và nhìn ra ban công chạy vòng quanh dẫn xuống bờ biển.
Xa xa, bãi đá Haystack Rock 1 chĩa thẳng lên bẩu trời xanh trong.
“John!” Lexie cao giọng gọi. “Chú ở đâu thế?”
Georgeanne mở cửa trượt, để làn gió mặn mòi mang theo mùi muối, rong biển và
thanh âm đại dương lùa vào. Cô bước ra ngoài hiên, hít một hơi thật sâu, rồi
thở ra từ từ. Có lẽ dành cả tuần trong một ngôi nhà xinh xắn thế này ở một nơi
tuyệt vời thế này suy cho cùng cũng đâu khó khăn đến thế. Nếu cô không để John
mê hoặc mà đưa anh lên nấc cao hơn trong thang điểm có-thể-thích, và nếu anh
giữ đôi môi lại cho riêng anh, thì có lẽ chuyến đi này sẽ không biến thành lỗi
lầm lớn.
Dưới chân cô, Georgeanne cảm thấy tiếng thụp thụp nặng nề qua gót giày đế thấp.
Cô nghe tiếng bước chân nện thịch thịch lên cầu thang, và lòng cô thoáng se
lại. Rồi John xuất hiện, từng chút một. Chiếc headphone màu vàng vẳt ngang mái
tóc ướt nhẹp mồ hôi, rồi nửa dưới khuôn mặt anh chìm khuất trong bộ râu đen
thẫm. Tiếp đến là bờ vai rộng và khuôn ngực cường tráng. Anh mặc cái áo ba lỗ
rộng lùng nhùng với gấu áo lam nham trông chẳng khác nào bị cắt toạc đi bằng
một cây kéo làm vườn. Georgeanne tự hỏi sao anh lại có thể mặc một cái áo như
thế. Bụng anh phẳng và phơi trần, trừ lớp lông đen ngắn mọc loăn quăn quanh rốn
rồi biến mất như một mũi tên vào trong chiếc quần soóc tập thể dục màu xanh
biển. Đùi anh cuồn cuộn cơ bắp, còn đôi chân thì dài và rám nắng.
“Cô đến sớm,” cô nghe thấy anh vừa nói vừa thở hổn hển. Cô ngước lên khi anh
kéo chiếc tai nghe chụp xuống quanh cổ. Anh liếc xuống chiếc đồng hồ thể thao
xoay ngược ra má ngoài cổ tay. “Nếu biết cô đến, tôi đã ở đây rồi.”
“Xin lỗi,” cô nói, cố không để má mình đỏ lựng lên trước cái nhìn của anh. Cô
đã là người lớn. Cô có thể xử lý được một người đàn ông nóng bỏng, ướt mồ hôi,
gần như ở trần. Cô đương nhiên có thể xử lý John Kowalsky – chẳng vấn đề gì. Cô
chỉ phải nghĩ về anh như một ngày tồi tệ. Bất hợp tác, và cực kỳ lộn xộn. “Chân
tôi nhấn ga hơi mạnh,” cô giải thích.
“Cô đến lâu chưa?” Anh với lấy chiếc khăn trắng treo trên giá. Anh lau khô mặt
và tóc cứ như thể trong phòng tắm chui ra, rồi cả đầu anh biến mất trong chiếc
khăn cotton dày.
“Chỉ mới vài phút thôi.”
“Ừm, mẹ con cháu cứ tưởng chú bị ngã và đang bị đau,” Lexie kể cho anh, sao
nhãng khi nhìn bụng anh. Cho tới thời điểm này trong đời mình, con bé chưa bao
giờ ở gần một người đàn ông nào ở trần cả. Nó nhìn chằm chặp vào vùng da đó,
đám lông đó, rồi bước lên trước một bước để nhìn rõ hơn. “Cháu cứ tưởng chú bị
gãy chân hay bị đứt chân rồi cơ,” nó kể lại.
Đầu anh thò ra khỏi tấm khăn. Anh nhìn Lexie và mỉm cười. “Thế cháu có mang
băng gạc cứu thương dự phòng không?” anh vừa hỏi vừa kéo trượt chiếc khăn xuống
quanh cổ, nắm vào hai đầu khăn.
Con bé lắc đầu. “Chú cóa cái bụng nhiều lông, chú John ạ. Nhiều lắm lắm
ấy!” nó nói, rồi quay ra lan can, sự chú ý của nó nhanh chóng hướng sang những
hoạt động trên bãi biển dưới kia.
Anh ngó xuống rồi đặt bàn tay to sù lên cái bụng rắn chắc. “Chú không nghĩ mình
lại tệ thế đâu,” anh vừa nói vừa xoa xoa lòng bàn tay quanh bụng. “Chú biết
nhiều người còn tệ hơn thế này cơ. Ít ra thì chú cũng không có lông ở lưng.”
Georgeanne dõi mẳt nhìn bàn tay anh trượt xuống thấp hơn nơi bụng, những ngón
tay dài của anh luồn qua đám lông ngắn, và những ký ức lấp lánh trong đầu cô
như một ảo ảnh. Cô nhớ cái đêm từ lâu lắm rồi khi cô chạm vào anh, khi cô cảm
thấy sự sung mãn ở anh, hơi ấm của anh bên dưới tay mình.
“Cô nhìn cái gì thế, Georgeanne?”
Cô đưa mắt nhìn lên ngực anh, lên mắt anh. Cô đã bị bắt quả tang. Cô có thể làm
ra vẻ xấu hổ và hối lỗi hoặc nói dối. “Tôi đang nhìn đôi giày của anh.”
Anh khúc khích cười thầm. “Cô đang xem hàng của tôi.”
Hoặc cô có thể thừa nhận. “Quả là một chuyến đi dài.” Cô nhún vai. “Tôi đi lấy
đồ khỏi xe đây.”
John bước tới trước mặt cô. “Tôi sẽ lấy giúp cô.”
“Cảm ơn.”
Anh trượt mở cửa. “Có gì đâu,” anh nói qua nụ cười ngạo mạn, và bước ngang qua
phòng khách.
“Này, chú John ơi?” Lexie hét lên và chạy vượt qua mẹ, bỏ mặc Georgeanne đi sau
hai người. “Cháu mang theo cả patanh đấy. Và chú đoán xem gì nữa nào?”
“Cái gì nào?”
“Mẹ mua cho cháu mấy miếng nệm bảo vệ đầu gối Barbie mới.”
“Barbie ư?”
“Vâng.”
Anh mở cửa trước. “Tuyệt.”
“Và đoán xem còn gì nữa nào?”
“Cái gì nào?”
“Cháu cóa kính râm mới. Con bé cầm gọng kính màu xanh lơ nhấc khỏi sống
mũi và giơ lên cao. “Chú thấy chưa?”
John bước về phía con bé. “Này, cái này tuyệt đấy.” Anh dừng bước và nhìn vào
mặt con bé. “Cháu sẽ tô cái thứ màu tía ấy trong suốt thời gian ở đây ư?” anh
hỏi, nhắc tới lớp phấn phủ mắt bôi lem nhem.
Con bé gật đầu. “Cháu được tô mắt vào thứ Bảy và Chủ nhật.”
Anh bước ra sau chiếc Huyndai, nói, “Có lẽ, vì cháu đi nghỉ, nên chắc cháu cũng
phải cho phấn son nghỉ ngơi chứ nhỉ.”
“Không đời nào. Cháu thích son phấn. Nó là thứ cháu thích nhất đấy.”
“Chú cứ tưởng chó và mèo mới là thứ cháu thích nhất chứ.”
“À, phấn son là thứ thích nhất mà cháu có.”
Anh thở hắt ra nặng nhọc khi mang hai va li và một túi vải đựng đồ chơi từ ghế
sau ô tô. “Tất cả có chừng này?”
Georgeanne mỉm cười mở thùng xe.
“Ôi khốn khiếp,” John chửi thề khi nhìn chòng chọc vào ba chiếc va li khác, hai
chiếc áo mưa màu vàng, một chiếc ô lớn, và một con búp bê Barbie Tiệm làm đẹp. “Cô
gói ghém theo cả căn nhà của mình đấy hả?”
“Thế này là đã bớt đi khối lần so với lần đầu đóng đồ đấy,” cô bảo anh, rồi với
tay lấy áo khoác và ô. “Xin vui lòng không chửi thề trước mặt Lexie.”
“Tôi đã chửi thề sao?” John hỏi có vẻ thơ ngây vô tội.
Georgeanne gật đầu.
Lexie cười khúc khích và túm lấy búp bê Barbie Tiệm làm đẹp.
Georgeanne và Lexie theo anh quay vào nhà rồi đi xuống cầu thang. Anh chỉ cho
họ căn phòng dành cho khách sơn màu be và xanh lá, rồi anh quay lại lấy đồ. Khi
đã mang hết đồ vào, anh đưa họ đi xem quanh tầng dưới. Một căn phòng đầy nhóc
những thiết bị thể dục và cử tạ ngăn giữa phòng dành cho khách với phòng ngủ
chính.
“Tôi phải đi tắm cái đã,” John báo họ khi hai người đi vào hành lang sau khi Lexie
khám phá ra ngôi nhà có tất cả ba phòng tắm. “Khi nào tôi tắm xong, chúng ta có
thể đi ngắm vũng triều nếu hai mẹ con muốn.”
“Sao không phải là mình sẽ gặp nhau dưới đó nhỉ?” Georgeanne đề xuất, muốn được
tận hưởng tiết trời râm mát trước khi bầu trời phủ đầy mây và trở nên u ám.
“Nghe hay đấy. Cô có cần khăn tắm không?”
Georgeanne chưa bao giờ là hướng đạo sinh nhưng cô thường chuẩn bị sẵn mọi thứ.
Cô mang theo khăn tắm riêng. Sau khi John rời khỏi đó, Georgeanne và Lexie thay
đồ. Lexie chui vào trong bộ áo tắm hai mảnh kẻ ô vuông màu hồng tím, rồi tròng
qua đầu chiếc áo phông với dòng chữ ĐỪNG GÂY CHUYỆN VỚI NGƯỜI TEXAS. Georgeanne
mặc quần soóc dải rút nhuộm màu vàng cam kiểu tie dye, áo buộc dây để lộ vùng
bụng trần, và bởi cảm thấy có phần hơi hở hang, cô khoác thêm chiếc áo sơ mi
cotton mỏng. Lần vải vàng đổ xuống sau lưng cô và cô để mở khuy. Hai mẹ con
cùng xỏ chân vào đôi xăng đan Teva, chộp lấy khăn tắm và kính râm, rồi đi ra
ngoài.
Cho tới lúc John gặp họ ở bãi biển, Lexie đã tìm được nửa con sò, và một cái
càng cua bé xíu. Con bé cho chúng vào cái xô hồng rồi cúi xuống cạnh Georgeanne
để nghiên cứu một cây cỏ chân ngỗng biển mắc vào một trong những phiến đá nhỏ
lộ ra khi thủy triều rút.
“Chạm vào nó đi,” Georgeanne bảo con. “Nó dính dính đấy.”
Lexie lắc đầu. “Con biết là nó dính dính, nhưng con không thích chạm vào.”
“Nó sẽ không cắn cháu đâu,” John nói với con bé, đổ bóng xuống hai người.
Georgeanne ngước lên rồi từ từ đứng dậy. John đã cạo râu, và thay chiếc quần
soóc hộp màu be cùng áo phông màu ô liu. Trông anh sạch sẽ và đơn giản, nhưng
lại quá gai góc và quá cuốn hút để trông có vẻ đứng đắn. “Tôi nghĩ con bé sợ
ngọn cỏ sẽ chộp lấy ngón tay mà không chịu buông ra.” Georgeanne nói.
“Đâu có, con không sợ,” Lexie cãi lại, và rồi lại lắc đầu. Con bé đứng thẳng
lên và chỉ vào bãi đá Haystack Rock cách đó chừng ba mươi mét. “Con muốn đi tới
đó.”
Cả ba cùng đi thẳng tới chỗ bãi đá. John giúp Lexie nhảy từ phiến đá này sang
phiến đá khác, rồi khi các lớp đá bắt đầu hơi lởm chởm đối với đôi chân lũn
chũn của con bé, anh nhấc bổng Lexie và nhún tay công kênh con bé lên vai, dễ
dàng như thể con bé nhẹ bẫng vậy.
Lexie bám vào hai bên đầu John, và cái xô của con bé lúc lắc vào má phải anh. “Mẹ
ơi, con cao chưa này!” nó hét lên.
John và Georgeanne nhìn nhau cười. “Chỉ là điều bà mẹ đều thèm được nghe,” cô
nói.
Khi tiếng cười của họ tan dần và bị nhấn chìm trong tiếng sóng, nụ cười của
John đọng lại. “Tôi đang bắt đầu nghĩ cô chỉ mặc đầm và váy,” anh vừa nói vừa
ngước lên nắm tay quanh mắt cá chân của Lexie.
Cô không ngạc nhiên khi anh nhận ra chuyện đó. Anh là loại đàn ông ấy. “Tôi
không hay mặc quần soóc hay quần dài.”
“Tại sao?”
Georgeanne thực sự không muốn trả lời câu hỏi ấy. Lexie thì ngược lại, chẳng
ngần ngại tiết lộ chuyện riêng của mẹ. “Bởi vì mông của mẹ to.”
John ngước lên nhìn Lexie, mẳt anh nheo lại vì nắng chói. “Thật á?”
Lexie gật đầu. “Vâng. Mẹ vẫn hay nói thế.”
Georgeanne cảm thấy mặt mình đỏ bừng lên. “Không nói chuyện này nữa nào.”
Với tay tóm lấy gấu áo vàng của cô, John co đuôi áo lên rồi nghiêng đầu sang
bên để nhìn rõ hơn. “Trông nó có to đâu nhỉ.” Anh nói tự nhiên như đang bàn
luận chuyện thời tiết. “Tôi thì thấy khá tuyệt.”
Georgeanne hơi cảm thấy ngớ ngẩn khi một cảm giác dễ chịu bỗng âm ỉ nhen lên
trong lòng cô. Cô gạt tay anh ra rồi kéo gấu áo xuống. “Ừm, có thế đấy,” cô
nói, bước vòng quanh John rồi vượt lên trước anh và Lexie. Cô còn nhớ chuyện gì
đã xảy ra bảy năm trước khi anh khiến cô say sưa bằng những lời ngọt ngào mùi
mẫn. Mọi cô gái miền Nam đều mơ ước trở thành nữ hoàng sắc đẹp, và chẳng cần
nhọc công cố gắng, anh cũng đã mang lại cho cô cảm giác như cô là hoa hậu bang
Texas. Vậy là cô háo hức nhảy lên giường anh. Giờ đây, khi bước quanh một tảng
đá cỡ trung bình, cô tự nhắc mình rằng anh có thể rất hấp dẫn nhưng anh cũng có
thể trở nên vô cùng tàn nhẫn.
Khi tới chân bãi đá, cả ba cùng bắt đầu thám hiểm. John đặt Lexie xuống, và họ
cùng nhau nghiên cứu những dạng sinh vật biển thường thấy. Bầu trời không một
gợn mây và ngày tuyệt đẹp.
Georgeanne chăm chú nhìn John và Lexie ở bên nhau. Cô quan sát họ khám phá đám
sao biển màu cam tía, những con trai. Và những cây cỏ roi ngựa nhớp dính. Cô
chăm chú nhìn hai cái đầu tóc sẫm cúi xuống vũng đọng, và cố gắng chôn vùi
những bất ổn bên trong.
“Nó lạc mẩt rồi,” Lexie nói khi Georgeanne cúi xuống cạnh con bé bên vũng
triều.
“Cái gì lạc?” cô hỏi.
Lexie chỉ vào một con cá nhỏ xíu màu nâu đen đang bơi dưới làn nước lạnh trong
vắt. “Nó là con cá con, còn mẹ nó thì bỏ nó đi mẩt rồi.”
“Chú không nghĩ nó là cá con đâu,” John nói với con bé. “Chú nghĩ nó là một
loài cá nhỏ.”
Con bé lắc đầu. “Không phải đâu, chú John. Nó là con cá con, là thế đấy.”
“Ừm, khi nào thủy triều trở lại, mẹ nó sẽ bơi đến tìm nó mà,” Georgeanne trấn
an con gái, cô ngăn Lexie trước khi con bé trở nên quá kích động. Mỗi lần nhắc
tới chuyện mồ côi, Lexie lại rất đa cảm.
“Không.” Con bé lại lắc đầu và cằm nó run lên khi nó nói, “Mẹ nó cũng lạc đâu
mất rồi.”
Bởi Lexie chỉ biết tới sự che chở của mẹ, và con bé không có ai thân thích
ngoài Mae, nên Georgeanne phải thận trọng để mắt tới những bộ phim hay video
Lexie xem để biết chắc là mọi đứa trẻ hay con vật đều chỉ có hoặc là mẹ hoặc là
cha. Trong lần sinh nhật trước, Georgeanne để Lexie thuyết phục mình rằng con
bé đã lớn và có thể xem phim Babe. Một sai lầm lớn. Lexie đã khóc suốt
một tuần sau đó. “Mẹ nó không lạc đâu. Khi thủy triều đến, nó có thể về nhà mà.”
“Không, các bà mẹ sẽ không bỏ rơi con mình trừ khi họ bị lạc. Giờ thì con cá
con không thể nào về nhà được nữa rồi.” Con bé gục trán lên đầu gối. “Không có
mẹ nó sẽ chết mất.” Con bé nhắm tịt mắt lại, và giọt nước mắt chảy xuống mũi.
Georgeanne đăm chiêu liếc qua đầu Lexie đang nghẹo xuống nhìn thẳng vào John.
Anh trân trân nhìn lại vẻ tuyệt vọng từ sâu trong ánh mắt. Rõ ràng anh mong cô
làm điều gì đó. “Chú chắc là cá bố đang bơi lội lòng vòng ngoài kia để tìm nó
đấy.”
Lexie không chịu. “Các ông bố đâu có chăm sóc con cái.”
“Chắc chắn là có chứ,” John nói. “Nếu chú là cá bố, chú sẽ bơi ngoài đó tìm con
mình.”
Lexie quay đầu, nhìn John đăm đăm trong giây lát, thầm suy nghĩ về những điều
anh nói. “Chú sẽ tìm cho tới khi thấy chứ?”
“Chắc chắn rồi.” Anh liếc nhìn Georgeanne, rồi đến Lexie. “Nếu chú biết mình có
con, chú sẽ tìm mãi mãi.”
Lexie khịt mũi và nhìn chằm chặp vào làn nước trong vắt. “Sẽ thế nào nếu nó
chết trước khi thủy triều lên ạ?”
“Ừm.” John với lấy chiếc xô của Lexie, bỏ vỏ ốc ra rồi vốc tay đem con cá bé
xíu vào.
“Chú định làm gì thế?” Lexie hỏi khi cả ba người đứng lên.
“Đưa con cá con của cháu trở về với bố nó,” anh nói, rồi quay về phía mặt nước.
“Ở đây với mẹ nhé.”
Georgeanne và Lexie đứng trên phiến đá nhẵn nhìn John lội vào con sóng lạnh.
Sóng hiền hòa vỗ lên đùi anh, và cô nghe tiếng anh thở gấp khi nước lạnh chấm
ướt gấu quần anh. Anh nhìn xung quanh, và lát sau thận trọng nhúng xô xuống
nước.
“Mẹ có nghĩ nó tìm thấy cá bố không?” Lexie lo lắng hỏi.
Georgeanne đứng ngây người nhìn người đàn ông lững thững cầm cái xô hồng bé xíu
và nói, “Ồ, mẹ chắc là nó đã tìm thấy rồi.”
Anh bước lại về phía họ. Một nụ cười nở trên gương mặt anh. John Kowalsky – Bức
Tường, một ngôi sao khúc côn cầu nhiều tai tiếng, người hùng của những bé gái
và người bảo vệ lũ cá bé xíu xiu, đã vừa lẻn qua được một nấc Tồi Tệ trên thang
điểm về mức độ đáng yêu của cô. “Chú có thấy cá bố không?” Lexie nhảy xuống
khỏi phiến đá và lội ra chỗ nước cao tới đầu gối.
“Có chứ, và trời ạ, được gặp lại cá con cá bố mới vui làm sao!”
“Làm sao chú biết đó là cá bố?”
John đưa cái xô cho Lexie, rồi nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của con bé. “Vì trông
hai bố con giống nhau.”
“Ồ, phải rồi.” Con bé gật đầu. “Cá bố làm gì khi nhìn thấy cá con ạ?”
Anh dứng lại trước phiến đá Georgeanne đang đứng và ngước lên nhìn cô. “Ôi, cá
bố nhảy cẫng lên, rồi tung tăng bơi lội quanh cá con để biết chắc cá con vẫn
ổn.”
“Cháu cũng trông thấy cá bố làm vậy.”
John cười vang, những nếp nhăn nhỏ xíu xuất hiện trên khóe mắt anh. “Thật sao?
Từ tận đây cơ á?”
“Vâng. Con phải đi lấy khăn tắm đây vì con đang rét run lên rồi,” Lexie tuyên bố,
rồi đi lên bãi biển.
Georgeanne nhìn thẳng vào gương mặt của John, và mỉm cười với anh. “Cảm giác
làm người hùng thế nào?”
John bất chợt tóm lấy eo Georgeanne và nhẹ nhàng nhấc cô khỏi phiến đá. Tay cô
níu chặt vào vai anh khi anh hạ thấp chân cô xuống con sóng lạnh buốt. Sóng xô
quanh bắp chân cô và thổi vào tóc cô. “Tôi có phải là người anh hùng của cô
không?” anh hỏi, giọng anh trầm và ngọt ngào. Nguy hiểm.
“Không.” Cô buông tay khỏi bờ vai vững chãi của anh rồi lùi lại một bước. Anh
là người đàn ông cao lớn và mạnh mẽ, nhưng lại dịu dàng và chu đáo với Lexie.
Anh còn nguy hiểm hơn cả một vụ tràn dầu, và nếu cô bất cẩn, anh sẽ khiến cô
quên đi cái quá khứ khổ đau ấy. “Tôi không thích anh, nhớ chứ?”
“Ừ, ừ.” Nụ cười của anh mách bảo cô rằng không phút nào anh tin cô. “Cô còn nhớ
cái lần chúng ta bên nhau trên bờ biển ở Copalis không?”
Cô quay về phía bãi biển và thấy Lexie đã mặc xong đồ. “Thế thì sao chứ?”
“Cô bảo cô ghét tôi, nhưng cứ xem chuyện gì đã xảy ra đi.” Anh liếc cô qua khóe
mắt khi họ bước qua con sóng.
“Vậy cũng hay khi anh nhận ra mình có thể hoàn toàn cưỡng lại tôi.”
Anh liếc bầu ngực cô, rồi quay nhìn ra bờ biển. “À, phải, cũng hay.”
Khi cả ba người quay về nhà, John một mực đòi nấu bữa trưa. Họ ngồi bên bàn ăn,
và thưởng thức cocktail tôm, hoa quả tươi xắt lát, và bánh mỳ pita ăn kèm salat
cua. Trong khi Georgeanne và Lexie giúp John dọn dẹp bàn ăn, cô phát hiện ra
bao bì của cửa hàng bán đồ ăn ngon nhất trong góc gần máy điện thoại trả lời tự
động.
Đến bốn giờ chiều, cả sáng đi xe cùng Lexie và nỗi lo lắng về chuyến đi đã
khiến Georgeanne mệt lả. Cô tìm được một chiếc ghế tựa dài êm ái bên hiên và
nằm cuộn tròn trên ghế ôm Lexie vào lòng. John ngồi trên ghế cạnh cô, và cả ba
người đăm đắm nhìn đại dương, bằng lòng với cuộc đời. Cô chẳng phải đi bất cứ
đâu hay làm bất cứ điều gì nữa. Cô tận hưởng toàn bộ sự bình lặng này. Dẫu cô
không thể nói người đàn ông ngồi cạnh mình là người bạn đồng hành dễ chịu –
John hiện diện ở đó, quá to lớn và giữa họ còn có một quá khứ quá đớn đau để có
thể cảm thấy dễ chịu – thì ngôi nhà trên bãi biển này cũng góp phần bù đắp khá
nhiều cho những phút giây căng thẳng khi anh cố hết sức chọc tức cô.
Tiếng biển bình yên và gió biển dịu dàng ru Georgeanne vào giấc ngủ, và khi
tỉnh dậy, cô chỉ còn một mình. Một tấm chăn với những họa tiết mảnh vỏ sò thêu
tay đắp trên chân cô. Cô gạt chăn sang một bên, đứng dậy và duỗi thẳng người
cho giãn gân giãn cốt. Những giọng nói từ bãi biển vọng tới trong gió, và cô
bước tới tựa vào lan can. John và Lexie không có trên bãi biển. Cô đưa tay ra
sau, và một mảnh gì sắc nhọn đâm vào lớp đệm mềm nơi ngón giữa. Ngón tay cô
giật giật, nhưng cô còn mải để tâm tới chuyện khác cấp bách hơn.
Georgeanne thực sự không nghĩ John lại đưa Lexie đi đâu đó mà không nói trước
với cô một tiếng. Nhưng anh đâu phải loại đàn ông biết nghĩ cần được cô cho
phép. Nếu anh bỏ đi với con gái cô, Georgeanne biết rằng mình có quyền giết
chết anh ta và xem đó là hành vi giết người chính đáng. Nhưng rốt cuộc cô không
phải giết anh. Cô tìm thấy Lexie và John ở tầng dưới trong phòng tập cử tạ.
John ngồi trên xe đạp luyện tập đắt tiền để trong góc, nhấn pê đan với tốc độ
ổn định. Anh hạ ánh mắt nhìn xuống Lexie đang vắt chân chữ ngũ nằm trên sàn,
hai tay đặt sau gáy.
“Sao chú đạp xe nhanh thế?” Lexie hỏi anh.
“Nó giúp chú luyện tập sức bền,” anh đáp lại to hơn tiếng quay êm êm của bánh
trước. Anh vẫn mặc chiếc áo phông màu ô liu, và trong một giây khắc ngắn ngủi,
Georgeanne dạo mắt lướt lên cặp đùi và bắp chân chắc nịch của anh, đắm chìm trong
niềm hân hoan được ngắm nhìn anh.
“Xức bềnh là gì ạ?”
“Là khả năng chịu đựng. Là cái gì mà một gã cần để không bị hụt hơi hay để
không bị những gã vắt mũi chưa sạch đá đít trên khắp sân băng.”
Lexie thở hổn hển, “Chú lại thế rồi.”
“Gì cơ?”
“Chú nói bậy.”
“Chú ư?”
“Vâng.”
“Xin lỗi. Chú sẽ để ý sửa.”
“Lần trước chú cũng nói thế.” Lexie phàn nàn, vẫn không đổi tư thế.
Anh mỉm cười. “Tôi sẽ để ý hơn, thưa Huấn luyện viên.”
Lexie im lăng một lát rồi nói. “Chú đoán thử xem nào.”
“Gì cơ?”
“Mẹ cháu cũng cóa một cái xe đạp như thế.” Con bé chỉ về phía John. “Nhưng
cháu không nghĩ mẹ cháu dùng đến.”
Xe đạp tập luyện của Georgeanne không giống của John. Nó không xa xỉ như thế,
vì Lexie nói đúng, cô không đụng tới cái xe nữa. Đúng hơn thì cô chưa bao giờ
thực sự ngồi lên xe. “Này,” cô vừa nói vừa bước vào phòng, “mẹ dùng nó thường
xuyên mà. Nó có chức năng rất quan trọng là làm mắc áo đấy.”
Lexie quay đầu mỉm cười. “Con và chú đang luyện tập thẩm mỹ. Con đã đạp xe
trước rồi và giờ đến lượt chú John.”
John nhìn cô. Pê đan ngừng lại, nhưng bánh xe vẫn quay tròn. “Ừ. Mẹ thấy rồi,”
cô nói, thầm ước mình đã chải lại mái tóc trước khi đi tìm họ. Cô đoán chắc
trông mình kinh khủng lắm.
John không nghĩ thế. Tóc cô trông rối và má cô hồng sau khi ngủ dậy. Giọng cô
khàn hơn bình thường một chút. “Giấc ngủ trưa thế nào?”
“Thậm chí tôi còn không biết mình mệt đến thế cơ đấy.” Cô lấy tay chải tóc và
lắc đầu.
“Ừm, suốt ngày cứ phải theo sau những suy nghĩ thay đổi như chong chóng của một
đứa bé đúng là mệt thật.” anh nói, lòng thầm hỏi có khi nào cô lại đang chủ tâm
để tóc rối như thế chăng.
“Kiệt sức ấy chứ.” Georgeanne bước tới bên Lexie chìa tay giúp cô bé đứng dậy. “Mẹ
con mình đi xem có thứ gì làm để chú John tập nốt chứ nhỉ.”
“Tôi tập xong rồi,” anh vừa nói vừa đứng dậy, giữ tầm mắt ngang ngực cô và cố
không nhìn chằm chặp vào khe ngực cô như một cậu nam sinh. Anh thực sự không
muốn bị cô tóm lông mình đang hau háu nhìn cơ thể cơ thể cô để rồi nghĩ rằng
anh đại loại là một tên khốn đồi trụy. Cô là mẹ của con anh, và dù cô chưa bao
giờ thực sự nói đến bất cứ điều gì cụ thể, nhưng cứ nhìn thì anh biết cô không
đánh giá cao anh. Có lẽ anh đáng bị cô coi thường. Nhưng cũng có khi không. “Thực
ra thì tôi không định tập hôm nay, nhưng Lexie và tôi đợi cô nên hơi chán. Mà
chỉ có hai trò là hoặc đạp xe tập hoặc chơi búp bê Barbie Tiệm làm đẹp.”
“Tôi không thể hình dung anh chơi với búp bê Barbie.”
“Mình hợp nhau ở điểm này đấy.” Nhưng có chút rắc rối với dự định tốt đẹp của
anh; chiếc váy đầm buộc dây cô mặc hút cạn sức mạnh ý chí nơi anh. Đại loại như
Siêu nhân khi gặp kryptonite 2. “Lexie và tôi đã nói chuyện ăn hàu vào
bữa tối.
“Hàu ư?” Georgeanne chuyển hướng chú ý sang Lexie. “Con sẽ không thích hàu đâu.”
“Vâng. Nhưng chú John bảo con sẽ thích.”
Georgeanne không tranh cãi, nhưng một tiếng sau khi họ ngồi trong một nhà hàng
hải sản, Lexie vừa thoáng nhìn thấy ảnh con hàu trong thực đơn là đã nhăn mũi. “Kinh
quá đi mất,” nó nói. Khi người phục vụ đi tới bàn, Lexie gọi bánh sandwich
nướng kẹp pho mát và bánh mì “tươi”, một đĩa riêng khoai tây chiên, và nước xốt
cà chua nấm hiệu Heinz.
Người phụ nữ quay sang Georgeanne, và John ngồi dịch ra sau ghế, say đắm nhìn
vẻ quyến rũ kiểu miền Nam và nụ cười sáng triệu watt của cô.
“Tôi biết là cô rất bận, và tôi biết từ chính trải nghiệm của mình rằng công
việc của cô thật bạc bẽo và vô cùng tất bật, nhưng trông cô vẫn đáng yêu, nên
tôi rất hy vọng mình có thể yêu cầu chút thay đổi nho nhỏ,” cô bắt đầu, giọng
cô lộ rõ niềm cảm thông với người phụ nữ và công việc “bạc bẽo” của cô ta. Cho
tới khi nói xong, cô đã gọi món cá hồi với “nước xốt bơ nâu vị chanh kèm lá
chive” thậm chí còn không có trong thực đơn. Cô thay cơm bằng khoai tây và một
nhúm lá chive”. Cô yêu cầu món dưa đỏ phải được trình bày trên đĩa riêng bởi “dưa
đỏ không nên bị món khác làm ấm lên.” John có phần mong người phụ nữ kia sẽ bảo
Georgeanne biến xuống địa ngục mà gọi món, nhưng cô ta không làm thế. Có vẻ như
cô ta chỉ đang quá hạnh phúc được đổi thực đơn cho Georgeanne.
So với hai người phụ nữ cùng đi, thì yêu cầu của John quá đơn giản. Hàu tách bỏ
nửa vỏ. Không thêm gì. Không kèm gì. Ngay khi cô phục vụ đi khỏi, anh nhìn sang
hai phụ nữ ngồi cùng bàn. Cả hai đều mặc váy mỏng mùa hè. Chiếc váy của
Georgeanne cùng tông với màu xanh lá của mắt. Chiếc váy của Lexie ăn rơ với màu
xanh lam của phấn mắt. Anh cố không nhíu mày, nhưng anh ghét phải nhìn thấy lớp
lớp son phấn trên mặt đứa con gái bé bỏng của anh. Thật khó chịu và anh thấy
biết ơn vì không gian nhập nhòa tranh tối trang sáng quanh bàn ăn.
“Chú sẽ ăn mấy thứ này à?” Lexie hỏi khi thức ăn được mang đến. Con bé nhoài
người tới trước, ngạc nhiên dù vẫn thấy ghê món anh gọi.
“Ừ.” Anh với lấy một con hàu và đưa vào miệng. “Ưmm,” anh nói, hút con hàu vào
miệng rồi nuốt trôi xuống cổ họng.
Lexie hét lên, còn Georgeanne thì thoáng nôn nao và quay sang chú ý tới món cá
hồi rưới nước xốt bơ nâu vị chanh và lá chive. Phần còn lại của bữa tối diễn ra
khá êm xuôi. Họ trò chuyện với nhau ít căng thẳng hơn, nhưng những giây phút
bình yên thư thái của buổi tối chấm dứt khi cô phục vụ đặt hóa đơn cạnh anh.
Georgeanne với lấy, nhưng anh đưa tay chặn lại. Mắt cô chạm mắt anh bên kia
bàn, và cô trông chẳng khác nào một người phụ nữ muốn xắn tay lên để chiến đấu
vì cái hóa đơn vậy.
“Tôi sẽ trả,” cô nói.
“Đừng để tôi phải thô lỗ với cô,” anh cảnh báo, và siết chặt bàn tay cô. Anh
không phản đối bản thân việc tranh cãi, chỉ phản đối nơi nó diễn ra.
Thay vì đôi co, cô nhường anh thắng, nhưng nét mặt cô cho thấy tất nhiên cô sẽ
thảo luận chuyện này sau, khi chỉ còn hai người với nhau.
Trên đường trở về từ nhà hàng, Lexie ngủ gật ở ghế sau chiếc Range Rover. Anh
bế con vào nhà, cảm thấy hơi thở ấm áp của con nơi cổ mình. Hẳn anh muốn ôm con
lâu hơn, nhưng lại không làm thế. Hẳn anh muốn được ở lại trong khi Georgeanne
chuẩn bị giường cho con ngủ nhưng lại cảm thấy như thế hơi bị kỳ quặc nên bỏ ra
ngoài.
Georgeanne nhìn John bước ra rồi với tay tháo giày cho Lexie. Cô thay đồ ngủ
cho Lexie rồi đặt con lên giường. Xong cô đi tìm John. Cô muốn hỏi mượn nhíp để
nhổ cái dằm ở ngón tay, và cô cần nói chuyện với anh về món tiền anh bao cô và
Lexie.
Cô tìm thấy John đang đứng bên khung cửa sổ, trải mẳt nhìn đại dương. Anh thọc
hai tay vào túi trước quần jeans. Tay áo sơ mi vải bông chéo xắn cao trên cánh
tay, và vầng dương đang lặn tắm đẫm anh trong luồng sáng đỏ ối khiến bóng dáng
anh trở nên lồng lộng. Anh quay mặt nhìn cô khi cô bước vào phòng.
“Tôi cần nói chuyện với anh,” cô vừa nói vừa bước về phía anh, lên giây cót sẵn
sàng cho một cuộc tranh luận.
“Tôi biết cô sẽ nói gì, và nếu điều này có thể khiến cái trán xinh đẹp của cô
phải dãn ra một chút, thì lần sau cô có thể nhận hóa đơn.”
“Ô.” Cô dừng lại trước mặt anh. Cô đã thắng trước khi vào trận chiến, nên thấy
hơi chưng hửng. “Làm sao anh biết đó là điều tôi muốn nói?”
“Cô đã nhăn nhó suốt với tôi kể từ lúc cô phục vụ để tờ hóa đơn cạnh đĩa của
tôi còn gì. Có lúc tôi còn tưởng cô sẽ nhảy qua bàn mà đấu vật với tôi vì nó
nữa kìa.”
Đúng là trong giây lát cô đã nghĩ tới chuyện đó. “Tôi không bao giờ gây gổ với
ai giữa chốn đông người cả.”
“Tôi thật vui khi nghe thấy thế đấy.” Trong tấm màn xám của bóng đêm đang tới,
cô thấy mép anh khẽ nhếch lên. “Bởi vì tôi luôn có thể hạ cô.”
“Có lẽ vậy,” cô nói, miễn cưỡng không nói tiếp chuyện đó nữa. “Anh có cái nhíp
nào không?”
“Cô định làm gì, nhổ lông mày tôi à?”
“Không. Tôi bị dằm đâm vào tay.”
John bước vào phòng ăn và bật ngọn đèn phía trên chiếc bàn một chân. “Để tôi
xem nào.”
Georgeanne không bước theo. “Có gì ghê gớm đâu.”
“Để tôi xem nào,” anh nhắc lại.
Cô thở dài, chịu thua rồi bước vào phòng ăn. Cô chìa tay ra, cho anh xem ngón
giữa.
“Đúng là không tệ lắm,” anh bảo.
Cô nghiêng tới gần hơn để nhìn cho rõ hơn, và trán họ gần như chạm nhau. “Dằm
to đấy.”
Lông mày anh nhíu lại. “Tôi sẽ trở lại ngay,” anh vừa nói vừa rời khỏi phòng,
chỉ để mang theo chiếc nhíp lúc quay lại. “Ngồi xuống đi.”
“Tôi tự làm được.”
“Tôi biết là cô có thể.”Anh xoay ngược ghế rồi ngồi xuống, chân giạng ra. “Nhưng
tôi có thể nhổ nó ra dễ dàng hơn vì tôi dùng được cả hai tay.” Anh đặt cẳng
tay lên thành ghế và chỉ vào một cái ghế khác. “Tôi hứa sẽ không làm cô đau.”
Thận trọng, cô ngồi xuống ghế và chìa tay về phía anh, chủ định ngồi cách anh
chừng một sải tay. John hẩy ghế ngồi gần lại cho đến khi đầu gối cô chạm vào
ghế của anh, gần đến nỗi cô phải ép hai chân vào nhau để chúng không cọ vào má
trong đùi anh. Cô ngồi lui vào sau ghế của mình xa hết mức. Anh nắm tay cô
trong lòng bàn tay mình và bóp mạnh lớp thịt đầu ngón giữa.
“Ááá.” Cô cố kéo tay ra, nhưng anh xiết chặt nắm tay.
Anh ngước lên liếc cô. “Không đau mà, Georgie.”
“Có, đau lắm.”
Anh không đôi co, nhưng cũng không buông tay. Anh đưa mắt nhìn xuống và dùng
cái nhíp gảy gảy vào da tay cô.
“Ááá.”
Anh lại nhướn mẳt lên liếc gương mặt cô bên trên đôi tay họ đan vào nhau. “Yên
nào bé yêu.”
“Ngớ ngẩn.”
Anh bật cười, lắc đầu. “Nếu cô không phải là cô gái yểu điệu như thế thì sẽ
không đau đến thế đâu.”
“Cô gái yểu điệu? Cô gái yểu điệu là gì chứ?”
“Soi gương đi.”
Cái đó chẳng nói lên điều gì nhiều về cô cả. Cô lại cố rút tay ra.
“Thư giãn đi nào,” anh vừa nói vừa hí húi gảy nhíp. “Trông cô cứ như chỉ chực
nhảy ra khỏi ghế ấy. Cô nghĩ là tôi sẽ làm gì được chứ, đâm cô bằng cái nhíp
này chắc.”
“Không.”
“Thế thì thả lỏng người đi, sắp xong rồi.”
Thả lỏng? Anh đang ở gần đến nỗi choán hết cả chỗ. Chỉ có John với lòng bàn tay
chai sần khum khum nắm lấy tay cô và mái tóc sẫm màu lòa xòa trên đầu ngón tay
cô. Anh gần đến nỗi cô có thể cảm thấy hơi ấm nơi đầu gối anh qua chiếc quần
jeans của anh và chiếc váy mỏng vải cotton màu kiwi của cô. Sự hiện diện của
John ở đây mạnh mẽ đến mức việc cô thả lỏng là điều không thể. Cô ngước mắt lên
nhìn khắp phòng khách. Ernie và con cá xanh lớn của ông đang chằm chằm nhìn lại
cô. Trong ký ức cô, ông của John là một quý ông lớn tuổi dễ chịu. Cô nghĩ về
ông, rồi tự hỏi ông sẽ nghĩ gì về Lexie. Cô quyết định hỏi.
Anh không nhìn lên, chỉ nhún vai rồi nói, “Tôi chưa nói gì với ông tôi hay mẹ
tôi cả.”
Georgeanne ngạc nhiên. Bảy năm trước cô từng nghĩ John và Ernie rất gần gũi. “Tại
sao?”
“Bởi vì hai người bọn họ làm tôi ngán với chuyện tái hôn và xây dựng gia đình.
Nếu biết chuyện về Lexie, cả hai sẽ lao tới Seattle còn nhanh hơn điện xẹt. Tôi
muốn có thời gian tìm hiểu về Lexie trước đã, trước khi gia đình tôi nhảy bổ
vào cuộc. Hơn nữa, chúng ta đã nhất trí sẽ đợi tới lúc kể cho con bé, nhớ chứ?
Và nếu mẹ và Ernie cứ bám nhằng nhẵng, cứ nhìn chằm chằm, điều đó sẽ làm Lexie
không thoải mái.”
Tái hôn? Georgeanne chẳng còng nghe thấy anh nói gì nữa sau cái từ ấy. “Anh đã
kết hôn rồi sao.”
“Phải.”
“Khi nào?”
Anh buông tay cô ra và để chiếc nhíp lên bàn. “Trước khi gặp cô.”
Georgeanne nhìn vào ngón tay, và cái dằm đã biến mất. Cô băn khoăn tự hỏi anh
đang ám chỉ tới cuộc gặp nào. “Lần đầu ư?”
“Cả hai lần.” Anh nắm chặt vào thành ghế, nghiêng người ra saum và hơi cau mày
tư lự.
Georgeanne bối rối. “Cả hai lần ư?”
“Ừ. Nhưng tôi không nghĩ cuộc hôn nhân thứ hai đáng tính đến.”
Georgeanne không thể kìm được. Cô cảm thấy lông mày mình nhướn lên còn quai hàm
thì rớt xuống. “Anh đã kết hôn hai lần rồi ư?” Cô giơ hai ngón tay lên. “Hai
lần ư?”
Lông mày anh nhíu xuống và miệng anh mím lại thành một đường chỉ. “Hai lần thì
đâu có nhiều nhặn gì cho cam.”
Đối với Georgeanne, người chưa bao giờ kết hôn, hai lần nghe có vẻ rất nhiều
rồi.
“Như tôi đã nói, dù sao thì lần thứ hai cũng không tính. Tôi cưới chỉ lâu bằng
thời gian cần thiết để tòa xét ly hôn thôi mà.”
“Ồ, tôi đã không hề biết anh đã từng kết hôn cơ đấy.” Cô bắt đầu băn khoăn về
hai người phụ nữ đã cưới John, bố của con gái cô. Người đàn ông từng làm trái
tim cô tan vỡ. Và bởi cô không thể không biết, cô hỏi, “Hai cô ấy đâu rồi?”
“Người vợ đầu của tôi, Linda, mất rồi.”
“Tôi rất tiếc,” Georgeanne thốt lên yếu ớt. “Cô ấy chết thế nào?” Anh nhìn cô
trân trối trong vài giây khắc kéo dài. “Thì chết là chết thôi,” anh nói, đóng
lại chủ đề. “Còn DeeDee Delight thì tôi không biết ở đâu cả. Khi cưới cô ấy tôi
say bết xa lết. Và khi ly hôn với cô ấy tôi cũng say bí tỉ.”
DeeDee Delight ư? Cô nhìn anh chòng chọc trong cơn bấn loạn tột cùng. DeeDee
Delight? Trời đất quỷ thần ơi! Cô phải hỏi. Đơn giản là cô không thể không hỏi.
“Có phải DeeDee là… là… tiếp viên không?
“Cô ta là vũ nữ thoát y,” anh điềm đạm nói.
Dù đã ít nhiều đoán ra, Georgeanne vẫn sốc khi John tự thú đã lấy một cô vũ nữ
thoát y. Thật quá sững sờ. “Thật thế ư! Cô ta trông thế nào?”
“Tôi không nhớ.”
“Ô,” Georgeanne nói, trí tò mò của cô chưa được thỏa mãn. “Tôi chưa bao giờ kết
hôn, nhưng tôi nghĩ mình sẽ nhớ. Lúc ấy chắc anh phải say khướt thì mới quên.”
“Tôi đã nói tôi say à?” Giọng anh cáu kỉnh. “Nhưng cô không phải lo lắng khi
Lexie ở bên tôi. Tôi không còn uống rượu nữa rồi.”
“Anh nghiện rượu à?” cô buột miệng, câu hỏi ấy trôi tuột ra trước khi cô kịp
nghĩ kỹ hơn. “Tôi xin lỗi. Anh không phải trả lời câu hỏi riêng tư ấy.”
“Không sao. Có thể gọi là nghiện,” anh trả lời cởi mở hơn cô nghĩ. “Tuy chưa
bao giờ phải vào trại Betty Ford, nhưng tôi từng uống khá nhiều và khiến đầu óc
mình như cứt. Tôi đã có phần hơi mất kiểm soát.”
“Bỏ rượu có khó không?”
Anh nhún vai. “Không dễ gì, nhưng vì sức khỏe của tôi, cả về thể chất lẫn tinh
thần, tôi phải từ bỏ một vài thứ.”
“Như cái gì?”
Anh cười toét. “Rượu, đám đàn bà lẳng lơ, và điệu nhảy Macarena.” Anh nhoài
người tới trước và đặt cổ tay trên ghế. “Giờ thì cô biết những bí mật đáng hổ
thẹn của tôi rồi đấy, cho tôi điều gì đó về cô đi.”
“Ví dụ như điều gì?”
“Bảy năm trước, khi mua vé cho cô về, tôi nghĩ cô đã cháy túi. Sau đó cô đã
sống thế nào, tự khởi đầu công việc kinh doanh ư?”
“Tôi đã rất may mắn.” Cô ngừng một chút rồi nói thêm, “Tôi nộp đơn xin việc
theo mẩu tin đăng tuyển nhân viên của Heron.” Và rồi, bởi anh đã thành thật với
cô đến thế - và bởi chẳng có việc gì cô từng làm có thể sánh với việc cưới một
vũ công thoát y – cô nói thêm một chút sự thật không ai ngoài Mae biết về cuộc
đời mình. “Mà lúc ấy tôi còn đeo một chiếc nhẫn kim cương nữa, tôi đã bán nó đi
được mười ngàn đô.”
Anh đăm đăm nhìn không chớp mẳt. “Của Virgil ư?”
“Virgil đã tặng nó cho tôi. Nó là của tôi.”
Một nụ cười đầy ngụ ý nở ra trên khóe miệng John. “Ông ta không muốn lấy lại à?”
Georgeanne khoanh tay dưới ngực rồi nghiêng đầu sang một bên. “Chắc chắn là ông
ta muốn rồi, và tôi cũng định trả lại chiếc nhẫn, nhưng ông ta sẽ đem hết quần
áo của tôi quyên góp cho tổ chức cứu tế Salvation Army.”
“Đúng vậy. Ông ta có quần áo của cô, phải không?”
“Phải. Khi rời bỏ đám cưới, tôi đã bỏ lại mọi thứ trừ đồ trang điểm. Tất cả
những gì tôi có là cái váy hồng ngớ ngẩn ấy.”
“Ừ. Tôi có nhớ chiếc váy nhỏ xíu đó.”
“Khi tôi gọi điện cho ông ta về chuyện đồ đạc của tôi, ông ta thậm chí còn
không nói chuyện với tôi. Ông ta nói với người quản gia bảo tôi mang chiếc nhẫn
đến văn phòng ông ấy và để nó chỗ thư ký. Người quản gia cũng không mấy tốt
bụng, nhưng bà thư ký ấy đã kể cho tôi nghe ông ta đã làm gì với đồ đạc của
tôi.” Georgeanne chẳng tự hào gì khi bán chiếc nhẫn đi, nhưng ở chừng mực nào
đó thì Virgil cũng có lỗi đấy chứ. “Tôi phải mua lại tất cả đống quần áo của
mình với bốn năm đô la mỗi chiếc, mà tôi thì chẳng có lấy một xu dính túi.”
“Vậy nên cô bán chiếc nhẫn đó.”
“Cho một người thợ kim hoàn tốt phúc vớ được chiếc nhẫn với giá chỉ bằng một
nửa giá trị của nó. Lần đầu tôi gặp Mae, công việc kinh doanh nhận đặt tiệc của
cô ấy không thuận buồm xuôi gió cho lắm. Tôi đã đưa cho cô ấy một khoản lớn từ
số tiền bán nhẫn để trả cho vài chủ nợ. Số tiền đó đúng là cũng có giúp được
tôi chút đỉnh nhưng tôi đã phải làm việc cật lực mới giành được những gì tôi có
hôm nay.”
“Tôi có phán xét gì cô đâu, Georgie.”
Cô không nhận ra giọng mình lại có vẻ biện hộ đến thế. “Sẽ có người làm vậy,
nếu họ biết sự thật.”
Khóe mắt anh ánh lên vẻ thích thú. “Tôi là ai mà lại lên án cô cơ chứ? Chúa
Jesus ơi, tôi đã lấy DeeDee Delight mà.”
“Phải rồi,” Georgeanne cười, hơi cảm thấy giống Scallett O”Hara nhẹ lòng khi
trút được gánh nặng về những hành động đáng xấu hổ của mình với Rhett Betler. “Virgil
đã biết về Lexie chưa?”
“Chưa. Chưa biết.”
“Anh nghĩ ông ta sẽ làm gì khi phát hiện ra chuyện này?”
“Virgil là một nhà kinh doanh giỏi, và tôi là cầu thủ được ông ta mua. Tôi
không nghĩ ông ta sẽ làm gì cả. Đã bảy năm rồi, dù gì thì chuyện cũng đã qua.
Tôi không nói rằng ông ấy sẽ mừng rỡ khi nghe tôi kể về Lexie, nhưng ông ấy và
tôi làm việc với nhau khá ăn ý. Huống hồ, giờ ông ta cũng đã lập gia đình và có
vẻ hạnh phúc.”
Dĩ nhiên rồi, cô biết ông ta đã lập gia đình. Báo chí địa phương có đưa tin về
đám cưới của ông ta với Caroline Foster-Duffy, giám đốc Bảo tàng Nghệ thuật
Seattler. Georgeanne hy vọng John nói đúng và rằng Virgil hạnh phúc. Cô không
nuôi thù hận gì với ông ta.
“Cho tôi biết điều gì đó nữa đi.”
“Không. Tôi đã trả lời câu hỏi của anh, đến lượt tôi hỏi anh.”
John lắc đầu. “Tôi đã kể cho cô về DeeDee và chuyện tôi nghiện rượu. Đó là hai
điều xấu xa đáng hổ thẹn của tôi. Vậy nên cô còn nợ tôi một điều nữa.”
“Tốt thôi. Điều gì nào?”
“Cái ngày cô mang ảnh của Lexie tới ngôi nhà thuyền của tôi, cô có nói là cảm
thấy nhẹ lòng khi con bé không phải vật lộn với việc học ở trường. Ý cô muốn
nói là gì?”
Thực lòng mà nói cô không muốn tâm sự với John Kowalsky về chứng khó đọc của
mình.
“Có phải vì cô nghĩ tôi là một gã vận động viên ngu xuẩn không?” Anh bám vào
thành ghế rồi ngả người ra sau.
Câu hỏi của anh khiến cô ngạc nhiên. Trông anh bình thản và điềm tĩnh hồ như
câu trả lời của cô dù như thế nào cũng chẳng hề gì đối với anh. Cô có cảm giác
anh muốn giấu cô, rằng câu trả lời của cô quan trọng với anh như thế. “Tôi xin
lỗi đã bảo anh ngu xuẩn. Tôi biết là bị phán xét về chuyện mình đã làm gì hay
trông mình ra sao thì như thế nào.” Đầy người mắc chứng bệnh khó đọc ra đấy, cô
tự nhủ, nhưng cũng biết rằng kể cả nếu những người nổi tiếng như Cher, Tom
Cruise, hay Einstein có mắc chứng bệnh này thì điều đó cũng chẳng khiến cô dễ
chịu gì đi vạch áo mình cho một người đàn ông như John xem lưng. “Mối quan tâm
của tôi dành cho Lexie chẳng liên quan gì tới anh cả. Hồi nhỏ tôi đã rẩt chật
vật với chuyện học hành ở trường. Tôi gặp rắc rối một chút với ba môn đọc, viết
và số học”.
Mặt anh chẳng hề biểu cảm, trừ một nếp nhăn rất nhẹ giữa đôi lông mày. Anh im
lặng.
“Nhưng anh nên thấy tôi ở trường múa ba lê và trường dạy giao thiệp,” cô nói
tiếp, cố khiến giọng mình có vẻ đùa cợt và tán anh cười. “Có thể tôi là nữ diễn
viên ba lê tồi nhất từng nhảy mủa trên sân khấu, nhưng tôi tin mình rất giỏi
quyễn rũ người khác. Thực ra tôi đã tốt nghiệp với số điểm cao nhất lớp đấy.”
Anh lắc đầu, và nếp nhăn trên trán biến mất. “Tôi không nghi ngờ điều đó lấy
một giây.”
Georgeanne cười, và có phần bớt xù lông tự vệ. “Trong khi những đứa bé khác học
thuộc bảng cửu chương thì tôi lại học cách bày biện bàn ăn. Tôi biết chính xác
vị trí của mọi thứ, từ chiếc nĩa ăn tôm đến cái bát nước rửa tay sau khi ăn
tráng miệng. Tôi nghiên cứu các họa tiết trên bộ đồ bạc trong khi đám con gái
đọc Nancy Drew 3. Tôi dễ dàng phân biệt được giữa dao nĩa
ăn trưa và dao nĩa ăn tối, nhưng những từ như học sinh và sinh học, điểm yếu và
yếu điểm lại khiến tôi rối trí.”
Mắt anh hơi nheo lại. “Cô mắc chứng khó đọc ư?”
Georgeanne ngồi thẳng dậy. “Phải.” Cô biết mình không nên cảm thấy xấu hổ. Tuy
vậy, cô vẫn nói thêm, “nhưng tôi đang học cách đối mặt với nó. Người ta vẫn cho
rằng một người mắc chứng khó đọc thì không biết đọc. Điều đó không đúng. Chỉ là
chúng tôi học theo cách hơi khác biệt thôi. Tôi đọc và viết như phần lớn những
người khác, nhưng toán thì không bao giờ là môn tủ của tôi. Giờ tôi không còn
thấy phiền muộn vì là người mắc chứng khó đọc nữa rồi.”
Anh nhìn cô chằm chằm trong giây lát, rồi nói, “Nhưng hồi bé thì có chứ?”
“Hẳn rồi.”
“Cô có đi khám không?”
“Có. Hồi tôi học lớp bốn, ông bác sĩ nào đó đã khám cho tôi. Tôi không nhớ rõ
lắm.” Cô trượt vội ra sau ghế rồi đứng dậy, cảm giác oán giận dâng ngập trong
lòng cô. Oán hận John vì đã ép cô kể lại câu chuyện khó khăn của mình cứ như
thể đó là chuyện của anh vậy. Và cô lại cảm thấy nỗi cay đắng cũ khi nghĩ tới
ông bác sĩ đã khiến thời niên thiếu của cô đảo lộn. “Ông ta nói với bà tôi rằng
tôi bị mắc chứng rối loạn chức năng não, nhưng đó là một thuật ngữ có phần
nghiệt ngã và là lời chẩn đoán chụp mũ. Vào những năm bảy mươi, mọi thứ từ
chứng khó đọc đến chậm phát triển trí tuệ đều bị liệt vào rối loạn chức năng
não.” Cô nhún vai hồ như chuyện đó chẳng hề có nghĩa lý gì cà cố ép ra một
tiếng cười khẽ. “Ông bác sĩ nói rằng tôi sẽ không bao giờ có thể sáng láng. Vì
thế tôi lớn lên với cảm giác mình hơi chậm phát triển và có phần hoang mang.”
John chầm chậm đứng dậy và đẩy ghế gọn sang bên. Mắt anh nheo hẳn lại. “Chưa ai
từng bảo cái ông bác sĩ mắc dịch kia cút về vườn ư?”
“Ồ, tôi… tôi…” Georgeanne lắp bắp, sửng xốt trước cơn phẫn nộ của anh. “Tôi không
nghĩ có bao giờ bà lại nói tục đâu. Bà là một tin đồ Baptist.”
“Bà không đưa cô tới chỗ bác sĩ khác à? Cô có khám ở chỗ khác nữa không? Tìm
thầy phụ đạo? Hay bất kỳ thứ mắc dịch nào đó khác?”
“Không.” Bà chỉ đăng ký cho tôi học ở trường dạy giao thiệp, cô nghĩ.
“Sao lại không?”
“Bà không nghĩ có thể làm được gì thêm nữa. Hồi ấy là giữa thập niên bảy mươi
nên thông tin không đầy rẫy như bây giờ. Mà ngay cả bây giờ, trong thập niên
chín mươi, cũng đâu thiếu gì những trường hợp chẩn đoán sai cho trẻ em chứ.”
“Ôi, không nên thế chứ.” Ánh mắt anh lướt dọc khắp khuôn mặt rồi đến mắt cô.
Trông anh vẫn còn tức giận, nhưng cô không thể nghĩ ra một lý do nào khiến anh
quan tâm. Đây là mặt khác của John mà cô chưa từng nhìn ra. Một mặt chất chứa
cái gì đó giống như là lòng trắc ẩn. Người đàn ông ấy đứng trước cô, người đàn
ông trông giống John, khiến cô bối rối. “Tôi phải đi ngủ thôi,” cô thốt lên.
Anh mở miệng định nói gì đó, rồi đóng lại. “Chúc cô mơ những giấc mơ đẹp,” anh
nói, rồi lùi lại một bước.
Nhưng Georgeanne không có những giấc mơ đẹp. Đã từ lâu cô chẳng hề mơ mộng gì.
Cô nằm xuống giường, nhìn trân trân lên trần nhà và lắng nghe hơi thở đều đều
của Lexie nằm bên cạnh. Cô trằn trọc không ngủ. Cứ nghĩ đến phản ứng đầy phẫn
nộ của John là cô lại càng thêm xáo trộn.
Cô nghĩ về những người vợ của anh, nhưng chủ yếu là nghĩ tới Linda. Sau ngần ấy
năm anh vẫn không thể khiến mình tự kể về cái chết của cô ấy. Georgeanne băn
khoăn tiếp đàn bà nào lại có thể khơi dậy trong một người đàn ông như John thứ
tình yêu như thế. Và cô tự hỏi đâu đó còn có những phụ nữ nào đó có thể lấp đầy
chỗ trống của Linda trong trái tim John hay không.
Càng nghĩ, cô càng nhận ra mình hy vọng sẽ không còn ai nữa. Cảm giác ấy của cô
không được tử tế lắm, nhưng đúng là thế. Cô không muốn John tìm kiếm hạnh phúc
với một cô ả gầy rạc nào đó. Cô muốn anh phải hối tiếc cái ngày anh bỏ rơi cô ở
Sea-Tac. Cô muốn suốt phần đời còn lại anh sẽ phải sống mà tự chửi rủa mình.
Không phải vì như thế cô sẽ có thể sóng đôi bên anh lần nữa. mà bởi, dĩ nhiên,
cô còn không buồn nghĩ tới chuyện đó. Chỉ là cô muốn anh phải đau khổ. Rồi có
lẽ khi anh đã đau khổ lâu lâu, cô sẽ tha thứ cho anh vì đã là một gã xuẩn ngốc
vô tình từng làm trái tim cô tan vỡ.
Có lẽ thế.
--------------------------------
Haystack Rock là bãi đá nguyên khối cao 72 mét ở bờ biển Oregon, là bãi biển cao thứ ba trên thế giới. |
|
Chất trong loạt chuyện về Siêu nhân. Siêu nhân bị mất sức mạnh khi tới gần chất này. |
|
Nhân vật trong loạt truyện trinh thám cho thiếu niên của nhà văn Mỹ Adward Stratemeyer (1862-1930). |