Jane Eyre - Charlotte Bronte - Chương 03+04

Chương 3

TÔI TỪ GIÃ GATESHEAD


Sau buổi nói chuyện với ông Llyod , tôi vững tâm trở lại và tình trạng sức khỏe của tôi dần dà phục hồi. Một sự đổi thay đang đến gần, tôi háo hức đợi chờ trong yên lặng. Nhưng chuyện có vẻ chậm chạp; hàng ngày hàng tuần trôi qua, bà Reed làm cho tôi cảm thấy cô độc hơn bao giờ hết. 

Bà ta tách tôi khỏi mấy đứa con của bà, cho tôi ăn riêng , ngủ riêng, và tôi phải ở trong phòng giữ trẻ khi mấy đứa anh chị em họ của tôi ở trong phòng khách. Eliza và Georgiana nói chuyện với tôi rất ít , còn John thì mỗi lần gặp tôi , hắn lại thè lưỡi ra với tôi. Có một lần hắn định đánh tôi, nhưng tôi đã nhanh nhẹn đấm mạnh vào mũi hắn, khiến hắn phải chạy đi tìm mẹ, mách: "Cái con Jane Eyre bẩn thỉu đã đánh con như một con mèo điên". 
Mẹ hắn bảo: 
- Con đừng tới gần nó, John à. Nó không đáng cho mình quan tâm tới. Mẹ không muốn các con tiếp xúc với nó. 
Đứng tựa trên đầu thang lầu, thình lình tôi nói to lên: 
- Bọn chúng không xứng đáng để tôi tiếp xúc đâu 


Bà Reed người mập lùn, khi nghe tôi nói như vậy, đã chạy vụt lên cầu thang, đẩy tôi vào phòng giữ trẻ, xô tôi xuống mép giường rồi doạ dẫm: 
- Mày không được rời khỏi cái giường này và nói một tiếng nào cho đến hết ngày hôm nay. 
Không tự kiềm chế được mình , tôi hỏi bà: 
- Nếu cậu Reed còn sống , cậu nghĩ sao về mợ đây? 
Bà Reed ngẹn ngào hỏi tôi: 
- Mày nói sao? 
Hai mắt bà ánh lên vẻ sợ sệt, bà nhìn chằm chằm vào tôi như tôi là đồ qủy sứ. Tôi nói tiếp: 
- Cậu Reed của cháu đang ở trên trời; cậu thấy hết việc mợ làm và biết mợ nghĩ gì, và ba mẹ cháu cũng vậy. Tất cả đều biết mợ nhốt cháu suốt ngày và muốn cho cháu chết đi. 
Nhưng bà Reed đã tỉnh táo lại. Bà day tôi thật mạnh, bạt tai tôi rồi không nói một lời, bà bỏ đi. 

Tháng mười một, tháng mười hai rồi nửa tháng giêng trôi qua. Dĩ nhiên là tôi bị đuổi khỏi các cuộc vui giáng sinh và năm mới. Niềm vui của tôi là đứng nhìn chị em Eliza xuống tham dự ở phòng khách, nhìn chúng mặc áo quần đẹp, choàng khăn cổ màu tím, cuộn tóc cao. Tôi chỉ còn lắng nghe tiếng nhạc, tiếng ly tách va chạm nhau, tiếng người rì rầm mỗi khi cửa mở ra đóng lại. 

Tôi đành rút vào phòng giữ trẻ yên lặng và đơn độc, chơi với con búp bê trên chân. Khi lửa trong lò sưởi tắt hết, tôi vội cởi áo quần rồi chui vào giường để khỏi lạnh và khỏi thấy bóng tối. 

Tôi luôn ôm con búp bê vào giường. Người ta sống ở đời phải thương yêu một cái gì, tôi thì tìm thấy niềm vui bằng cách nâng niu cái khuôn mặt nhỏ nhắn bạc màu này, cho dù nó xấu xí. Tôi bỗng ngạc nhiên khi nhớ ra rằng tôi đã thương yêu cái đồ chơi nhỏ xíu này một cách chân thành đến độ phi lý, lại tưởng tượng rằng nó sống thật. Tôi chỉ ngủ được khi ôm chặt nó vào lòng, và khi nó nằm đấy yên ổn, ấm áp, tôi mới được hạnh phúc và tưởng rằng nó cũng được hạnh phúc . 

Thỉnh thoảng Bessie có đem đến cho tôi một miếng bánh vào bữa ăn, chị ngồi trên giường trong lúc tôi ăn. Lần thứ hai chị hôn tôi rồi nói:" Chúc cô ngủ ngon". Những lần chị ấy dịu dàng với tôi như thế, chị tỏ cho tôi thấy chị là người tốt nhất , đẹp nhất trần gian .Tôi cứ ước mơ chị mãi mãi tốt với tôi như thế , chứ đừng xô đẩy tôi , la mắng tôi! Chị còn trẻ, mảnh mai, tóc và mắt đen , nét người rất xinh xắn. Mặc dù tính khí chị ta có phần nóng nảy , tôi vẫn thích chị hơn bất cứ ai ở Gateshead Hall. 

Hôm ấy là ngày mười lăm tháng giêng, vào quãng chín giờ sáng, Bessie đến bảo tôi tới phòng ăn điểm tâm có việc . Đã gần ba tháng nay chưa bao giờ bà Reed cho gọi tôi đến. Tôi tần ngần đứng lại một hồi lâu trong phòng khách vắng người , rồi quyết định đưa cả hai bàn tay quay nắm cửa, bước vào. 

Khi đã vào trong phòng , tôi ngước nhìn một người cao lớn có khuôn mặt đen đủi đang đứng trước lò sưởi.Bà Reed đang ngồi bên lò sưởi ra dấu cho tôi đến gần hơn. Bà giới thiệu tôi với người cao lớn ấy. 
- Đây là con bé mà tôi đã nói cho ông biết. 
Người đàn ông cúi người xem xét tôi. 
- Nó còn nhỏ qúa nhỉ. Nó mấy tuổi rồi? 
- Mười rồi đấy. 
Ông ta nghi ngại đáp: 
- Nhiều thế à? Này, cháu tên gì? 
- Thưa ngài , cháu tên là Jane Eyre. 
- Tốt, này Jane Eyre, cháu có ngoan không? 

Thật khó trả lời dứt khoát, vì mọi người trong nhà đều chống đối tôi. Tôi đành im lặng. 
Bà Reed trả lời thay cho tôi: 
- Có lẽ đề cập đến vấn đề này càng ít càng tốt, ông Brocklehurst ạ! 
- Tôi rất buồn khi nghe bà nói vậy. Cô ấy và tôi phải trao đổi một ít. 
Ông ta ngồi xuống và nói với tôi: 
- Cháu hãy đến đây. 
Tôi đi ngang qua tấm thảm. Ông biểu tôi ngồi ngay trước mặt ông. Cái mặt ông rộng làm sao! Lại cái mũi bự nữa! Cái miệng nữa nè! Răng thì to và hô! Ông ta lại bắt đầu nói: 
- Không có cảnh nào xấu bằng một đứa bé ngỗ ngược, cháu à! Cháu có biết những người ác độc sau khi chết đi đâu không? 
Tôi trả lời theo kinh điển: 
- Dạ, họ phải xuống địa ngục. 
- Địa ngục là gì? Cháu nói cho ta biết , được không? 
- Một hầm đầy lửa. 
- Và cháu có muốn rơi vào hầm ấy rồi bị cháy mất tiêu không? 
- Dạ thưa ngài không . 
- Vậy cháu có biết phải làm gì để tránh điều ấy không? 
Tôi nghĩ một lát rồi đáp: 
- Cháu phải giữ gìn sức khỏe để khỏi chết. 

Đó không phải là một câu trả lời đúng . Ông Brocklehurst bảo rằng ông sợ nếu tôi chết đi, linh hồn tôi sẽ không được lên thiên đàng. 

Tôi đưa mắt nhìn hai bàn chân to tướng của ông trên thảm, tôi thở dài, muốn bỏ đi chỗ khác. 
Ông Brocklehurst nói: 
- Tôi mong tiếng thở dài ấy là do lòng ân hận của cháu mà ra. 

Bây giờ thì bà Reed tham gia câu chuyện. Bà bảo rằng, nếu tôi được nhận vào trường Lowood , bà mong tất cả các giáo viên phải nghiêm khắc với tôi. Nhất là họ phải coi chừng tật xấu nhất của tôi, là tính nói láo. Lời tố cáo này với một người xa lạ, qủa là một cái tát độc địa cho tôi. Trước mắt ông Brocklehurst, tôi là một con bé nói láo ghê tởm, tôi có thể làm gì được để thanh minh cho mình? Qủa thật không có cách nào cả, tôi chỉ biết cố giữ cho nước mắt khỏi trào ra mà thôi. Tương lai của tôi ở Lowood thật mờ mịt. 
Ông Brocklehurst bảo: 
- Nói láo là một tật xấu đáng buồn, nó giống như sự xảo trá. Tất cả những kẻ nói láo đều phải bị đầy xuống hầm lửa và lưu huỳnh. Thưa bà Reed, cô ta sẽ được canh chừng. Tôi sẽ báo trước cho cô Temple và các giáo viên khác biết trước. 
Bà Reed nói: 
- Tôi muốn nó được dạy dỗ thích hợp với hoàn cảnh của nó, để nó được hữu ích, biết khiêm tốn. Tôi cũng muốn nó ở lại Lowood trong những dịp nghỉ . 
Ông Brocklehurst đáp: 
- Thưa bà, quyết định của bà hoàn toàn hợp lý. Sự khiêm tốn được đặc biệt dạy dỗ cho các học sinh ở Lowood, bởi vì tôi đã nghiên cứu phương pháp để giáo dục các em có thình cảm tự hào. 
Ông ta và bà Reed tiếp tục thu xếp để tôi vào Lowood, rồi ông Brocklehurst kiếu từ ra về. 
Khi đi , ông còn quay lại nói với tôi: 
- Này cháu, đây là cuốn The Child's Guide (hướng dẫn thiếu nhi). Đọc đi và cầu nguyện, nhất là về cái chết của Martha, một đứa bé hư hỏng vì gian xảo và láo khoét. 
Ông ta đặt cuốn sách vào tay tôi. 
Bà Reed và tôi ngồi yên lặng trong mấy phút. Tôi nhìn bà may vá. Những điều bà nói với ông Brocklehurst cứ ám ảnh mãi trong đầu óc tôi. Mỗi lời bà nói đều làm cho tôi đau đớn vô cùng, và một cảm giác căm ghét trỗi dậy trong đầu tôi. Bà Reed nghỉ tay và nhìn tôi. Tôi nhìn bà khiến bà nhột nhạt, bà nói một cách giận dữ: 
- Bước ra khỏi phòng đi . Về lại phòng giữ trẻ. 
Tôi đứng dậy bước ra cửa. Rồi tôi trở vào và đến sát bên bà. Tôi phải nói, phải làm sáng tỏ vấn đề. Tôi thu hết can đảm và nói: 
- Cháu không nói láo. Nếu phải nói láo, thì chắc cháu đã nói cháu yêu mợ. Nhưng cháu ghét mợ hơn bất cứ ai trên đời này kể cả John Reed. Cuốn sách này nói về một kẻ nói láo, mợ hãy tặng cho Georgiana, con gái của mợ, vì chính cô ấy mới nói láo, chú không phải là cháu. 
Hai bàn tay bà Reed vẫn còn để trên đồ may. Hai mắt lạnh lùng của bà nhìn tôi chằm chằm: 
- Mày còn nói gì nữa không? 
Giọng nói của bà, đôi mắt lạnh lùng thù hận của bà đã khơi dậy mối ác cảm trong tôi. Tôi run rẩy toàn thân, và thấy mình bạo dạn ra, tôi nói tiếp: 
- Tôi lấy làm hài lòng vì bà không phải bà con gì với tôi cả.Tôi sẽ không bao giờ đến thăm bà khi tôi đã khôn lớn. Nếu có ai hỏi tôi bà đã đối xử với tôi ra sao, thì tôi sẽ nói cho họ biết bà đã đối xử với tôi qúa tàn bạo, khốn nạn ngày này qua ngày khác. 
- Jane Eyre, mày dám nói với tao như vậy sao? 
- Thua bà Reed , tôi dám à? Nó thực sự mà! Bà cho là tôi sống được với không một tí yêu thương nào cả. Bà không có tình thương.Trong chuỗi ngày tê tái của tôi, tôi cứ nhớ mãi bà đã đẩy tôi vào trong cái phòng đỏ gớm ghiếc ấy, nhốt tôi một mình trong ấy. Mặc cho tôi kêu gào van xin, bà đã khóa cửa nhốt tôi vào đấy, bất kể tôi đã khiếp sợ đến dương nào! Rồi bà còn hành hạ tôi đủ điều vì thằng con độc ác của bà đã vô cớ đánh tôi nhào đầu.Tôi sẽ nói cho mọi người biết khi họ hỏi tôi về sự thực chuyện này. Bà độc ác. Người ta có thể tưởng bà tốt, nhưng thực ra bà xấu, ác tâm. Chính bà mới là kẻ nói láo. 

Trước khi tôi nói xong, tôi cảm thấy mình tự do và chiến thắng một cách lạ kỳ. Tuồng như có một bước nhảy vô hình khiến tôi thấy mình tự do. 

Bà Reed trông có vẻ kinh ngạc vô cùng. Đồ may của bà tuột khỏi đầu gối, bà giơ hai tay lên và đung đưa người , bà nói: 
- Jane, cháu sai lầm rồi đấy. Cháu có vấn đề gì đấy? Tại sao cháu run rẩy như vậy? Cháu muốn uống nước không? Này Jane, mợ cam đoan với cháu, mợ muốn làm bạn của cháu đấy. 

- Không đâu bà ạ! Bà đã nói với ông Brocklehurst là tôi không có tư cách và nói láo. Tôi sẽ nói cho mọi người ở Lowood biết , bà như thế nào và bà đã làm gì. 
Bà ta bảo: 
- Này Jane, cháu không hiểu hết vấn đề. Trẻ con phải sửa chữa những lỗi lầm của mình. 
Tôi la lên: 
- Nhưng tội nói láo không phải là tội của tôi. 
- Nhưng cháu nóng nảy qúa đấy Jane à.Thôi, hãy về phòng giữ trẻ và nghỉ một chút đi. 
- Tôi không nằm nghỉ. Bà Reed à, bà hãy cho tôi đến trường ngay đi. Tôi ghét sống thêm ở đây lắm rồi. 
Giọng của tôi oang oang rõ ràng. 
Bà Reed vừa lượm đồ may lên , vừa rời khỏi phòng vừa lẩm bẩm một mình: "Rồi tao sẽ cho maỳ đến trường ngay". 

Tôi ở lại một mình - như kẻ chiến thắng. Đấy là cuộc chiến đấu gian khổ nhất và là chiến thắng đầu tiên của tôi. Tôi đứng một lát trên tấm thảm, chỗ ông Brocklehurst đã đứng, vui sướng vì một mình chiến thắng.

 

 ***

Chương 4

Ở LOWOOD 

Tôi thức dậy trước năm giờ sáng ngày mười chín tháng giêng , và khi Bessie mang vào phòng tôi một cây đèn, chị đã thấy tôi áo quần chỉnh tề. Tôi sẽ rời Gateshead bằng chuyến xe ngựa chạy qua cổng nhà vào lúc sáu giờ sáng. 

Bessie cố chuẩn bị cho tôi ăn trước khi đi, nhưng tôi lại qúa nôn nóng ra đi . Cho nên chị gói cho tôi một ít bánh trong tờ giấy báo , và nhét vào túi xách của tôi. 
Khi chúng tôi đi qua phòng ngủ của bà Reed, Bessie bảo tôi: 
- Cô có vào phòng chào bà không? 
- Không , chị Bessie à! Đêm qua khi chị đi ăn thì bà có đến giường tôi, bảo tôi khỏi cần quấy rầy bà vào buổi sáng, và cũng khỏi chào các anh chị em họ của tôi . Bà lại còn nhắc tôi nhớ rằng, bà luôn luôn là bạn tốt của tôi, và tôi phải biết ơn bà. 
Bessie hỏi : 
- Thế cô nói sao? 
- Không nói gì hết. Tôi lấy vải trải giường che lấy mặt và quay lưng lại với bà. 
- Cô Jane à, thế là sai rồi. 
- Không, hoàn toàn đúng đấy, chị Bessie. Bà Reed không phải là bạn của tôi mà là kẻ thù của tôi. 
- Ôi , cô Jane , cô đừng nói thế. 
Khi chúng tôi đi qua phòng khách, ra khỏi cửa, tôi la lên : 
- Vĩnh biệt Gateshead! 

Hôm ấy là một buổi sáng mùa đông rất lạnh, hai hàm răng tôi đánh vào nhau lập cập. Chúng tôi đi vội đến nhà bác giữ cổng. Khi chúng tôi tới đó, vừa đúng sáu giờ, vợ bác giữ cổng đang nhóm lửa. Cái rương của tôi đã được mang tới đây đêm qua, và bây giờ tôi thấy nó ở gần cửa. 

Tôi bước ra khỏi căn nhà lá và nghe thấy tiếng chân ngựa và tiếng bánh xe lăn khi xe đến gần. 
Vợ bác giữ cổng hỏi sau lưng tôi: 
- Cô ấy đi một mình thôi à? 
- Vâng. 
- Xa lắm không? 
- Mười lăm dặm. 
- Như thế thì xa qúa cho một cô bé. Tôi ngạc nhiên tại sao bà Reed lại để cô đi một mình xa đến thế. 
Chiếc xe dừng lại. Nó ở nơi cổng đây rồi, bốn con ngựa và nhiều hành khách. Người ta đưa cái rương của tôi lên xe. Bessie đưa hai cánh tay đỡ tôi lên, tôi ôm chị lần cuối. 
Khi người phụ xế đỡ tôi lên xe, chị Bessie nói lớn với anh ta: 
- Coi chừng giúp cô ấy nghe! 
Có tiếng đáp lớn: 
- Đưọc rồi. 
Chiếc xe lăn bánh. 

Tôi nhớ ít về chuyến đi , nhưng ngày ấy đã qúa dài, và chiếc xe như đã đi hàng trăm dặm. 

Sau một buổi chiều ẩm ướt mù sương, có một người như là gia nhân chặn xe lại. Anh ta đến đón tôi, anh đứng giữa mưa và bóng tối khi chiếc xe chạy đi. 

Tôi bị tê cứng vì ngồi lâu và mỏi mệt vì bị xe nhồi , cho nên tôi qúa đỗi vui mừng khi thấy mình được dẫn đến một tòa nhà rộng rãi.Người gia nhân để tôi đứng một mình trong căn phòng, tôi hơ những ngón tay tê cứng trên lò lửa, nhưng chẳng bao lâu sau một cô giáo trẻ tên là Miller đến dẫn tôi đi qua những lối đi lạnh lẽo. 

Chúng tôi đi từ phòng này qua phòng khác cho đến khi chúng tôi nghe tiếng ồn của một đám đông, rồi chúng tôi đến một nơi đông đúc con gái đủ lứa tuổi. Qua ánh sáng của những ngọn đèn cầy, họ ngồi đầy cả phòng học dài và rộng, đông không đếm xuể, nhưng chắc cũng phải đến tám mươi người. Đang giờ học, còn tiếng ồn tôi nghe được là những tiếng thì thào họ nhắc cho nhau về bài học ngày mai. 

Cô Miller ra dấu cho tôi ngồi vào chiếc ghế dài cạnh cửa, rồi cô nói lớn ở đầu lớp: 
- Lớp trưởng, thu sách lại và cho nghỉ. 
Bốn cô gái cao đứng dậy ở các bàn khác nhau và làm theo lời cô. 
Cô Miller lại ra lệnh: 
- Lớp trưởng , đi lấy các khay thức ăn. 
Bốn cô gái cao ấy lại bước ra rồi trở vào, mỗi cô mang một cái khay trên có một bình nước, một cái cốc lớn và vài miếng bánh lúa mạch mỏng đặt trên một cái đĩa. Khi thực phẩm được chia quanh cho mọi người, thì ai cần nước cứ uống chung một cốc. Đến phiên tôi, tôi chỉ uống vì quá khát và không thể ăn được vì qúa mệt trong chuyến đi. 

Bữa ăn xong, cô Miller đọc kinh rồi tất cả đi theo hàng hai lên lầu. Mệt mỏi , tôi không để ý mình được sắp xếp ngủ ở đâu, chỉ biết phòng ngủ dài, kê hai dãy giường , mỗi cái hai người. Đêm nay tôi ngủ chung giường với cô Miller, và nằm xuống là tôi ngủ liền. Gian phòng tối thui và yên lặng. 

Tôi bừng mắt dậy khi chuông đang reo vang, và tất cả đám con gái đã chỗi dậy, đang mặc áo quần, mặc dù trời chưa sáng hẳn.Trời rất lạnh. Tôi miễn cưỡng ngồi dậy, mặc áo quần vừa run rẩy rửa mặt trong một cái chậu trống , kê ở giữa phòng. Một cái chậu dùng chung cho sáu người , thật không phải dễ. 

Chuông lại reo, tất cả lại xếp hàng hai và đi xuống thang lầu, vào một phòng học lờ mờ và lạnh lẽo. 

Có lệnh sắp xếp học sinh vào bốn lớp. Tôi được xếp vào lớp học sinh nhỏ nhất, ngồi ở cuối phòng học, do cô Miller phụ trách. Một hồi chuông khác xa hơn, ba giáo viên khác bước vào nhóm khác đang đợi. 

Công việc bắt đầu. Đọc kinh và tập đọc trong sách kinh suốt một giờ liền. Khi vừa xong thì trời đã sáng hẳn. Chuông lại reo lần thứ tư và các lớp lại xếp hàng đi vào một phòng khác để ăn điểm tâm. Tôi vui sướng làm sao khi nghĩ đến ăn một cái gì! Hầu như tôi đói lả người vì hôm trước ăn rất ít. 

Phòng ăn rộng, thấp, thê lương. Mấy cái thau đựng thức ăn nóng hổi đặt trên hai bàn dài. Nhưng vừa bước vào , tôi ngửi thấy mùi khó chịu, tôi thấy ớn người. Từ hàng đầu có tiếng xì xầm : 
- Tởm qúa ! Cháo lại cháy nữa. 
Một giọng nói la lớn ở một bàn khác: 
- Im lặng đi! 
Học sinh đọc lời tạ ơn dài, rồi hát. Rồi một gia nhân mang trà đến cho giáo viên và bữa ăn bắt đầu. 
Bây giờ thì tôi xỉu vì đói; bất kể mùi vị ra sao, tôi ăn liền mấy muỗng phần ăn của mình. Rồi tôi thấy những cái muỗng quanh tôi hoạt động như tôi, và mọi người rồi cũng cố gắng ăn cái thứ thực phẩm thừa mứa ghê tởm ấy. Bữa điểm tâm đã xong và ai cũng phải ăn hết. Rồi lại đọc lời cảm tạ những cái chúng tôi không nhận được, lại hát. Rồi chúng tôi trở lại phòng học. 

Mười lăm phút trước khi giờ học bắt đầu, phòng học ồn ào náo nhiệt vì chúng tôi được phép nói chuyện lớn và tự do lúc này. 

Đồng hồ điểm chín giờ. Cô Miller đứng ở giữa phòng nói lớn: 
- Tất cả im lặng. Vào chỗ ngồi. 
Trật tự được lập lại. 
Những giáo viên khác đến đúng giờ, họ ngồi vào chỗ, nhưng vẫn còn như đợi một cái gì. Tám chục nữ sinh ngồi trên những dãy ghế dài kê dọc theo hai bên phòng học , lưng thẳng, yên lặng , tóc chải thẳng ra sau, không một ai cuộn tóc lên. Tất cả đều mặc áo màu nâu, cổ cao cài kín, mang bít tất len và giày thô ráp. Khoảng hai chục học sinh lớn nhất, gần trưởng thành , mặc áo quần màu xám nhạt, trông buồn tẻ, xấu xí mặc dù có cô rất xinh. 
Tôi đang nhìn quanh thì bỗng cả lớp đứng dậy như có một phản xạ quen thuộc từ lâu. Cái gì vậy? Tôi không nghe có lệnh gì hết, nhưng tất cả đều đổ dồn mắt đến một người cao đang đứng ở cuối căn phòng dài. Đó chính là bà đêm qua tôi đã thấy một lần. Cô Miller đến hỏi bà, rồi hình như nhận lệnh, cô quay về chỗ cũ và nói to lên: 
- Lớp trưởng lớp nhất, đi lấy địa cầu! 
Cô hiệu trưởng Lowood (vì chính bà ấy) ngồi vào chỗ trước hai qủa địa cầu để trên một cái bàn và bắt đầu giảng một bài địa lý cho các học sinh lớn học. Bây giờ trong ánh sáng ban ngày,trông cô cao và trang nghiêm.Cô mặc áo màu tím và tôi để ý thấy một chiếc đồng hồ vàng đeo nơi thắt lưng của cô (loại đồng hồ này bây giờ không còn phổ biến nữa). Đôi mắt màu nâu long lanh trên khuôn mặt tai tái, tóc cuốn lên bao quanh chân mày theo kiểu lúc bấy giờ. Độc giả chắc sẽ thêm vào hình ảnh cô Temple dáng dấp nghiêm nghị và thái độ trầm tĩnh. Sau này khi đi nhà thờ với cô, cô để tôi mang cuốn sách kinh cho cô, tôi mới thấy tên cô trên cuốn sách là Maria Temple. 

Các lớp dưới do các giáo viên khác dạy lịch sử và các môn học khác trong một giờ, rồi tiếp theo là học viết, học toán. Cô Temple dạy nhạc cho các học sinh lớn, cho đến lúc đồng hồ đánh mười hai giờ, cô hiệu trưởng đứng dậy. 
Cô bảo: 
- Các em, Cô có đôi lời nói với các em. Sáng nay người ta dọn điểm tâm cho các em, các em không ăn được. Chắc là các em đói. Cô đã ra lệnh dọn bánh mì và phó - mát cho các em . 
Các cô giáo khác có vẻ ngạc nhiên. Cô Temple nói tiếp: 
- Tôi chịu trách nhiệm về việc này. 
Nói xong cô rời phòng học. 

Bánh mì và pho mát tức thì được mang vào và phân phát cho học sinh, cả trường đều hân hoan. Rồi có lệnh " ra vườn". Mỗi cô, kể cả tôi, khoác một chiếc áo choàng màu xám, đội một cái nón rơm, rồi tất cả nhộn nhịp bước ra ngoài trời. 

Khu vườn rộng rãi có tường cao bao quanh, ở ngoài không nhìn thấy. Một hành lang kín đáo chạy dọc mỗi bên khu vườn, và các lối đi rộng rãi chạy quanh khu trung tâm, khu này được chia thành nhiều luống hoa, mỗi cô có một luống. Khi mùa hoa nở, chắc là chúng rất đẹp mắt, nhưng bây giờ thì đang cuối tháng giêng, chỉ toàn thấy cảnh tàn úa xám xịt của mùa đông mà thôi. 

Tôi rùng mình khi nhìn quanh, một lớp sương mù vàng vọt khắp nơi và mặt đất nhão nhẹt dưới chân. Mấy cô mạnh khỏe thì chạy nhảy nô đùa, còn mấy cô ốm yếu thì tụ tập dưới hành lang để tránh lạnh và được ấm áp. Trong hơi sương ẩm ướt, tôi nghe nhiều cô khúc khắc ho. 

Tôi không nói chuyện với ai, và cũng không ai chú ý đến tôi, nhưng tôi đã quen cảnh cô đơn rồi, cho nên tôi không thấy có gì đáng ngại.Tôi đứng tựa vào một chiếc cột ở hành lang, kéo chặt chiếc áo choàng và cố quên đói quên lạnh, tôi đứng nhìn và suy nghĩ. Gateshead và đời sống cũ đã xa rồi, hiện tại thì mơ hồ và xa lạ, còn tương lai thì tôi không dám nghĩ đến. 

Tôi nhìn ra khu vườn lạnh lẽo rồi nhìn lên ngôi nhà - một tòa nhà rộng, một nửa có màu xám, cổ; nửa kia thì mới. Phần còn mới bao gồm phòng học chính và dãy phòng ngủ, qua những cánh cửa sổ mắt cáo, người ta thấy phòng ngủ sáng sủa ra. Nhìn qua, nó giống như một nhà thờ. Một tấm đá gắn vào cửa có khắc hàng chữ: 
"Viện Lowood. Phần này do Naomi Brocklehurst ở Brocklehurst Hall của quận này xây cất". " Hãy để cho ánh sáng tỏa ra trước mọi người cho họ thấy công đức của ngươi và hãy vinh danh Cha ở trên Trời. Thánh Matt. Tập 16". 

Tôi đọc lui đọc tới những chữ này mà vẫn thấy khó hiểu. Tôi tự hỏi ý nghiã của từ " Viện" và câu Thánh vịnh theo sau nó, thì bỗng nghe có tiếng ho ở đằng sau, nên quay đầu lại. 

Tôi thấy một cô gái ngồi trên chiếc ghế đá, đầu cúi xuống trên một cuốn sách. Từ chỗ tôi đứng , tôi có thể nhìn thấy nhan đề cuốn sách, " Rasselas", một cái tên xa lạ và hấp dẫn với tôi. Nhân lật một trang sách, chợt cô gái nhìn lên và tôi nói với cô: 
- Cuốn sách hay không? 
Tôi đã cố gắng dạn dĩ hỏi mượn cô trong vài ngày. Cô nghỉ đọc , nhìn tôi chằm chằm rồi đáp: 
- Tôi thích đọc nó. 
Tôi hỏi tiếp: 
- Viết về cái gì thế? 
Tôi không hiểu sao mình lại dám gợi chuyện với một người lạ như thế này, nhưng tôi cũng thích đọc, mặc dù tôi đang còn bé hơn cô ta. 
Cô gái đưa cuốn sách cho tôi ,rồi đáp: 
- Bạn có thể xem nó đi. 
Xem lướt qua , tôi thấy nội dung cuốn sách có vẻ buồn hơn cái nhan đề.Tôi không thấy nói gì về các vị tiên, không có tranh ảnh nào trong các trang đầy chữ in. Tôi trả cuốn sách lại cho cô ta, cô định tiếp tục đọc thì lại bị tôi quấy rầy: 
- Bạn có thể giải thích cho mình ý nghĩa của hàng chữ trên không? tại sao gọi là Viện? Nó có khác những trường học khác không? 
- Nó là một phần của trường từ thiện. Bạn và tôi , và tất cả chúng ta ở đây là trẻ từ thiện. Mình chắc bạn cũng mồ côi , không cha mẹ chứ? 
- Cả hai đều chết khi mình chưa biết. 
- Đấy, tất cả con gái ở đây đều mất một hay cả cha lẫn mẹ, cho nên người ta gọi đây là Viện Giáo Dục Trẻ Mồ Côi. 
- Chúng ta khỏi trả tiền ư? 
- Chúng ta trả chứ, hoặc bạn bè chúng ta trả cho chúng ta, mười lăm bảng một năm. 
- Thế tại sao họ gọi mình là trẻ từ thiện - Họ có nuôi chúng ta đâu? 
- Vì mười lăm bảng chỉ đủ tiền ở và tiền học. Sự thiếu hụt đều do tiền quyên góp đóng bù vào. 
- Ai góp vào cho? 
- Nhiều thành phần trong quận này và ở Luân đôn 
- Naomi Brocklehurst là ai thế? 
- Là bà xây toà nhà mới và con trai bà bây giờ là thủ qũy và quản lý. 
- Vây thì trường không phải của bà đã cho bảo chúng ta phải có bánh mì và phó- mát. 
- Của cô Temple ấy à? Không phải - mình ước gì là của cô ấy. Cô ấy phải trả lời cho ông Brocklehurst tất cả công việc cô làm. Ông ấy mua thực phẩm và áo quần cho chúng ta. Ông ở trong một ngôi nhà lớn cách đây hai dặm. 
- Ông có tốt không? 
- Ông ấy là một mục sư, và người ta bảo ông ấy làm rất nhiều việc. 
- Bồ biết hết tên các giáo viên chứ? 
- Cô phụ trách hôm nay là cô Miller. Có cô Smith, cô dạy may vì tất cả chúng ta phải may lấy áo quần và các thứ. Cô nhỏ con có tóc đen là cô Scatcherd, cô dạy lịch sử và văn phạm. Người trùm khăn là bà Pierrot, bà ta ở Pháp và dạy tiếng Pháp. 
- Bạn có thích các cô giáo không? Bạn có thích cái cô nhỏ tóc đen không? 
- Cô Scatcherd nóng nảy, bạn nhớ đừng xúc phạm đến cô ấy. Bà Pierrot không phải là người xấu. 
Tôi hỏi: 
- Cô Temple tốt nhất , phải không? 
- Cô Temple rất tốt và rất khéo léo. Cô hơn hết thảy vì cô biết rộng hơn tất cả. 
- Bạn ở đây lâu chưa? 
- Hai năm. 
- Bạn mồ côi hả? 
- Mình mất mẹ. 
- Bạn có được hạnh phúc ở đây không? 
Hellen Burns đáp: 
- Bạn hỏi nhiều qúa đấy nhé! Mình đã trả lời cho bạn đầy đủ rồi đấy. Thôi bây giờ mình cần đọc sách nghe. 
Nhưng khi cô ta vừa giới thiệu tên của cô thì chuông reo báo giờ ăn và tất cả chúng tôi đi vào nhà. 
Thực phẩm dọn ra bây giờ cũng không hơn gì bữa điểm tâm. Hai cái thùng thiếc lớn hơi bốc lên tỏa mùi thịt mỡ ôi, chúng tôi nhận khẩu phần trong thùng gồm khoai tây và mấy miếng thịt xỉn màu kỳ lạ nấu chung với nhau. Tôi ăn cái gì có thể ăn được và tự hỏi không biết rồi ngày nào cũng vậy sao. 
Sau bữa ăn chúng tôi trở lại phòng học, tiếp tục học cho đến năm giờ. 

Trong buổi chiều có chuyện đặc biệt duy nhất xảy ra là tôi thấy cô Scatcherd đuổi Hellen Burns ra khỏi lớp học sử. Cô ấy bị ra đứng một mình ở giữa phòng học rộng. Lối phạt xem ra thật khó chịu đối với một cô gái lớn như vậy, cô ta khoảng mười bốn tuổi , nhưng tôi ngạc nhiên khi cô không tỏ ra buồn phiền hay xấu hổ gì hết, khi đứng giữa phòng trước mặt mọi người. 
Tôi tự hỏi :" Tại sao cô ta chịu phạt một cách bình tĩnh và yên lặng như thế? Tôi thì ước chi nền nhà có thể nứt ra để mình có thể chui xuống dưới. Còn cô ấy thì có vẻ như đang suy nghĩ đến điều gì ngoài hình phạt của cô."Đôi mắt cô dán thật chặt xuống nền nhà, nhưng tôi chắc cô không thấy nó, đôi mắt hình như chạy tọt vào trong và nhìn xuống con tim mình. Tôi tin rằng cô đang nhìn thấy cái gì đó mà cô đang nhớ lại. Tôi tự hỏi cô ta là loại con gái như thế nào, ngoan hay là nghịch. 
Không lâu sau năm giờ, chúng tôi lại có bữa ăn gồm một ly cà phê nhỏ và nửa lát bánh mì nâu. Tôi ăn phần ăn của mình với sự thích thú, ước gì tôi cứ có thêm mãi bởi vì tôi vẫn còn đói lắm. 
Nghỉ nửa giờ rồi học lại, rồi lại một bình nước và miếng bánh bột kiều mạch, rồi cầu nguyện và đi ngủ. 
Ngày đầu tiên của tôi ở Lowood là như vậy.


Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3