Tư duy lại tương lai

2
Danh mục sách: 

Tương lai sẽ không còn
giống như những gì mà các nhà kinh doanh vẫn hình dung. Do đó nhất thiết phải
tư duy lại tương lai.

Những nhà lãnh đạo kinh
doanh và những nhà chiến lược kinh doanh nào muốn thành công trong một môi
trường đang biến đổi dữ dội như hiện nay,
không nên bỏ qua quyển sách này!

LỜI NÓI ĐẦU

Từ
thuở bình minh của cuộc cách mạng công nghiệp đến nay, chưa bao giờ các nhà
quản lý lại có nhiều điều phải học (và nhiều điều phải quên đi) như hiện nay và
cũng chưa bao giờ họ lại nhận được những lời khuyên đa dạng và lộn xộn như hiện
nay. Lý do của sự đảo lộn trong tư duy quản lý hiện nay là sự xuất hiện trên
thế giới một “phương thức tạo ra của cải” mới, có tính chất cách mạng. Những
nhà sử học có thể cắt quá khứ ra thành vô số lát nhỏ. Nhưng nếu chỉ tính những
thay đổi có tính chất căn bản thì họ có rất ít điểm ngoặt thực sự quan trọng để
phân kỳ lịch sử, và mỗi điểm ngoặt như vậy đều được gắn liền với một phương
thức riêng biệt trong việc tạo ra của cải.

Sự
thay đổi đầu tiên trong lịch sử của nền văn minh, mà chúng tôi gọi là “Làn sóng
thứ nhất”, là sự phát minh ra nông nghiệp. Phát minh này đã đem lại cho con
người một cách thức mới để biến tài nguyên của đất thành của cải vật chất, được
triển khai ở hầu hết mọi nơi, tạo ra những nền kinh tế nông nghiệp, lấy nông
dân làm trung tâm, cuối cùng đã thay thế cho săn bắn và hái lượm làm phương
tiện chủ yếu để duy trì sự sống của con người.

Tương
tự như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp đã khởi động sự thay đổi của “Làn sóng
thứ hai”, đem lại cho chúng ta phương thức lấy nhà máy làm cơ sở tạo ra của cải
vật chất. Đến lượt nó, phương thức này dẫn đến sự sản xuất hàng loạt trên quy
mô lớn, đòi hỏi phải có những thị trường ngày càng rộng lớn hơn, những doanh nghiệp
ngày càng lớn hơn, và ngày càng quan liêu hơn. Mãi cho đến thời gian gần đây,
hầu hết những điều được dạy trong các sách giáo khoa về quản lý và trong các
trường kinh doanh đều phản ánh cách suy nghĩ của “Làn sóng thứ hai” này.

Dựa
trên những giả định về tuyến tính và trạng thái cân bằng, và được lượng hóa ở
mức độ cao, mô hình (paradigm) chủ đạo về quản lý trong thời kỳ này có thể được
coi như tương ứng với những giả định mang tính máy móc của nền kinh tế học
phương Tây, và với vật lý học Newton. Với niềm tin cho rằng “khoa học” quản lý
hoàn toàn phù hợp với “khoa học” kinh tế, và cả hai “khoa học” này đều thích
hợp với những gì được biết về vật lý học, sự tương ứng nhiều tầng này làm cho
mô hình quản lý công nghiệp trở nên vô cùng thuyết phục.

Thực
vậy, cả ba “tầng” khoa học này đã tạo thành những bộ phận của một hệ thống tư
tưởng mang tính nhận thức luận và triết học thậm chí còn bao quát hơn, vốn được
mô tả ở đâu đó như một “thực tại công nghiệp” (indust-reality), nghĩa là thực
tại được tiếp nhận qua con mắt của những người trưởng thành trong nền văn hóa
công nghiệp. Nói tóm lại, mô hình kinh doanh chủ đạo trong kỷ nguyên của “Làn
sóng thứ hai” là một bộ phận của một kiến trúc tư tưởng rộng lớn hơn nhiều.

Năm
1970, trong quyển Cú sốc tương lai (Future Shock), lần đầu tiên chúng
tôi công khai phê phán mô hình đang thịnh hành này. Trong đó, chúng tôi gợi ý
các doanh nghiệp cần phải không ngừng tự cấu trúc lại và “vượt qua tình trạng
quan liêu”; cần phải thu hẹp hệ thống cấp bậc trong tổ chức của họ và tiếp nhận
tính chất mà chúng tôi gọi là “ad-hocracy” (tính thích hợp với mục tiêu). Lúc
bấy giờ, dường như nhiều độc giả cho rằng các ý kiến của chúng tôi chỉ là để
gây chấn động mà thôi. Chúng tôi cũng có một kinh nghiệm tương tự vào năm 1972,
khi chúng tôi trao một bản phúc trình tư vấn cho công ty AT&T, lúc bấy giờ
là một công ty tư nhân lớn nhất thế giới, trong đó chúng tôi khuyên họ nên chia
nhỏ công ty của họ ra. Nhưng trong nhiều năm sau, người ta đã giấu bản phúc
trình đó đối với chính những cấp quản lý cần biết để họ có thể chuẩn bị cho sự
chia nhỏ. Mười hai năm sau, cuối cùng AT&T cũng phải chia nhỏ công ty của
họ ra, và đó là sự chia nhỏ lớn nhất và đau đớn nhất trong lịch sử. Và đến năm
1980, trong quyển Làn sóng thứ ba (The Third Wave), khi chúng tôi đưa ra
thuật ngữ “de-massification” (phi đại chúng hóa) để mô tả xu thế vượt qua khỏi
lối sản xuất hàng loạt (mass production), phân phối đại trà (mass
distribution), truyền thông đại chúng (mass media) và tính đồng nhất về kinh tế
xã hội, chúng tôi lại bị một số người cho là quá hão huyền.

Chúng
tôi chắc là nhiều tác giả của quyển sách này cũng đã vấp phải một thái độ hoài
nghi tương tự. Lý do rất dễ hiểu: bất cứ ai công kích quá sớm một mô hình đang
thịnh hành tất sẽ bị bộ máy trí thức và kinh viện đang ngự trị nhìn bằng cặp
mắt nghi ngờ. Nhưng các mô hình, kể cả mô hình về quản lý, đâu phải là trường
cửu. Và cái mô thức quản lý của kỷ nguyên công nghiệp, đặc biệt là ở Hoa Kỳ,
đang bị lung lay tận gốc.

Cuộc
cách mạng tri thức (knowledge revolution) của ngày hôm nay, sau khi đem lại sự
thay đổi cực kỳ to lớn về kinh tế, kỹ thuật và xã hội trong “Làn sóng thứ ba”,
đang buộc các doanh nghiệp phải hoạt động theo những cách thức hoàn toàn mới,
không ngừng thay đổi những khái niệm của “Làn sóng thứ hai” còn tồn tại trong
đầu óc họ. Niềm tin của thời đại công nghiệp vào những cái như sự hội nhập theo
chiều dọc, sự cộng lực (synergy), kinh tế quy mô lớn (economies of scale), và
cách tổ chức theo hệ thống cấp bậc, mệnh lệnh-và-kiểm tra, đang phải nhường chỗ
cho sự tán thưởng mới mẻ đối với việc huy động nguồn lực từ bên ngoài, đối với
việc giảm bớt quy mô sản xuất, đối với các trung tâm sinh lợi, các mạng lưới và
các hình thức tổ chức đa dạng khác. Từng ngóc ngách trong lối tư duy của kỷ
nguyên công nghiệp giờ đây đang được xem xét lại kỹ lưỡng và được tu chỉnh lại
một cách mạnh mẽ.

Chính
là trong lúc giao thời, khi hình cũ sụp đổ mà mô hình mới chưa được xác lập,
chúng ta mới có được sự bùng nổ của tư duy sáng tạo. Nay chính là một thời điểm
như vậy và một số tư duy sáng tạo nhất về quản lý của ngày hôm nay đã được phản
ảnh trong quyển sách này.

Cũng
như trong tất cả những tuyển tập nhiều người viết khác, trong tuyển tập này, lẽ
đương nhiên là có một số đóng góp này tốt hơn, mới hơn, hoặc có tính khai phá
hơn một số đóng góp khác. Nhưng nhìn chung thì quyển sách này rất hấp dẫn. Nó
phác họa cho chúng ta một bức tranh về một mô hình kinh doanh mới đang hình
thành.

Điều
còn thiếu trong mô hình này là mối liên hệ chặt chẽ giữa tư duy quản lý của Làn
sóng thứ ba đang nổi lên với kinh tế học của Làn sóng thứ ba. Lý do là nhịp độ
thay đổi của hai lĩnh vực này có khác nhau. Trong khi những nhà lý luận về kinh
doanh và những nhà tư vấn về quản lý như những tác giả của quyển sách này đang
thăm dò nhiều khía cạnh của thực tại kinh doanh mới, và mau chóng trình bày
những phát hiện của mình, thì các nhà kinh tế học, trừ một số ngoại lệ đáng chú
ý, vẫn còn bị giam hãm trong những thành tựu của họ trong quá khứ, ít khi dám
lao vào lãnh địa của “Làn sóng thứ ba”.

Một
ví dụ điển hình của tình trạng bất cập nói trên có liên quan đến tri thức, yếu
tố sản xuất hàng đầu trong phương thức tạo ra của cải mới. Các công ty tư vấn
quản lý đã làm rất nhiều việc để nghiên cứu vấn đề quản lý tri thức (knowledge
management) như định giá tài sản tri thức, những cách tiếp cận mới trong việc
học tập của tổ chức và cá nhân, cố gắng tạo ra một hệ đo lường tri thức. Ngược
lại, hầu hết các nhà kinh tế học chủ đạo lại bỏ qua hoặc coi nhẹ tri thức như
một yếu tố sản xuất.

Trong
khi “lối suy nghĩ xé rào” đang thịnh hành trong giới doanh nhân nhạy bén và các
nhà tư vấn giỏi thì các nhà kinh tế học thường sợ làm như vậy sẽ quá nguy hiểm
cho danh tiếng nghề nghiệp của họ. Kết quả là, kinh tế học của “Làn sóng thứ
ba” vẫn đang còn trong giai đoạn phôi thai và một hệ thống tri thức có thể
thống nhất lý thuyết quản lý với kinh tế học vẫn chưa thành hình. Nhiệm vụ tạo
ra hệ thống đó vẫn còn ở phía trước.

Tuy
nhiên, điều mà những người đang thực hành kinh doanh, cũng như những nhà kinh
tế học và các nhà tư vấn của họ, sẽ cần đến là một mô thức (model) bao quát hơn
về thực tại đang đến của “Làn sóng thứ ba”, không chỉ tập trung vào các vấn đề
kinh tế học và quản lý, mà còn chỉ ra cách thức đáp ứng với những cú sốc xã
hội, công nghệ, chính trị, văn hóa và tôn giáo vốn sẽ xuất hiện rất nhiều trong
những năm sắp tới.

Cần
phải tiên liệu những cú sốc đó, cũng như tác động của chúng đối với công việc
kinh doanh, bởi vì một biến động lớn đột ngột trong một cú sốc nào đó cũng có
thể gây tác hại cho một công ty hay một ngành công nghiệp chẳng khác nào một
thay đổi về kinh tế. Không may là những vấn đề rộng lớn như thế vẫn còn nằm
ngoài cái khung tham chiếu của những nhà nghiên cứu lý thuyết về kinh doanh
cũng như những nhà kinh tế học.

Tuy
nhiên, những tác giả đáng kính của những trang sách này đã cung cấp những bộ
phận khái niệm quan trọng và người ta có thể dùng để dựng nên một mô hình mới
về kinh doanh. Trong sách có nhiều ý tưởng kích thích suy nghĩ, soi sáng, nhiều
câu hỏi bổ ích, nhiều hiểu biết sâu sắc mới mẻ và nhiều cách suy nghĩ khác nhau
về cuộc chiến vừa cạnh tranh vừa hợp tác sắp tới. Khi phương thức tạo ra của
cải của “Làn sóng thứ ba” được triển khai rộng rãi, được đánh dấu bởi sự cạnh
tranh khốc liệt, bởi những cuộc cách mạng công nghệ liên tục, bởi sự xáo trộn
và xung đột xã hội, thì nó sẽ tạo ra một tình trạng không thể đoán trước ở mức
độ cao và những điều kiện phi tuyến tính. Những nhà lãnh đạo kinh doanh và
những nhà chiến lược kinh doanh nào muốn thành công trong một môi trường hỗn
loạn và cách mạng như vậy không nên mạo hiểm bỏ qua quyển sách này.

Alvin và Heidi Toffl

Nhà xuất bản:
Nhà xuất bản Trẻ Tp.HCM, Thời báo Kinh tế Sài gòn, Trung tâm Kinh tế Châu Á -
Thái Bình Dương.

Năm xuất bản:
2002

Thông tin ebook:

Đánh máy (www.thuvien-ebook.com): becon53,
quocvu2k, ttdd

Biên tập (www.thuvien-ebook.com): becon53, ttdd

Chuyển sang ebook (www.thuvien-ebook.com): ttdd

Ngày hoàn thành: 23/9/2007

Nguồn: www.thuvien-ebook.com

Thực hiện bởi

nhóm Biên tập viên Gác Sách:

Sienna – Kem
Dâu
– H.y

(Tìm – Chỉnh
sửa
- Đăng)