Săn đuổi - Chương 21 - Phần 1

CHƯƠNG 21

Chín
phút sau khi Morton gọi đến Danny thì ngôi nhà mật ở Foley nhận được lệnh khẩn,
bản phô tô nhãn hiệu Đêm Hy Lạp và bức hình ghép lại. Lúc ấy đúng bốn giờ mười
hai phút sáng ở Luân Đôn. Còn chưa đầy bốn ngày sẽ hết thời hạn Raza đưa
ra.

Michelle
ngồi trực phòng mật, còn Wolfie đi làm việc lúc nửa khuya.

Đèn
trên máy fax bật sáng. Tướng Yertzin gởi tin cho biết quân "Biệt
kích" của ông đã vào trong núi sâu, đã kiểm soát được nửa tá trại quân của
Mujaheddin và không thấy dấu hiệu của Raza cũng như người của hắn. Thời tiết
rất lạnh khiến cho công việc gặp
nhiều khó khăn.

Sau đó, văn
phòng của Đô đốc Burness fax đến báo cho biết việc liên lạc giữa vệ tinh với
nhóm biệt kích đối phương bị gián đoạn vì trời đang nổi cơn bão tuyết. Vệ tinh
thời tiết của cơ quan NSA bay trên Afghanistan tiên đoán cơn bão kéo dài hai
mươi bốn giờ.

Finel tường
trình những nhân viên câm đang tiếp tục theo dõi những kẻ hợp tác với Raza ở
Nhật và Á châu. Chưa khám phá ra ai cả.

Cụ Gù gởi báo
cáo viết tay cho biết những chuyện viên của ông đã cho biết thời gian những
cuốn băng thu nằm trong khoảng thời gian từ mười cho đến mười bốn ngày mà
thôi.

Michelle xếp
tất cả những tờ báo cáo vào tập hồ sơ của Morton, cùng với những báo cáo khác
của Interpol, của CIA, FBI và hai chục cơ quan cảnh sát khác.

Lệnh khẩn làm
cho chuông trên máy fax reo vang khiến cho Wolfie đang nằm trong phòng ngủ đối
diện với phòng mật giật mình thức dậy. Anh chạy sang vừa lúc tin chạy ra khỏi
máy. Anh đọc tin, chửi thề nho nhỏ khi biết về Costas.

- Hãy giải
quyết cho mau lên thôi. - Michelle nói to, giọng chị thật bất thường. Đấy là
phản ứng của chị khi nghe tin Costas chết.

Wolfie xóa tên
của Morton và Danny trên lệnh khẩn đi, anh thay vào đấy hàng chữ đầu như trên
những lời nhắn gửi đi các cơ quan: "Thượng cấp ở Tel Aviv." Rồi anh
đánh lời nhắn vào máy vi tính cùng ảnh nhãn chai và tấm hình, rồi cho fax đến
máy fax cá nhân của Fuller.

Máy để bên
giường ngủ tại cơ quan của Fuller đóng ở tầng bảy của cơ quan New Scotland
Yard. Lệnh phát ra đã đánh thức anh dậy liền khi mới thiu thiu ngủ sau một ngày
làm việc suốt hai mươi bốn giờ liền.

Fuller vùng
dậy, bật đèn lên. Ông đọc văn bản rồi nhìn vào bức ảnh lờ mờ; thật khó mà phanh
phui cho ra lắm. Ba mươi năm trong nghề cảnh sát đã dạy cho ông bài học là chỉ
nhờ vào may mắn mới tìm cho ra được cái chai như thế này. Mặc dù Morton đã nhất
quyết phải tìm cho người và hành lý, nhưng cái điệu phái người kiểm tra tất cả
những hành khách đến Anh, thì việc tìm ra cái chai quả không phải dễ.

Tại các địa
điểm nhập nội, nhân viên quan thuế đã rải khắp nơi. Nhiều người làm việc gấp
đôi thời gian, một số đã mệt rã rời vì nhiệm vụ. Gay nhất là họ phải đương đầu
với cảnh du khách bực tức vì nhiều biện pháp an ninh làm cho họ chậm trễ chuyến
đi.

Vị trợ lý ủy
viên An ninh Quốc gia nhìn lại bản tin thêm một lần nữa. Tin không nói gì đến
việc chai sẽ được xách tay hết. Chai có thể được khách cất kín vào hành lý lắm
chứ. Vào một ngày bình thường thôi, cũng có đến hai mươi bảy triệu thứ hàng hóa
nhập vào Anh qua đường hàng không và đường thủy. Kiểm tra từng thứ như thế này
sẽ gấy phiền phức cho giới thương mại trong nước lắm. Công việc này phải có
lệnh của cấp chính phủ mới dám làm những việc chưa hề xảy ra như thế này, đó là
chưa kể đến phải có nhiều nhân viên kiểm soát giàu kinh nghiệm đế tiến hành một
cuộc săn lùng như vậy. Đã có nhiều vị Bộ trưởng phản đối phương pháp an ninh gấy
phiền nhiễu như thế rồi.

Rồi sẽ có
chuyện khó khăn đặt ra khi hàng chục triệu chai như thế bị tịch thu. Ngay cả
khi huy động các nhà khoa học và các phòng thí nghiệm để kiểm tra các chai này,
cũng phải mất hàng tuần mới làm xong. Đã có ý kiến đem chúng đốt hết đi. Nhưng
phải đợi cho Bộ Môi trường xác nhận mức độ ô nhiễm có nguy hại không đã, rồi
mới thi hành được. Giấy tờ xong xuôi cũng mất bốn ngày, hết thời gian hạn định
của Raza.

Fuller lại xem
kỹ văn bản. Ông rất nể phục tài năng của Morton. Nhưng việc báo động này là của
ai đấy ở cơ quan Mossad. Ở đấy có người thường suy đoán quá trớn. Bản tin cũng
không nói gì đến việc chai có chứa vi rút bệnh than B.C. Mà cũng không có bằng
chứng gì là chất này đang trên đường đến nước Anh.

Fuller gọi cô
thư ký đang trực, đọc cho cô tóm tắt bức fax, với đầu đề: "Đề nghị thi
hành". Sau khi cô đánh máy xong, ông ghép tờ phô tô cái nhãn chai vào rồi
bảo cô ta mang tất cả đến cho vị sĩ quan cao cấp trực ở Trung tâm Hành quân
Yard.

Vị sĩ quan cao
cấp xem xong liền chuyển qua cho viên phụ tá. - Việc này sẽ làm phiền lòng
nhiều người rồi đấy. - Vị thanh tra tiên đoán. - Vì hải quan sẽ gấy nhiều
chuyện phiền toái mà chúng ta không đủ người để cùng họ duy trì trật tự công
cộng.

- Ai không
biết, chứ Fuller và tôi thì cứ mặc họ. - Vị sĩ quan cao cấp nói. - Cứ xem đấy
như lệnh phải thi hành thôi.

Vị thanh tra
chuyển tờ giấy qua cho một trung sĩ để sao thành nhiều bản với tiêu đề in bằng
chữ đậm màu đỏ:

"Scotland
Yard: Lệnh Thi Hành".

Những bản sao
này cũng đồng thời được fax đến Bộ Nội vụ: Tổng hành dinh cơ quan Mật vụ đóng
tại Tòa Thế kỷ bên kia sống đối diện với lâu đài Westminster; Tổng hành dinh cơ
quan M15 ở Marylebone; đến mười bốn Tổng hành dinh Đội Hình sự Tự trị: đến sở
Quan thuế ở Heathrow, phi trường mới của thành phố Gatwich và Luân Đôn tại
Trung Tâm của vùng Docklands.

Những phi
trường khác thuộc thủ đô, Luton và Stansted, sẽ nhận lệnh của những lực lượng
cảnh sát của khu vực riêng: Bedforshire coi khu phi trường Luton, và cảnh sát ở
Essex Constabulary coi khu vực phi trường Stansted.

Lệnh đến ban
giám đốc phi trường Luton và được chuyển qua cho vị quản lý ban đêm. Đấy là lần
thứ ba vị quản lý này gánh chịu rất nhiều lời ta thán của hành khách vì họ bị
Hải quan kiểm tra nghiêm ngặt quá.

Vị quản lý đã
biết công việc này có liên quan đến bọn khủng bố. Nhưng công việc kiểm soát đã
làm cho người ta cảm thấy quá đáng, đến nỗi không ai muốn trả lời câu hỏi của
ông về chuyện chai lọ hết. Cơ quan Hải quan phi trường tịch thu chai lọ đã chất
đầy cả phòng. Viên quản lý nhìn vào tờ lệnh. Ông thấy đấy là việc ưu tiên hàng
đầu. Ông bèn nhớ đến chuyến bay cuối cùng thuộc phiên trực của ông, chuyến
Britania 16 cất cánh từ Athens.

Chiếc máy bay
bị trục trặc máy móc đã hạ xuống Frankfurt, nên trễ mất bốn giờ. Ông quản lý
nghĩ chắc thế nào cũng có trên hai trăm hành khách mỏi mệt, giận dữ đến Hải
quan. Nếu lục soát chai lọ chắc thế nào cũng làm cho họ lâu thêm, và chắc chắn
là sẽ khiến cho họ phàn nàn thêm nữa. Ông để các tờ lệnh vào đống giấy tờ của
quản lý trong ngày. Ông đã quyết định phải làm gì rồi.

Trong phòng
khách đến cửa phi trường, nhân viên Hải quan đã nhìn kỹ từng hành khách trên
chuyến bay mười sáu. Tâm trạng phổ biến của nhân viên Hải quan là muốn tránh
khỏi thái độ thù nghịch của khách, họ phải hết sức thận trọng trong việc tịch
thu các chai lọ của khách.

Ở dưới căn
phòng chứa đồ tịch thu âm u, những ca làm ban đêm thường do người châu Á hay Ả
Rập đảm nhiệm, vì chỉ có những người này mới muốn làm việc cả đêm để được lãnh
thêm lương.

Một người
trong số này là Saleem Arish. Trong thời gian một năm trời làm việc ở đấy, y
nhận thấy rằng y có thể thu nhập thêm bằng cách ăn cắp. Y rất thành thạo ngón
ăn cắp đồ đạc rồi thu giấu trong người. Y đã tìm được thị trường để bán những
thứ này, đó là trong giới buôn lậu ngày càng gia tăng ở Luân Đôn.

Sáu tháng
trước đấy, một người môi giới đã giới thiệu y với một người đàn ông mà y chỉ
biết tên là Effendi. Hắn đã hỏi Arish rất cặn kẽ những thứ dễ ăn cắp nhất, rồi
hắn hứa trả cho y một trăm bảng Anh hàng tuần để y điện thoại cho hắn hàng ngày
trước khi đi làm trong trường hợp Effendi muốn ăn cắp thứ gì.

Suốt mấy tháng
trời, arish lãnh lương mà không làm gì hết. Thế rồi một tuần trước Effendi yêu
cầu y ăn cắp một chai nước hoa Pháp, rồi giao cho người môi giới ở bãi đỗ xe
trên xa lộ M1 đến Luton.

Nhờ việc này,
y được nhận thêm một trăm bảng nữa. Y làm thêm hai lần nữa và cũng được trả
thêm số tiền như thế.

Anh bạn Ả Rập
của y có cơ thể dị dạng, mặt mày sưng phồng với sống mũi vặn vẹo. Tuy nhiên hắn
lại nói năng rất dịu dàng, có văn hóa. Arish không cần lưu tâm đến anh chàng
này, cũng như không cần biết tại sao Effendi lại trả cho y một số tiền khá cao
như vậy để lấy mấy chai nước hoa mà hắn có thể mua rất dễ dàng trong bất cứ nhà
hàng nào.

Đêm qua khi y
gọi đến thì Effendi nói hắn sẽ trả cho y hai trăm bảng để lấy một trong ba chai
nước hoa mà hắn chắc là đã nằm trong số chai lọ bị tịch thu trên chuyến bay
Britannia 16.

Effendi cẩn
thận miêu tả cho y nhớ hình dáng đặc biệt của chai và bảo Arish nhắc lại nhiều
lần tên trên nhãn chai: Đêm Hy Lạp. Khi đến làm việc, arish đã tình nguyện vác
những cần xé hàng bị sung công. Đấy là công việc quá nhọc nhằn nên chẳng ai
muốn làm.

Vừa đến phòng
Hải quan, cơn giận của Bill Hardman vì chuyến bay đến trễ này lại biến thành
nỗi kinh ngạc khi anh được hướng dẫn vào một phòng kiểm soát nhỏ. Fiona chắc
đang lo lắng không biết anh ở đâu. Nàng chưa hề quen cảnh máy bay thay đổi bất
ngờ như thế này bao giờ. Càng ra khỏi cảnh chậm trễ này nhanh chừng nào tốt
chừng ấy. Một nhân viên Hải quan đứng tuổi đang đứng bên cạnh một dãy giỏ bằng
dấy thép ở trước một vành đai di động chuyện chở hàng hóa để kiểm soát. Bill
cười chào ông ta.

- Lần đầu tiên
tôi bị chặn lại đấy.

- Không phải
chận lại hết, thưa ngài. Cứ hai người tôi kiểm soát một mà thôi.

Người nhân
viên yêu cầu Bill mở hành lý để trên bàn. Bill làm theo. Ông ta thành thạo đưa
tay lần trên những lớp áo quần sắp xếp ngay ngắn.

- Ngài tự thu
xếp áo quần hay sao?

- Vâng.

- Chắc là ngài
có vợ rồi. Chỉ có bà nội tướng mới dạy cho ngài làm công việc như thế này
được.

- Chuyện này
có vẻ bất thường quá, phải không? - Bill hỏi.

Viên sĩ quan
nhìn anh.

- Chúng ta
đang sống trong thời đại bất thường mà, thưa ngài. Chuyện bọn chó đẻ ở Nam Phi
và những khách sạn bị đánh sập đã chứng minh cho chúng ta thấy đấy.

Bill có vẻ
kinh ngạc: - Xin lỗi ông, tôi không biết ông muốn nói gì. Từ ba ngày nay tôi
không đọc báo.

Người sĩ quan
nói cho anh biết chuyện xảy ra ở Trekfontein và những vụ nổ bom ở khách
sạn.

- Lạy Chúa, bấy
giờ tôi mới vỡ lẽ. Xin ngài cứ lục đi.

Người sĩ quan
mỉm cười; Được một hành khách thông cảm cho, quả thật là một điều quý hóa vô
cùng.

- Vậy xin ngài
cho phép tôi xem qua va li, rồi ngài đi thôi.

Bill mở va li ra. Người sĩ quan lấy ra ba chai Đêm Hy Lạp
rồi nhìn Bill.

- Tôi phải giữ lại ba chai này, thưa ngài. Trước hết là
ngài sẽ được bồi hoàn tiền lại, và chúng tôi sẽ tịch thu hết mấy chai này. Vì
số chai này có liên quan đến những việc vừa xảy ra.

Suốt những năm xuôi ngược trên thế giới, bill đã biết rõ
bằng cách duy nhất giải quyết vấn đề với nhân viên hải quan là giữ lễ phép với
họ, nói thật với họ. Cho nên anh đã kể lại tường tận việc anh có mấy chai nước
hoa này. Bill năn nỉ:

- Ông cho tôi giữ lại một chai. Nếu không vợ tôi sẽ không
tin chuyện tôi đem nước hoa về biếu gia đình.

Người sĩ quan lấy lên một chai. Nút chai chưa mở vẫn còn
y nguyên.

- Ông chắc chắn là không ai biết chứ. - Thưa ông?

Bill gật đầu.

- Hoàn toàn không ai biết đâu, thưa ông. Chỉ cho tôi giữ
một chai để biếu vợ tôi mà thôi.

VỊ sĩ quan nhún vai. Ý nghĩ tịch thu chai lọ có lẽ là
sáng kiến của ai đó trong Nhà Trắng. Mục đích làm gì đấy nhỉ? Lại có lời đồn là
chai lọ sẽ đem đốt hủy hết không cho mở nút ra nữa. Đúng là kiểu chơi của Nhà
Trắng.

Viên sĩ quan bèn quyết định: - Thôi được, để lại cho ông
một chai thôi.

Ông ta đưa cho Bill một chai, rồi để hai chai kia vào
chiếc giỏ. Trong lúc Bill đóng va li lại, viên sĩ quan viết trên cuốn sổ phiếu
có hai chai Đêm Hy Lạp tịch thu trên chuyến bay Britannia 16. Ông xé tờ phiếu ở
trên rồi để vào trên hai chai trên giỏ. Khi Bill bước ra khỏi phòng, người nhân
viên để cái giỏ lên đai quay chở hàng.

Trong phòng tịch thu, arish chuyển những giỏ ở trên đai
quay xuống, rồi chất nào là rượu mạnh, rượu vang và nước hoa vào một xe đẩy.
Hai chai Đêm Hy Lạp nhét vào giữa một chai rượu Gin và một chai uýtki và nhiều
chai rượu khác chất quanh lên trên. Sau khi đã quan sát không có ai thấy, arish
nhanh nhẹn bỏ hai chai vào túi. Nhưng y không thấy chai thứ ba.

Y nhìn vào phiếu ghi. Chỉ tịch thu có hai chai. Effendi
chắc đã lầm khi anh ta nói có ba chai. Arish bỏ vào túi tờ phiếu ghi rồi đẩy xe
đi. Y đẩy xe đến tận cuối phòng. Hai người dỡ hàng bèn lấy chai lọ chất lên kệ.
Họ chất theo loại, thấy số chai đúng với số ghi trong phiếu.

Khi hết phiên, arish bước ra khỏi phòng quan thuế!

Bốn mươi phút sau, y lái xe đến bãi xe ở M1, và ngồi đợi
trong xe. Mười phút sau, người Ả Rập gõ vào cửa xe. Trong tay hắn có một phong
bì.

- Anh đã lấy ra ba chai nước hoa cho tôi? - Faruk Kadumi
nói: - Đấy là tiền của anh.

- Chỉ có hai chai thôi. - Arish phân trần. - Chắc là hải
quan đã làm mất chai kia rồi.

Y chìa cái phiếu ghi ra. - Đấy ông xem thì biết.

Faruk Kadumi đọc tờ phiếu ghi rồi hắn nhét vào túi. Hắn
nói:

- Đưa cho tôi hai chai. Tôi vẫn trả đủ cho anh ba
chai.

Việc trao đổi thế là xong xuôi. Faruk Kadumi cứ nhìn vào trong xe. Khẩu súng Browning có gắn
ống hãm thanh nằm trong túi áo hắn. Đã đến lúc phải giết tên ăn cắp vặt khốn
khổ này rồi. Giết ra sao và giết ở đâu, Raza đã giao quyền cho hắn. Chỉ có việc
là phải giết mà thôi, phải do hắn giết chứ không giao cho ai hết. Faruk Kadumi
không mấy lo lắng về chuyện xe cộ qua lại ở đấy. Chỉ cần một phát là đủ.

Nhưng bỗng
lương tâm của một thầy thuốc lâu nay vốn tiềm tàng trong người hắn bừng lên,
làm cho hắn ngần ngại không dám tự thân đóng vai một kẻ sát nhân khát máu. Hắn
suy tính không biết có nên gọi Effendi để nói với hắn tính kế giết tên ăn cắp
này? Nhưng làm như thế lại rất nguy hiểm. Effendi là đại diện cho tập đoàn tu
sĩ Hồi giáo tại nước Anh, là người đã được nhà lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz cử làm
người môi giới của Raza mà. Hắn sẽ kiểm tra xem Raza đã thi hành mệnh lệnh
chưa. Và khi Raza biết Faruk Kadumi không thi hành lệnh hắn, thì mạng sống của
ông ta chắc khó bề thoát khỏi.

Ông ta cứ nhìn
chằm chằm thằng khùng đang toét miệng cười kia. Thế rồi bỗng ông ta quay người
bỏ đi đến chiếc xe của mình.

Nancy ngủ say
sưa trên máy bay từ Athens về New York. Còn một giờ nữa trước khi máy bay hạ
cánh xuống phi trường Kennedy, tiếp viên thông báo nhắc nhở hành khách điền vào
biểu mẫu kê khai Thuế quan H.K, lời thông báo đã đánh thức nàng dậy.

Nancy đã để tờ
biểu mẫu trong cái túi đựng quà xách tay, cùng với hai chai Đêm Hy Lạp. Kiểm
tra lại hàng hóa đã được gói ghém cẩn thận, nàng thấy số hàng đã quá giới hạn
mang theo trên tờ biểu mẫu. Bà già ngồi bên cạnh nàng bèn góp ý:

- Này cưng, cứ
mở ra một hay hai món quà đi. Nói với nhân viên Quan Thuế là mình đang dùng mà.
Rồi cô sẽ gói lại thôi.

Nancy cười cám
ơn bà ta. Bà già nhìn vào túi xách của nàng.

- Mấy chai
nước hoa có vẻ đắt tiền nhỉ. Mở hết ra đi.

Nancy phân
trần nàng phải tuân thủ những điều kiện đã giao kết với những người bán hàng.
Bà già cười âu yếm nói:

- Cưng ơi! Ở
Athens người ta nói gì thì nói, chứ ở đấy, tôi cam đoan với cô là sẽ không có
chuyện yêu cầu không mở nút chai khi qua Hải quan HK đâu. Tôi biết rõ quá mà.
Người chồng quá cố của tôi là một thanh tra hải quan mà. Lạy Chúa ban ơn cho
ông ấy. Cô cứ mở chai ra đi.

Nancy lấy ra
một chai, nàng vào toa lét rửa ráy. Rồi nàng mở nút chai ra, thoa nước hoa vào
gáy, vào sau hai tai. Mùi nước hoa nặng hơn mùi ở chai mẫu nàng đã xức ở Công
trường Hiến pháp.

Đến phi trường
Kennedy, một viên thanh tra hải quan ký vào tờ biểu mẫu của Nancy mà không cần
kiểm tra hành lý.

Ông ta tử tế
nhìn nàng, hỏi nàng có khỏe không. Nàng gật đầu cười với ông. Nhưng thực ra thì
nàng bỗng cảm thấy rất mệt. Da sau cổ, sau tai bắt đầu ngứa ngáy. Chắc là do
nước hoa rồi. Chắc nàng sẽ không dùng lại đâu.

Vali một tay,
túi xách đựng quà một tay, nàng bước ra khỏi Hải quan, đi băng qua phòng đưa
đón để đi taxi về New York.

Muktar Sayeed
đã đứng đợi nhiều giờ rồi, luôn luôn so sánh những khuôn mặt phụ nữ hiện ra với
khuôn mặt người đàn bà chụp cùng Nadine trong bức fax gởi từ Athens đến.

Nadine vẫn
không thay đổi chút nào kể từ những tuần lễ hắn cùng chị học chiến đấu để giết
người trong trại huấn luyện. Nhưng thay vì tham gia cùng những cảm tử quân khác
tấn công vào đất Israel, thì hắn lại được gởi qua Hoa Kỳ để làm việc cho Rachid
Harmoos.

Bước đầu hắn
làm tài xế trong công ty xe taxi Day Nite của Harmoos. Sau đó hắn chuyển sang
làm liên lạc viên, hắn đi khắp vùng để chuyển giao và thu thập tin tức, hàng
hóa nào tối quan trọng không thể gọi qua điện thoại hay gửi qua đường bưu điện
được.

Mấy tuần trước
đấy, hắn được phái tới San Francisco để giết một người. Tên phụ tá thứ nhất của
Harmoos, không chịu trả tiền mua ma túy. Muktar đáp chuyến máy bay buổi sáng đi
từ New York, đáp xe vào thành phố, đâm chết gã đàn ông, rồi bay về vào chuyến
bay buổi chiều.

Bấy giờ Muktar
đang đứng trong phòng đưa đón khách để tìm cách ăn cắp cái túi xách của một phụ
nữ đang đi trước mặt hắn mấy thước. Hắn đã trông thấy nàng ngay từ lúc nàng mới
ra khỏi phòng Hải quan. Đi từng bước dài, vững vàng, cái mũ đen chụp chặt trên
đầu, áo gió kéo dấy kéo lên tận cổ; Muktar để thõng hai tay hai bên. Cặp mắt
hắn thăm dò khoảng cách và nhìn quanh để khi ra tay là thành công liền.

Khi mới bước
vào, hắn thấy có một nhân viên an ninh đang đứng nơi các cánh cửa tự động. Bấy
giờ gã ta đã biến đi đâu rồi. Một dòng hành khách tuôn về phía dãy taxi đậu.
Chỉ có một số ít người cùng với nàng, đi về phía cửa ra xe lớn. Hầu hết họ đều
già cả rồi. Không có vấn đề gì khó khăn. Hắn bắt đầu sải bước, hai tay nắm lại,
rồi thả ra.

Khi Nancy bước
qua cửa, ra lề đường, thì chiếc xe lớn cũng vừa đậu lại. Bỗng nàng cảm thấy có
ai đấm mạnh sau lưng, cú đấm làm cho nàng bổ nhào tới, nằm lăn xuống lề đường.
Cái túi xách trượt khỏi tay Nancy. Nàng thấy một gã đàn ông nắm cái túi xách
quà tặng của nàng bỏ chạy. Hắn chạy quanh sau chiếc xe rồi mất dạng. Có người
la lên. Một cụ già cúi xuống, cố giúp nàng đứng lên. Ông ta cứ nói mãi một
câu.

- Hắn không
lấy va li của cô. Cô không mất. Hắn không lấy va li.

Nhiều người
xúm lại, bàn nhau có nên chở nàng đi nhà thương không. Một người bảo vệ từ
trong phòng đưa đón bước ra, đến bên nàng.

- Cô bình an chứ,
thưa cô?

Nancy gật đầu.
Nàng không thích ồn ào. Nàng chỉ muốn về nhà để ngủ một giấc. Nàng vẫn mệt mỏi
và ngứa ngáy khó chịu. Người bảo vệ giúp Nancy đứng dậy. Khi nghe nàng trình
bày những gì vừa xảy ra, anh ta bèn nói vào điện thoại di động.

- Theo cô gái
cho biết chắc thằng ấy là da đen, hắn đi bộ.

Một nhân viên
trong Ban liên hệ Hải quan hàng không bước đến bên cạnh anh bảo vệ. Anh ta nhìn
Nancy. Nàng đang gãi mạnh lên da thịt. Anh nhân viên tỏ ra có thiện cảm với
nàng. Anh nói:

- Nhiều người
đi máy bay lâu như thế thường bị chứng da khô. Về nhà tắm mát thì sẽ khỏi ngay
thôi. Để cho nhanh, tôi xin được chở cô về nhà.

Nancy cười cám
ơn. Nàng thấy mệt rã rời, lạnh và nhớp nháp trong người. Khi chiếc xe của anh
nhân viên Thuế quan vào địa phận Manhattan, thì Nancy lại càng cảm thấy quá mệt
mỏi. Ê ẩm sau lưng chắc là do cú đấm, nhưng nàng còn cảm thấy những triệu chứng
khác như đau đầu, sốt, đang phát ra mạnh.

Khi chiếc xe
thả nàng xuống số 510 đại lộ Park, thì những triệu chứng trên lại càng nặng hơn.