Săn đuổi - Chương 21 - Phần 2

Băng qua tiền sảnh, nancy cảm thấy người nóng ran, đuối sức và khi thang máy lên đến tầng thứ mười bốn, thì nàng đã run cầm cập. Nàng khó khăn lắm mới mở được cửa căn phòng và lôi va li vào trong và phải gắng hết sức mới đóng cửa lại được.

Cặp mắt nàng đã mờ đi khi cố gắng đọc tờ giấy ghi chép của bà chủ nhà nhét qua khe cửa, tờ giấy báo cho nàng biết bà ta có chuyện khẩn của gia đình ở California, phải về đấy ít ra là một tuần. Tờ giấy mới viết hôm qua.

Nancy bước lê vào phòng, đổ nhào người xuống giường. Nàng quá mệt không còn đủ sức để cởi áo quần ra nữa.

Khi Muktar chạy khuất qua bên kia chiếc xe rồi, hắn bèn thủng thỉnh đi bộ, những người đuổi theo ở bên kia chiếc xe đều không thấy hắn. Hắn đã đậu chiếc xe Day Nite ở cuối dãy xe taxi, gần nơi đậu những chiếc xe hòm của phi trường. Khi hắn lái xe đi, không có tài xế nào ở đấy thèm liếc mắt nhìn hắn. Ở cổng phi trường có hai chiếc xe tuần tra. Nhân viên tuần tra trên xe chặn lại tất cả xe cộ ngoại trừ taxi. Một lính tuần tra vẫy tay cho hắn qua.

Ra đến công trường Connecticut Expressway, Muktar theo lối ra Sweetmont. Mười lăm phút sau, hắn bỏ xa lộ để rẽ vào con đường tư nhân, một tấm bảng khắc hàng chữ "Harmoos" cắm làm mốc ngay đầu đường.

Muktar lái xe suốt một dặm đường băng qua những cánh đồng cỏ, ngựa và bò đang thảnh thơi gặm cỏ, và qua những cánh đồng bắp đang mùa thu hoạch. Hắn lái qua những tòa nhà đầu tiên. Bên phía trái là một nhà trại, nhân viên làm việc trong trang trại sống ở đấy. Có tất cả bốn mươi người, toàn người Ả Rập. Harmoos chỉ dùng người Ả Rập.

Qua khỏi nhà trại là một nhà hàng giải trí, nép mình dưới hàng cấy. Bên ngoài cửa hàng, nhiều xe taxi đang đậu, cũng đều mang huy hiệu Day Nite màu xanh như trên các cánh cửa xe của Muktar vậy.

Hắn lái thêm nửa dặm đường nữa, qua những ruộng ngô rồi đến một trạm kiểm soát. Một người Ả Rập từ trong chòi canh bước ra, vẫy tay cho hắn qua rồi y lại bước vào. Bên hông y đeo một khẩu súng nhỏ.

Chạy thêm một phần tư dặm nữa, hiện ra một vành đai toàn loại cấy tùng bao quanh tòa nhà. Muktar nghĩ đến một ngôi nhà độc nhất giống như ngôi nhà này, đó là Tòa Nhà Trắng Washington. Ngôi nhà của Harmoos cũng có hàng cột chạy trước mặt và có những chái nằm hai bên. Vườn tược và bãi cỏ trải ra theo hình tròn để rồi giáp vào một cánh cổng trước gồm hai cánh cửa khổng lồ. Có điều không giống Tòa Nhà Trắng là cửa sổ ở đấy đều được gắn bằng những cánh cửa chớp bằng sắt.

Khi hắn đậu xe, Muktar thấy một màn cửa di động. Harmoos đã thấy hắn tới. Y đang đợi hắn trong thư phòng.

Bệnh tình của Nancy càng lúc càng nặng. Trên đó năm tầng, Matti đang ngồi bên cạnh Mirian trên chiếc đivăng, anh lắng nghe nàng miêu tả cảnh chết chóc diễn ra suốt ba ngày ở Trung tâm thành phố do những vụ đánh bom khách sạn gấy ra. Chỉ được nghỉ giải lao từng chặp, còn ngoài ra nàng làm việc liên tục không nghỉ ngơi.

- Mười hai giờ đầu tiên thì thật quá tệ. - Nàng kể. - Thật giống một nhà xác. Người ta chết trước khi đưa lên bàn mổ.

Nàng đã mệt đứt hơi, người kiệt sức.

- Nguy kịch nhất là trẻ em. Em đã để chết một lượt ba đứa. Hai bé gái và một bé trai.

- Em làm hết sức mình rồi, Mirian à.

Nàng gục đầu lên vai anh, ngủ ngon lành. Anh ngồi yên một lát, lắng nghe hơi thở đều đặn của nàng. Rồi anh bế nàng vào giường. Nàng không nhúc nhích. Đóng cửa phòng ngủ lại, Matti bước sang phòng mật để kiểm tra lại tên tuổi của những người Ả Rập mà Morton đã gởi đến. Anh viết lập trình cho máy vi tính để tìm xem những liên hệ giữa họ với Rachid Harmoos.

Tiếng động duy nhất trong phòng vang lên là tiếng chiếc ghế xoay kêu ken két dưới sức nặng của Rachid Harmoos khi hắn trở người, chiếc ghế được đặc chế dành riêng cho hắn ngồi.

Hắn đưa mắt nhìn cái túi của Nancy ở trên bàn nằm giữa hắn và Muktar. Hai người đàn ông nữa ngồi trên ghế dựa bọc nệm hai bên Muktar, họ theo dõi từng ánh mắt của Harmoos.

- Anh có chắc là không có ai theo dõi anh không?

- Chắc chắn lắm, thưa ông Harmoos. - Muktar đáp.

Chiếc ghế lại phát ra tiếng kêu ken két khi Harmoos chồm người tới trước đưa tay lấy đồ đạc trong bao ra để trên bàn. Đồ đạc của Nancy chồng thành một đống nhỏ. Hắn lấy một món hàng nắm trong mấy ngón tay múp míp thịt, rồi hắn xé giấy bọc ra. Một con búp bê nhỏ mặc y phục Hy Lạp cổ truyền.

- Khiếu thẩm mỹ của bọn Mỹ thật nghèo nàn. - Hắn thở dài. Giọng hắn nhẹ nhàng so với cơ thể khổng lồ của hắn khiến cho người ta phải ngạc nhiên. Ngay cả bộ đồ đo cắt may thật khéo cũng không che kín được cơ thể phì nộn của hắn. Trên áo quần hắn, rất nhiều chỗ căng ra. Thịt bự trên hai má, trên cổ và những túi mỡ thụng dưới hai mắt.

- Nuri này, có cần theo dõi cái con này không?

Harmoos nhìn anh chàng Ả Rập còn trẻ, anh chàng này có vẻ là một tay cướp đường. Hắn đáp:

- Tôi đã kiểm tra đầy đủ rồi. Cô ta là giáo viên trung học. Cô ta không dính dáng gì đến những chuyện xảy ra ở Athens đâu khi bị mất cái túi xách. Tôi không lo gì về cô ta cả, ông Harmoos à.

- Tốt lắm, nuri.

Harmoos vứt con búp bê vào sọt rác để ở sau bàn. Hắn vẫn nhìn anh chàng phụ tá. Hắn lại thở dài rồi nói:

- Tất nhiên là chúng ta chẳng biết phải làm gì khi con này đã mở cái chai ra rồi, Nuri à. Giá mà thiên hạ làm theo những gì họ được dặn dò nhỉ!

Cả ba người đều nhìn Harmoos. Thế rồi với một động tác nhanh nhẹn, gọn ghẽ không ngờ, hắn lùa hết những món quà của Nancy vào thùng rác.

- Những thứ như thế này nhìn thêm gai mắt. - Hắn lẩm bẩm nói. Hắn liếc nhìn quanh căn phòng làm việc ốp gỗ sồi của hắn. Hai bức tường đều kê kệ sách chất đầy cả sách hiếm về thế giới Hồi giáo. Trên những bức tường khác treo nhiều bức tranh nguyên bản của Matisse, picasso và Turner.

Harmoos quay qua người đàn ông cao gầy ngồi bên trái Muktar. Mặt ông ta trông buồn bã. Cặp kính gọng đồi mồi dày cộm xệ xuống trên sống mũi. Ismail là một nhà hóa học Ai Cập được phái đi nghiên cứu học hỏi thêm một năm tại trường Đại học Quốc gia New York. Học phí và chi phí ăn ở do tập đoàn tu sĩ Hồi giáo đài thọ.

- Ông đã có đủ các thứ rồi chứ?

- Đủ, thưa ông Harmoos. Nhưng tôi không thể bắt đầu được cho đến khi các chai đã hoàn toàn đông đặc. Phải cần năm giờ nữa mới đạt được nhiệt độ yêu cầu.

- Rất tốt, Ismail. Ông nhớ cho là vị lãnh đạo Hồi giáo tin tưởng vào ông đấy.

Ismail cười nhạt.

- Dù sao thì Đức Ông cũng không phải là nhà khoa học. Đấy là một công việc hết sức tế nhị.

Harmoos nhìn ông ta, cười khoái trá.

- Bởi thế ông mới được chọn.

Hắn gãi tai, miệng vẫn cười toe toét, rồi hắn ngồi dựa ngửa người ra, hai tay đặt lên bụng. Hắn nhìn một tờ giấy ở trên bàn rồi ngồi yên trầm tư một hồi. Thế rồi hắn gật đầu, cái đầu thật bự, hắn nhìn mọi người. Mấy người đàn ông đều đứng dậy. Khi họ bước ra cửa, Harmoos ra dấu cho Nuri ở nán lại. Sau khi cửa đóng, harmoos buồn bã lắc đầu.

- Cũng tội cho Muktar. Tôi thấy thích hắn rồi.

- Tôi đã suy nghĩ chọn được người thay hắn rồi. - Nuri nói.

Harmoos lấy tờ giấy lên. Đó là lệnh của Raza buộc kẻ nào hoạt động ở phần ngoại vi sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ đều phải bị thủ tiêu ngay.

- Khi nào đấy? - Harmoos hỏi, hắn để tờ giấy xuống.

- Khi hắn ra khỏi đấy. - Nuri đáp. - Xe hắn đã được gài chất nổ để xem như là bị tai nạn mà thôi.

- Sẽ không có gì khó khăn với cơ quan bảo hiểm chứ?

- Dạ không. Họ đều đền bù hết.

Harmoos cười, cái bụng hắn rung lên. - Rất tốt, Nuri. Tôi cũng ít khi thu được lợi khi làm việc cho Raza. Tôi sẽ không fax cho ông ấy để trả lời mọi việc đã bình an vô sự. - Bỗng hắn sa sầm mặt lại. - Ismail cũng làm cho tôi lo lắng, Nuri à. Tôi thấy hắn ta có vẻ bối rối lắm. Khi hắn làm xong việc, thanh toán nhanh đi thôi.

Nuri gật đầu rồi bước ra khỏi phòng.

Trong căn hộ trang bị đồ đạc sơ sài ở phía Tấy Luân Đôn, nơi thường dùng làm chỗ ở cho đám lính của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo khi họ có công việc tại nước Anh, Faruk Kadumi cứ ngần ngại mãi trên bức fax mà ông ta thảo để đánh đi cho Raza. Thêm một lần nữa, ông ta để bút xuống trên xấp giấy và ra đứng ở cửa sổ.

Ông có nên báo cáo chỉ có hai chai thôi không? Nhưng nếu thế thì thế nào Raza cũng hỏi Effendi, và sẽ tìm ra tên ăn cắp vẫn còn sống.

Mặc dù cửa đều lót hai lần kính, nhưng tiếng xe cộ ồn ào ở bên dưới đường Great West vẫn vọng lên rất ồn ào. Thật khó mà tập trung tư tưởng cho được. Tuy nhiên, ông biết không thể nào trì hoãn được nữa. Chỉ còn mười lăm phút nữa là đến giờ phải phát đi theo dự trù đã ấn định trước.

Ông lại quay vào nhà bếp. Vì ông đã biến nhà bếp thành một phòng thí nghiệm dã chiến cho nên các màn che cửa đều kéo lại kín mít. Hầu hết quầy bếp dùng nấu ăn đều chất đầy cả ống nghiệm và chai lọ đựng muối, hắn ta đã mua ở cửa hàng cung cấp dụng cụ y tế tại Soho.

Bộ áo quần chống ô nhiễm của quân đội Anh hắn mua được ở một cửa hàng bán áo quần nhà binh, treo ở sau cửa. Sau chiến tranh vùng Vịnh, những thứ này đã trở thành đồ kỷ niệm bán rất chạy. Trong cái tủ ở trên bồn nước rửa có một cái hộp đựng giầy, bên trong để khẩu súng Browning. Khẩu súng chờ đợi hắn khi thằng ấy đến.

Bên cạnh cái hộp là chai ê-te cuối cùng. Chắc hắn phải mua thêm nhiều hơn. Hít hơi này mới làm cho thần kinh hắn dịu bớt, khi quanh hắn, trong cái thành phố thù nghịch này đâu đâu cũng có cảnh sát. Ngày nào còn ở lại đấy là ngày ấy hắn cảm thấy mối nguy bị phát hiện càng lúc càng tăng.

Faruk Kadumi mở nắp chai, đưa miệng chai vào mũi. Hắn hít từ từ để cho hơi ngấm dần vào óc. Hắn cảm thấy choáng váng một lát. Rồi hắn cảm thấy một cảm giác ấm áp dễ chịu tỏa khắp người. Vặn nút chai lại, hắn bèn quyết định. Dù sao đi nữa, thì việc trước mắt, là hắn phải quyết định dứt khoát.

Hắn mở tủ lạnh ở trong góc bếp ra. Cả hai chai nước hoa đều bọc đầy nước đá chung quanh. Hắn kiểm tra nhiệt kế. Một giờ nữa thì bắt đầu được. Hắn đóng tủ lạnh, trở về bàn ngồi viết. Khi viết xong, hắn đọc lại. Hài lòng, hắn đem tờ giấy đến máy fax kê trên một cái tủ để bát đĩa, hắn bấm số máy đến Li Bi.

Khi Mirian thức dậy, Matti dẫn nàng đi ăn sáng tại quán cà phê ở góc khu phố. Khi trở về nhà, Matti trông thấy một lao công trong tòa nhà chạy ra lề đường, vẫy tay lia lịa gọi hai người. Anh chàng này là người Mễ, khi họ đến gần anh ta, anh la ơi ới. "Muy Malo", rồi chỉ tay vào tiền sảnh.

Matti nhận ra người phụ nữ đang nằm co rúm nửa trong nửa ngoài ở cầu thang máy. Hai người bèn chạy vội đến, băng qua tiền sảnh, vừa chạy Matti vừa nói:

- Nancy Carson, giáo viên trung học. Thuê lại phòng của một góa phụ.

Nàng nhìn anh:

- Anh đều có hồ sơ tất cả những người ở trong khu phố này ư?

Anh cười xòa. Mặt Nancy trắng bệch, ướt đẫm mồ hôi. Anh lao công cứ luôn mồm phân trần nào là cô Carson gọi điện thoại xuống, cho biết cô bệnh nặng. Rồi anh chạy lên phòng cô... Anh tuôn chạy ra đường, hy vọng gặp ông Talim và bà bác sĩ...

- Anh gọi xe cứu thương đi. - Mirian ra lệnh cho anh lao công khi hai người đến chỗ Nancy quỵ xuống.

- Chúng ta đưa cô ấy đến chỗ êm ái hơn. - Matti đề nghị, vừa chỉ một chiếc đivăng kê trong tiền sảnh.

Mirian lắc đầu. - Có thể chị ta đã bị chấn thương gì trong người rồi đấy. - Nàng quỳ xuống bên chị. - Cái gì thế?

- Bệnh... cần một bác sĩ... bệnh nặng... - Nancy thều thào.

- Tôi là bác sĩ đấy. Cho tôi biết đau ở đâu, nancy. - Mirian nói.

- Đau khắp người.

Mặc dù đã mặc một cái áo khoác dày ngoài chiếc áo dài mùa đông, nhưng Nancy vẫn run lập cập.

- Đau ở đâu nhiều nhất, nancy?

Một cơn ho dữ dội như muốn làm vỡ lồng ngực của Nancy ra, rồi lại cơn ho khác... Những cơn ho dài, dữ dội. Mirian vừa bắt mạch cho chị, vừa nhìn kỹ vào người Nancy. Thật khó định bệnh. Những cơn ho vẫn tiếp tục.

- Cô như thế này đã lâu chưa, Nancy?

- Hôm qua... - Một cơn ho khác ngắt lời cô. - ... Càng tệ ra... - Cô ta rán ngồi dậy. - ... suốt thời gian...

Nancy lại nằm xuống nền nhà, bơ phờ.

Mirian để ý thấy những nốt mụn đen nhỏ trên cổ và sau hai tai của Nancy. Trên hai chân và hai tay cũng có. Có thể bọ chét cắn rồi sinh ra lở loét chăng, hay là do giống vật gì có nọc độc châm chích đấy. Nhưng không có dấu vết gì rõ ràng hết. Nancy cũng không có vẻ là người để cho nệm giường chứa đầy cả rệp rận.

- Giúp... Vui lòng... giúp tôi.

Nói chưa hết câu, một cơn ho khác lại kéo đến. Đờm dãi có dính máu chảy ra bên khóe miệng. Matti lấy trong túi ra cái khăn tay đưa cho Mirian. Nàng lau miệng cho Nancy.

Hơi thớ khò khè của Nancy chứng tỏ trong phổi nàng có nhiều nước. Mirian bèn nhẹ nhàng hỏi:

- Cô đi nghỉ hè ở đâu, Nancy?

- Hy Lạp... mới về hôm qu... a...

Một cơn ho dữ dội khác nổi lên, tuông ra đờm dãi có nhiều mủ quanh miệng Nancy.

- Trước khi nghỉ hè cô không bệnh hoạn gì chứ?

Nàng lắc đầu nhè nhẹ, nàng quá mệt không nói nên lời.

- Cô ở Hy Lạp bao lâu?

Nancy cố đưa lên hai ngón tay làm dấu.

- Hai ngày à?

Nancy lắc đầu, lại ho dữ dội.

- Hai tuần à?

Nancy gật đầu.

Mirian cố nhớ những bệnh truyền nhiễm nhiệt đới nàng đã học. Bệnh sốt nặng do uống sữa dê bị nhiễm trùng ở Hy Lạp là bệnh phổ biến nhất. Thời gian mắc bệnh từ năm đến hai mươi mốt ngày, nhưng bệnh nhân không ho. Bệnh thương hàn cũng lâu như thế, cũng sốt dữ dội như thế, nhưng cũng không ho. Bệnh sốt do ruồi nhỏ gấy ra hay là bệnh sốt vàng da nguy hiểm đấy, nhưng bệnh nhân không khạc ra đờm dãi nhiều mủ như thế. Mirian chưa bao giờ gặp một trường hợp như thế này.

- Khi đi nghỉ hè, có con gì đốt cô không?

Nancy cố lắc đầu. Một cơn ho khác vang cả tiền sảnh.

Mirian nói với Matti: - Anh cho gọi xe cứu thương đi.

Anh chạy đến bên bàn của Ban bảo vệ, trong khi ấy thì Mirian vẫn quỳ bên cạnh Nancy, nắm tay cô, lau miệng cho cô. Nàng không thể làm gì hơn nữa. Nàng đành quan sát thôi. Chắc là bệnh do Amib gấy ra, bệnh sốt rét cũng thế. Nhưng bệnh nhân không ho dữ dội như thế này hay là khạc ra mủ như thế này. Bệnh đậu mùa, bệnh thương hàn, hay là bất cứ những bệnh sốt nào khác cũng không có triệu chứng như thế này.

Một cơn ho khác nổi lên, đờm dãi tuôn ra miệng Nancy. Cô ta run lẩy bẩy, vừa khi đó xe cứu thương đến. Anh lao công chạy đến giúp nhân viên y tế đẩy xe chở Nancy ra xe cấp cứu. Anh la lên bai bải: "Madre de Dios!"