Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Phần I - Chương 04 phần 1

CHƯƠNG 4

ĐÁNH CẮP NÀNG HELEN XINH ĐẸP

Thời gian hạnh phúc không kéo dài
lâu và đó là quy luật của cuộc sống, cuộc sống ban tặng cho chúng ta nhiều điều
tốt đẹp nhưng cũng không để cho chúng ta sở hữu chúng mãi mãi. Telemachus vẫn
chỉ là một đứa trẻ cần sự chăm sóc của mẹ, sự dạy bảo của cha và thời gian đó
chiế xuất hiện. Đây là một cuộc chiến lớn, hào hùng, vĩ đại được cả thế giới
biết tới và gây được tiếng vang cho đến tận thời điểm này khi chúng ta đang
ngồi đọc những câu chuyện thú vị này. Đã có biết bao truyền thuyết nói về cuộc
chiến tranh này bởi đó là một cuộc chiến để giành giật một người con gái đẹp.

Ở vùng biển xa xôi nằm ở phía đông
nước Hy Lạp là vương quốc giàu có của vua Priam. Thành phố trong vương quốc của
ông được gọi là thành Troy hay Ilios, nằm trên một ngọn đồi gần bờ biển. Đây
cũng là quê hương của những eo biển Hellespont nối liền châu Á và châu Âu.
Thành Troy là một thành phố lớn được bao bọc bởi những bức tường cao lớn, vững
chắc và cho đến tận ngày nay những di tích của chúng vẫn còn tồn tại. Thường
thì những ông vua sẽ yêu cầu những lái buôn đi qua eo biển này nộp thuế, họ có
đồng minh ở Thrace, một phần của châu Âu đối diện với thành Troy. Priam là
người đứng đầu trong số các hoàng tử ở các vương quốc ven biển nằm kế cận vương
quốc của ông, còn Agamemnon là vua đứng đầu ở Hi Lạp. Priam sở hữu nhiều đồ vật
tuyệt đẹp: ông có một cây nho bằng vàng với lá và cành bằng vàng, chàng cũng là
chủ sở hữu của những chú ngựa chạy nhanh nhất cả nước. Ngoài ra, những người
con trai của ông rất khoẻ mạnh và dũng cảm trong đó Hector là hoàng tử khoẻ
mạnh và dũng cảm nhất, còn vị hoàng tử trẻ nhất và đẹp trai nhất có tên là
Paris. Rất nhiều người ganh tị với những gì vua Priam đang có, chính vì vậy có
một số kẻ xấu xa luôn tìm cách lật đổ ông để chiếm đoạt vương quốc thinh vượng
của ông.

Có một lời tiên tri nói rằng vợ
của Priam sẽ sinh ra một cây đuốc đang cháy, vì vậy khi Paris ra đời, Priam cử
một người hầu cận mang đứa trẻ vào rừng sâu trên đỉnh Ida và để cậu ở đó cho
chó sói và mèo rừng ăn thịt. Theo mệnh lệnh tối cao của đức vua, người hầu kia
mang đứa trẻ vào rừng và bỏ cậu bé lại nhưng may mắn thay một người chăn cừu đã
tìm thấy cậu b và mang cậu bé về nuôi. Cậu bé lớn lên trở thành một chàng trai
tuyệt đẹp, có thể nói Helen là cô gái xinh đẹp nhất thế giới thì Paris là chàng
trai đẹp nhất thế gian. Bên cạnh đó, chàng còn là người chạy nhanh nhất, là thợ
săn thú giỏi nhất và là tay cung số một trên đất nước này. Thật không hiểu tại
sao mà cha của Paris nỡ lòng ruồng bỏ một đứa con tuyệt vời như thế chỉ vì một
lời tiên tri không biết là thật hay giả. Lớn lên, Paris luôn nghĩ mình chỉ là
con trai của người chăn cừu bình thường nhưng với những gì thượng đế ban tặng,
có rất nhiều người yêu mến chàng. Ngay cả nữ thần rừng Oenone xinh đẹp cũng đem
lòng si mê chàng trai trẻ và muốn lấy chàng làm chồng. Oenone sống trong một
hang sâu giữa các khu rừng của Ida và có thể nói nàng cũng thuộc giới thần tiên
sống bất tử. Người Hy Lạp và người dân sống trong thành Troy tin rằng các nữ
thần rừng xinh đẹp có mặt ở khắp mọi nơi trong các khu rừng, các ngọn núi và
các giếng khơi. Họ xây dựng cho mình những lâu đài bằng pha lê tuyệt đẹp giống
như những nàng tiên cá sống trong lòng đại dương bao la. Những nàng tiên này
không nghịch ngợm mà rất nhẹ nhàng và nhân hậu. Họ luôn tìm cách giúp đỡ mọi
người và không bao giờ có ý định ám hại bất cứ ai. Cũng có trường hợp, họ cưới
chồng là con người trần tục và Oenone là một trong số những trường hợp như vậy.
Nàng cưới Paris và hi vọng sẽ giữ chàng ở bên mình cho đến cuối đời. Nàng dành
trọn tình yêu thương của mình cho chàng, sẵn sàng làm mọi việc để chồng mình
vui.

Mọi người nói rằng nữ thần rừng
Oenone có sức mạnh thần kì có thể hàn gắn vết thương của con người. Tuy nhiên,
sức mạnh của nàng chỉ có tác dụng khi những người muốn nàng cứu giúp bị thương
và đau đớn thật sự. Paris và Oenone sống rất hạnh phúc bên nhau trong rừng sâu
dù cuộc sống của họ bình dị và đơn giản. Tuy nhiên, một ngày kia khi đám tuỳ
tùng của vua Priam đuổi một con bò trong đàn gia súc của Paris ra khỏi đàn,
chàng rời khỏi những khu đồi trên núi xuống đồng bằng để tìm kiếm và vô tình
đến thành Troy - nơi lẽ ra là quê hương của chàng. Hecuba, mẹ của Paris nhìn
thấy chàng liền chăm chăm nhìn chàng. Bà nhận chiếc vòng mà khi cậu con
trai của bà mới sinh bà đã đeo cho cậu. Hecuba đã tuyệt vọng, đau khổ như thế
nào khi cậu con trai nhỏ của mình bị mang đi và trong lòng luôn đau đáu một
điều sẽ có thể gặp được cậu một lần nữa. Bây giờ thì lòng mong mỏi của bà đã
thành hiện thực. Bà cứ nhìn chàng trai trẻ với ánh mắt đầy yêu thương, bà biết
rằng đó chính là con trai của mình. Không cần nói thì ai cũng có thể hiểu được
tâm trạng của một bà mẹ phải xa con mình ngần ấy năm trời, không được chăm sóc
nó, ở bên cạnh nó khi nó tập đi, biết nói. Bà xúc động rơi nước mắt, hạnh phúc
đến nỗi quên hết tất cả về lời tiên tri về cây đuốc cháy. Về phần mình, vua
Priam cũng rất vui mừng khi nhìn thấy cậu con đẹp trai của mình, ông ban cho
chàng một ngôi nhà giống như anh em trai của chàng - những hoàng tử thành Troy.

Tin đồn về nàng công chúa Helen
xinh đẹp lan đến thành Troy, Paris gần như quên mất nàng Oenome bất hạnh đang
chờ đợi mình trong rừng. Chàng chỉ nghĩ rằng mình cần phải đến tận nơi để gặp
mặt nàng công chúa sắc nước hương trời này. Có lẽ chàng cũng muốn lấy được nàng
làm vợ trước khi nàng rơi vào tay người khác. Tuy nhiên, vào thời đó mọi người
hiểu rất ít về đường biển. Nếu ai đó quyết định đi bằng đường biển thì họ
thường mất hàng năm trời để hoàn tất chuyến đi của mình mặc dù lẽ ra quãng
đường đi không tốn của họ nhiều thời gian đến như vậy. Thường thì họ sẽ bị lạc
đến Ai Cập, châu Phi và đi vào những vùng biển chưa ai biết đến, nơi các nàng
tiên sống trong một hòn đảo bị bỏ bùa mê và những kẻ ăn thịt người sống trong
những hang động trên đồi cao. Rất ít người hoàn thành chuyến đi của mình một
cách suôn sẻ, để tới được đích, họ phải trải qua một vài sự kiện mà nếu kể ra
thì ai nấy đều rất thích thú khi lắng nghe.

Paris cũng
không phải là ngoại lệ. Chàng đến quá muộn để có cơ hội cưới được nàng Helen,
tuy nhiên chàng quyết tâm bằng mọi giá sẽ nhìn thấy nàng. Vì vậy chàng đi thẳng
đến lâu đài nơi nàng đang sống ở dưới ngọn núi Taygetus, bên cạnh dòng sông
chảy xiết có tên là Eurotas. Những người phục vụ trong lâu đài chạy ra ngoài
đại sảnh khi nghe thấy tiếng vó ngựa và tiếng bánh xe. Một số người lái xe ngựa
ra tận cổng thành, chặn xe của Paris lại và đưa chàng vào bên trong sảnh. Đại
sảnh trong lâu đài sáng chói bởi vàng, bạc và những món đồ trang sức quý giá.
Sau đó, Paris và đám tuỳ tùng của chàng được dẫn đi tắm rửa, tẩy sạch bụi đường
và thay những trang phục mới làm bằng vải trắng và những chiếc áo choàng có màu
đỏ tía. Ngày hôm sau, họ được đưa đến gặp vua Menelaus và đức vua chào đón
Paris cùng đoàn tuỳ tùng của chàng một cách nồng hậu. Đức vua mời Paris ăn
thịt, uống rượu bằng những chiếc chén vàng. Đây là nghi thức dành cho khách
quý. Trong khi họ đang nói chuyện rất vui vẻ, Helen từ trong phòng bước ra.
Trông nàng giống như một nữ thần tuyệt đẹp, theo sau là đám nữ tì nâng đuôi váy
dài có màu tím nhạt rất đẹp. Paris thành thật kể chàng đã vượt qua một quãng
đường dài như thế nào chỉ để được nhìn thấy người phụ nữ có sắc đẹp tuyệt trần
này.

Paris hiểu rằng chàng sẽ không bao giờ có cơ hội được gặp và nhìn thấy
một phụ nữ đáng yêu, duyên đáng và quyến rũ như Helen. Về phần mình, nàng ngồi
đó, những giọt ngọc đỏ rơi xuống từ viên đá quý màu đỏ có tên là Ngôi sao và
biến mất, nàng cũng hiểu rằng trong số tất cả các vị hoàng tử trên thế giới này
không ai đẹp trai giống như người đàn ông đang ngồi đối diện nàng. Một số người
đã nói rằng bằng sức mạnh mê hoặc, Paris đã làm cho vua Menelaus mê muội và rủ
nàng Helen đi theo mình. Nghĩ rằng Paris mới thực sự là chồng mình (vì nàng
đang bị thôi miên), Helen đồng ý đi theo chàng hoàng tử đẹp trai, bỏ lại
Menelaus và đứa con gái nhỏ xinh đẹp có tên là Hermione ở lại lâu đài tráng lệ.
Cũng có người nói rằng các vị Thần đã đưa Helen đến nước Ai Cập và tạo ra một
con ma giống hệt như hình dáng bên ngoài của Helen từ hoa lá và những đám mây
trên trời cao. Chàng Paris đẹp trai quay trở về thành Troy và họ đã gây ra một
cuộc chiến tranh đẫm máu giữa nước Hy Lạp và thành Troy. Cũng có một câu chuyện
khác kể rằng khi vua Menelaus đi vào rừng săn bắn, Helen, người tì nữ thân cận
của nàng và toàn bộ số nữ trang nàng có đã bị cướp đi. Trong số những câu
chuyện trên, không biết câu chuyện nào là thật, câu chuyện nào chỉ là tin đồn
nhưng chúng ta có thể khẳng định được một điều là Paris và Helen có đi cùng nhau
trên biển, còn Menelaus cùng cô con gái nhỏ Hermione bị bỏ lại trong lâu đài
tuy rộng lớn nhưng đầy u uất cạnh Eurotas. Chúng ta cũng biết rõ một điều là
nàng Penelope không giải thích bất cứ điều gì về hành động của cô em họ xinh
đẹp mà chỉ căm ghét nàng ta và coi nàng ta là nguyên nhân của biết bao điều bất
hạnh mà nàng phải gánh chịu cùng cái chết của hàng ngàn người đàn ông trong
chiến tranh. Tất cả các vị hoàng tử phải thực hiện lời thề của mình là tham gia
vào cuộc chiến cùng Menelaus chống lại bất cứ kẻ nào làm chàng bị tổn thương và
cướp vợ chàng đi. Lời thề là cái gì đó hết sức thiêng liêng, và một khi ai đó
đã thề nguyền thì bằng giá nào cũng phải cố gắng thực hiện. Mọi người cho rằng,
các vị thần ở trên cao luôn theo dõi tất cả những người sống dưới mặt đất và
trừng phạt họ nếu họ không thực hiện lời thề thiêng liêng của mình. Sống trong
sự xa hoa của thành Troy nhưng Helen cũng không hề cảm thấy hạnh phúc. Nàng tự
nguyền rủa mình vì đã hành động hết sức ngu ngốc, vì đã bỏ người chồng và đứa con
gái nhỏ của mình để chạy theo một người không thuộc về nàng. Những phụ nữ khác
và đặc biệt là nữ thần Oenone - người yêu Paris say đắm rất căm ghét nàng bởi
nàng chính là kẻ khiến chồng con họ phải miễn cưỡng tham gia vào cuộc chiến vô
nghĩa. Tuy nhiên, những đấng mày râu lại luôn hết lòng, hết sức với nàng công
chúa xinh đẹp này. Họ quyết tâm chiến đấu đến khi chết còn hơn vĩnh viễn mất
đi, vĩnh viễn không có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt trần của nàng. Chính vì
vậy, biết bao nhiêu người đàn ông đã phải từ biệt gia đình, từ biệt mái ấm thân
yêu của mình để tham dự vào cuộc chiến tranh giành lại người đẹp.

Tin về hành động xỉ nhục vua Menelaus đã lan tới
khắp các vương quốc trên đất nước Hi Lạp. Tất cả các hoàng tử vượt ngàn đường
xa lao đến giống như những cơn gió xoáy băng qua những khu rừng sâu, những ngọn
núi cao và vùng biển bao la để đến vương quốc của Menelaus, đứng trong hàng ngũ
của chàng để chiến đấu giành lại nàng Helen. Tin tức lan đến phía đông, phía
tây, phía nam và phía bắc; đến những ông vua sống trong những lâu đài xinh xắn
trên đồi cao, bên cạnh những dòng sông hiền hoà và trên những vách đá dựng đứng
trê biển. Tiếng gào thét về việc Helen bị cướp cũng đến tận bộ tộc Nestor râu
trắng ở Pylos, những người đã cai trị loài người trong hai thế hệ, những người
đã chiến đấu chống lại những tộc người hoang dã trên những ngọn núi cao và họ
không bao giờ quên chàng dũng sĩ khoẻ mạnh Herachle và Eurytus với những chiếc
cung màu đen đã hát vang những bài hát oai hùng trước ngày xảy ra trận đánh.

Tiếng thét
vang lên từ vua Agamemnon có bộ râu rậm rạp và đen bóng trong thành phố hùng
mạnh của chàng được gọi là "Mycenae vàng" bởi vì đó là một thành phố
rất giàu có, trù phú. Tiếng hét của chàng đến được với mọi người ở Thisbe, nơi
có những chú chim bồ câu hoang dã sinh sống và đến được vùng đất Pytho hiểm
trở, quê hương của đền thờ thần Apollo thiêng liêng và nữ thần đã đưa ra lời
tiên tri. Tiếng hét oai hùng đó cũng đến tai chàng Ajax cao lớn và khoẻ mạnh
nhất đang sống trên hòn đảo nhỏ Salamis và chàng Diomedes - chiến binh dũng cảm
nhất trong số những chiến binh. Lời triệu tập cũng băng qua những hòn đảo ở
phía Tây và đến Ithaca nơi Ulysses đang sinh sống hạnh phúc với vợ con. Thậm
chí nó còn đến được hòn đảo lớn Crete, quê hương của hàng trăm thành phố, nơi
vua Idomeneus đang cai trị ở Knossos. Phần đổ nát của lâu đài của Idomeneus vẫn
còn lại cho đến tận ngày nay. Nếu bạn có dịp đến đó thăm quan thì bạn sẽ nhìn
thấy ngai vàng của đức vua và những bức tranh được vẽ rất tinh xảo trên tường,
tấm chắn gió bằng vàng và bạc của đức vua, hàng trăm tấm thẻ bằng đất sét trên
đó có ghi danh sách tài sản của hoàng gia. Tin tức cũng đến được phía bắc xa
xôi nơi thần dân của vua Peleus sinh sống, tuy nhiên, đức vua đã quá già không
thể tham chiến nên cậu con trai của ông là Achilles, người đang sống trên hòn
đảo Scyros xa xôi trong trang phục của một thiếu nữ sẽ phải tham gia cuộc chiến
thay cha mình. Rất nhiều thành phố và vương quốc khác cũng được thông báo về
cuộc chiến tranh sắp xảy ra, bởi các hoàng tử hiểu rằng danh dự và lời thề của
họ buộc họ phải cầm giáo, cầm tên và chuẩn bị mọi thứ cần thiết, sẵn sàng tham
gia vào cuộc chiến tranh trong đó người hưởng lợi không phải là bản thân họ. Họ
tạm thời từ bỏ công việc thường nhật của mình để đến gặp vua Agamemnon trong
bến cảng Aulis, sau đó sẽ bơi dọc theo biển cả bao la để cập bến thành Troy. Đó
là lịch trình ai cũng biết được và dù không muốn, họ vẫn phải tham gia và cuộc
chiến.

Có câu
chuyện kể rằng Ulysses không muốn rời khỏi hòn đảo của mình, không muốn rời xa
nàng Penelope dịu dàng và cậu con trai nhỏ Telemachus, trong khi đó, Penelope
cũng không muốn chồng mình bị nguy hiểm, không muốn chàng nhìn thấy cô em họ
Helen xinh đẹp. Vì vậy một số người kể lại rằng khi có hai hoàng tử đến triệu
tập Ulysses, chàng đã giả vờ bị điên và dẫn một chú bò to khoẻ đi cày trên bãi
cát. Chàng hi vọng làm thế mình sẽ không phải đi và những hoàng tử còn lại sẽ
thông cảm cho chàng vì chàng đang bị bệnh. Tuy nhiên, hoàng tử Palamedes không
tin rằng chàng bị điên thật nên đã tìm cách thử chàng. Chàng giật lấy cậu bé
Telemachus từ tay vú nuôi và đặt cậu trên rãnh nhỏ nơi mũi cày sẽ đâm thẳng vào
thân thể nhỏ bé của cậu và giết chết cậu. Tuy nhiên Ulysses đã lái đường cày ra
hướng khác và họ hét lên rằng chàng không bị điên mà hoàn toàn bình thường.
Chàng buộc phải giữ lời thề là tham gia vào đoàn quân đến Aulis. Đây quả là một
chuyến đi dài đối với chàng, chàng phải vượt qua vùng biển Cape đầy gió bão của
Maleia.

Dù câu chuyện trên đây là thật hay không thì
Ulysses vẫn đi và không ai dám nói rằng chàng là một kẻ hèn nhát. Chàng dẫn đầu
mười hai chiếc thuyền đen với những chiếc mỏ treo trên cột buồm cao sơn màu đỏ
trông thật hùng dũng. Chàng đã rất lưu luyến khi phải từ biệt vợ con, chàng
biết rằng như vậy vợ chàng sẽ phải rất vất vả mới có thể chèo chống được mọi
việc trên đảo. Ulysses ra đi với tâm trạng buồn rười rượi. Những chiếc thuyền
trong đoàn của chàng có mái chèo và những chiến binh là người điều khiển chúng,
họ chỉ chèo thuyền khi nào không có gió. Có một boong cao ở cuối mỗi con
thuyền, trên những boong này, mọi người đứng chiến đấu với nhau nếu xảy ra
chiến tranh trên biển. Mỗi thuyền chỉ có một cột buồm với cánh buồm rộng để đón
gió, mỏ neo chỉ là những hòn đá nặng nối với dây cáp. Tất cả mọi thứ đều hết
sức đơn giản nhưng chỉ cần như vậy thôi cũng đủ để phục vụ mục đích sử dụng vào
thời bấy giờ. Thông thường thì vào ban đêm họ đáp lên đất liền và ngủ trên một
trong số những hòn đảo trên đường đi. Họ luôn cố gắng đi gần bờ bởi ai nấy đều
sợ rằng nếu họ đi ra xa sẽ bị lạc lúc nào không biết và nếu có chuyện gì xảy ra
sẽ không kịp cập vào bờ. Thật khó có thể tưởng tượng được hình ảnh của những
chiếc thuyền chiến do Ulysses điều khiển nhưng rõ ràng trái tim của chàng luôn
hướng về hòn đảo nhỏ Ithaca của mình.

Hạm đội
bao gồm hơn một nghìn con thuyền, mỗi con thuyền bao gồm năm mươi chiến binh,
chính vì vậy tính ra có khoảng hơn năm mươi ngàn người cùng tham gia trận chiến
đấu. Chỉ riêng Agamemnon đã có một trăm chiếc thuyền. Diomedes có tám mươi
chiếc. Menelaus có sáu mươi chiếc thuyền có thể tham gia chiến trận; còn Ajax
và Ulysses vì họ chỉ sống trên những hòn đảo nhỏ nên mỗi người chỉ có mười hai
chiếc thuyền. Bù lại, Ajax rất dũng cảm và khoẻ mạnh, còn Ulysses thì cũng r
gan dạ và khôn ngoan, hai người bọn họ đứng trong hàng ngũ những vị chỉ huy và
tham vấn được tin tưởng nhất của Agamemnnon, cùng với Menelaus, Diomedes,
Idomeneus, Nestor, Menestheus đến từ Athé và hai hoặc ba người nữa. Những người
này luôn được chỉ huy tin cậy, giao phó những nhiệm vụ hết sức quan trọng. Họ
được trịnh trọng gọi là Hội đồng, chuyên đóng góp ý kiến và đưa ra những lời
khuyên sáng suốt cho Agamemnon, vị chỉ huy tối cao của toàn bộ lực lượng quân
đội lần này. Công bằng mà nói thì Agamemnon là một chiến binh dũng cảm nhưng
lúc nào chàng cũng lo lắng và sợ hãi sẽ không thể bảo toàn mạng sống cho binh
lính của mình. Nhiều lúc chàng tỏ ra lo lắng quá mức đến nỗi Ulysses và
Diomedes buộc phải nói nặng lời với chàng. Về phần mình, Agamemnon đồng thời
cũng là người khôn ngoan và tham lam. Dù cho những người khác có đứng lên chỉ
trích chàng, nhưng nếu họ nói đúng chàng sẵn sàng xin lỗi họ bởi chàng sợ rằng
nếu một vị chỉ huy bị thương thì người đó sẽ rút ra khỏi danh sách những người
tham chiến và mang theo binh lính của mình quay trở về quê hương. Nếu trường
hợp đó xảy ra thì lực lượng của chàng sẽ bị suy giảm và cơ hội dành chiến thắng
cũng theo đó mà giảm đi.

Nestor
được mọi người kính trọng bởi vì ông vẫn rất dũng cảm gan dạ tuy ông đã quá già
và không còn hữu ích trong chiến trận. Kinh nghiệm và bao nhiêu năm từng trải
đã rèn giũa cho ông một tinh thần thép, một ý chí sắt đá một sự điềm tĩnh và
khôn ngoan khiến người khác không khỏi ngưỡng mộ. Ông luôn cố gắng dàn hoà khi
các hoàng tử cãi nhau với Agamemnon, giải thích cho họ điều hay lẽ phải và hậu
quả sẽ xảy ra nếu họ tiếp tục cư xử với nhau theo cách đó. Ông rất thích kể
những câu chuyện dài về những hành động dũng cảm và vĩ đại của ông hồi ông còn
trẻ, ông mong muốn những vị chỉ huy sẽ chiến đấu theo lối truyền thống ngày
xưa. Có thể nói Nestor chính là người cha tinh thần của các hoàng tử.

Chẳng hạn
như, trong thời kỳ người dân Hy Lạp chiến đấu trong các bộ tộc, những người chỉ
huy hoàng tử hay người đứng đầu không bao giờ xuống ngựa trong chiến trận mà họ
trực tiếp đánh nhau với kẻ thù trên xe ngựa. Nhưng bây giờ chủ nhân của những
chiếc xe ngựa lại chiến đấu bằng chính đôi chân của mình. Nestor mong muốn sẽ
quay trở lại thời xưa và chiến đấu theo cách mà ông vẫn thường chiến đấu bởi
theo ông trước kia mọi người rất quân tử và không ai có ý định chạy trốn một
mình, bỏ lại đồng đội lại phía sau. Nhìn chung, ông chính là một hình mẫu lí
tưởng của một người lính cổ. Ông không sợ chết, nhưng quan niệm nếu có thể bảo
toàn được mạng sống thì hãy cố gắng làm điều đó. Nếu ta giữ được mạng sống thì
ta có thể làm được rất nhiều điều khác có ích cho những người xung quanh và cho
chính bản thân ta.