Ánh sáng phương Bắc (Tập 1) - Phần I - Chương 06

Chương 6: Những chiếc bẫy

Cô nhanh chóng đi xa con sông, vì bờ đê rất rộng rãi và sáng sủa. Giữa nơi đây và viện Bắc cựcHoàng gia, nơi duy nhất Lyra chắc chắn mình có thể tìm thấy là những con đường rối rắm, giờ thì cô đang vội vã đi trong mê cung đêm tối.

Giá mà cô cũng thông thuộc London như Oxford! Nếu thế cô có thể biết đường nào cần tránh, hay chỗ nào cô có thể xoáy chút đồ ăn, hơn cả là cánh cửa nào có thể gõ và xin trú nhờ. Trong đêm lạnh đó, những con hẻm tràn đầy bóng tối xung quanh đang sống động với sự chuyển động và đời sống bí mật của nó, cô chẳng biết điều gì trong số đó.

Pantalaimon biến thành một con mèo hoang dã dò xét bóng tối xung quanh với đôi mắt trongsuốt. Nó thường xuyên dừng lại, xù lông, Lyra có thể núp vào một gần đó. Đêm ngập tràn âm thanh: những tiếng cười vỡ òa của đám người say rượu, hay tiếng khàn khàn đang vang lên từ một tầng hầm. Lyra cẩn thận đi qua tất cả, các giác quan của cô căng ra và hòa vào cùng giác quan của Pantalaimon trong bống tối đầy ắp những con hẻm chật hẹp.

Rất nhiều lần cô phải băng qua một con đường rộng sáng hơn, nơi những chiếc xe điện kêu leng keng dưới những sợi cáp anbaric. Có những quy định khi qua đường tại London, nhưng cô không quan tâm, và khi có ai đó la lên, cô chạy trốn thật nhanh.

Thật sung sướng vì lại được tự do. Cô biết rằng Pantalaimon lúc đó đang đi trên móng vuốt mèo hoang, cũng cảm nhận được niềm vui giống cô khi được ở trong bầu không khí bên ngoài, dù là màn không khí âm u đầy sương khói và âm thanh lanh lảnh chói tai. Rồi sẽ đến lúc họ phải suy nghĩ về ý nghĩa của những điều đã nghe được trong nhà bà Coulter, nhưng chưa phải lúc này. Cuối cùng, sẽ đến lúc họ phải tìm một nơi đẻ ngủ.

Tại một ngã tư gần một cửa hàng bách hóa lớn, nơi những khung cửa sổ chiếu sáng rực rỡ hắt ánh sáng ra vỉa hè ẩm ướt, có một cửa hàng cà phê: một túp lều có bánh xe để một quầy hàng dưới một gờ hiên bằng gỗ. Ánh đèn vàng hắt sáng từ bên trong và hương cà phê tỏa ra. Ông chủ cửa hàng mặc áo khoác trắng đang lau chùi quầy hàng và nói chuyện với vài người khách.

Thật là hấp dẫn! Lyra đã đi bộ được một tiếng đồng hồ. Ngoài trời thật lạnh lẽo và ẩm ướt, Cùng Pantalaimon trong hình dáng con vẹt, cô đi vào quầy hàng vàng chân để người chủ chú ý.

“Cho cháu một tách cà phê và một bánh kẹp nhé,” cô nói.

“Cháu vào hàng muộn quá, cháu yêu.” Người đàn ông đội mũ chóp cao và quấn khăn quàng cổ lụa trắng nói với cô.

“Vâng” cô nói, quay mặt khỏi ông ta để quan sát ngã tư đông đúc. Nhà hát gần đó vừa kết thúc buổi diễn, mọi người đang đi lại loanh quanh trong phòng chờ, gọi xe ngựa, choàng áo khoác lên vai. Theo một hướng khác là lối vào ga xe lửa ngầm, nơi mọi người đang túa ra, đi lên đi xuống tấp lập.

“Của cháu đây, nhóc.” Người đàn ông bán cà phê nói. “Hai si-linh.”

“Để tôi trả tiền cho,” người đàn ông đội mũ chóp cao nói.

Lyra nghĩ, tại sao lại không? Mình có thể chạy nhanh hơn ông ta, và mình sẽ cần tất cả số tiền mình có vào việc sau này. Người đàn ông đội mũ thả một đồng xu lên quầy hàng và cúi xuống mỉm cười với cô. Nhân tinh của ông ta là một con vượn cáo. Nó đang treo người trên ve áo ông, tròn mắt nhìn Lyra.

Cô cắn một miếng bánh và tiếp tục quan sát đường phố đông đúc. Cô không biết mình đang ở đâu, vì cô chưa bao giờ xem bản đồ London, thậm chí cô còn không biết nó lớn đến đâu và mình cần đi bao xa để ra ngoại thành.

“Tên cháu là gì?” ông ta hỏi.

“Alice.”

“Đó là một cái tên đáng yêu. Để ta cho một giọt này vào cà phê của cháu… Cho cháu ấm người lên…”

Ông ta đang mở nút một chiếc chai bẹt đựng rượu bằng bạc.

“Cháu không thích thế,” Lyra nói. “Cháu chỉ thích cà phê thôi.”

“Ta cá là cháu chưa từng uống rượu brandy kiểu này trước đây.”

“Cháu đã uống rồi, và cháu đã bị say lê lết. Cháu uống sạch cả một chai hay gần như vậy.”

“Tùy ý cháu thôi,” người đàn ông nói, nghiêng chai rượu vào cốc cà phê của mình. “Cháu đang đi đâu vậy, lại có một mình thế này?”

“Đi gặp cha cháu.”

“Thế ông ấy là ai?”

“Ông ấy là một kẻ giết người.”

“Ông ấy sao cơ?”

“Cháu đã nói rồi, ông ấy là một kẻ giết người. Đó là nghề của ông ấy. Đêm nay ông ấy đang làm một phi vụ. Cháu có đem theo quần áo sạch cho ông ấy đây, vì cả người ông ấy thường đầm đìa máu khi ông ấy làm xong việc.”

“À cháu đang đùa ta rồi.”

“Cháu không đùa.”

Con Vượn cáo thốt ra những tiếng meo meo khe khẽ vừ từ trèo lên phía sau đầu người đàn ông và nhìn cô chằm chằm.

“Chúc ngủ ngon,” cô nói. “Cháu có thể thấy bố cháu đang đến. Trông ông ấy hơi giận dữ.”

Người đàn ông đội mũ chóp cao liếc nhìn quanh, Lyra bước về phía đám đông tại nhà hát. Cô mong muốn được nhìn thấy đường xe lửa ngầm biết bao (bà Coulter nói nó không được xây dựng cho những người thuộc giai cấp của họ). Cô cũng rất sợ sẽ bị bắt ở dưới đó. Tốt hơn là nên ở ngoài, nơi cô có thể chạy nếu buộc phải vậy.

Cô lại tiếp tục đi, những đại lộ trở nên tối hơn và vắng vẻ hơn. Trời đang mưa phùn, nhưng dù không có đám mây nào, bầu trời thành phố cũng quá ảm đạm với những á đèn để có thể nhìn thấy những ngôi sao. Pantalaimon nghĩ rằng họ đang đi về hướng Bắc, nhưng cả hai đều không thể chắc chắn về điều này.

Những đại lộ dài bất tận hai bên là những căn nhà gạch giống hệt nhau, với những mảnh vườn chỉ đủ lớn để đặt thùng rác. Những nhà máy lớn tồi tàn phía sau hàng rào thép gai, với một chiếc đèn anbaric treo trên tường cao và một người bảo vệ đêm đang ngáy ngon lành bên cạnh chiếc lò than. Thỉnh thoảng có một nhà nguyện dáng vẻ sầu thảm, trông chẳng khác nhà kho là mấy. Mỗi khi thử gõ cửa một trong những nơi đó, cô chỉ nghe thấy tiếng rền rĩ trong bóng tối.

“Chúng mình đi đâu để ngủ bây giờ, Pan?” Cô hỏi khi họ lê bước xuột con phố toàn những dãy cửa hàng đã đóng cửa.

“Sẽ có một lối đi nào đó.”

“Nhưng mình không muốn bị bắt gặp. Ở đây trống trải lắm.”

“Dưới kia có một con sông…”

Nó đang nhìn sang bên trái xuống một con đường. Không nghi ngờ gì nữa, những vệt sáng lấp lánh cho thấy một vùng nước, và khi họ cẩn thận đến gần để nhìn, họ thấy một con kênh nhỏ có hơn chục chiếc thuyền mui đang buộc bên bờ. Mấy chiếc đang ở cao trên mặt nước, mấy chiếc thấp hơn và đã được chất hàng dưới những chiếc cần cẩu trông như giá treo cổ. Một ánh đèn tù mù chiếu sang khung cửa sổ một túp lều gỗ, mùi khói tỏa ra từ ống khói kim loại. Bến tàu đầy những thù gỗ tròn, những cuộn dây cáp.

Lyra nhón chân lên và nhìn qua khung cửa sổ căn lều. Một ông già đang chăm chú đọc một trang truyện tranh và hút tẩu thuốc, con nhân tinh giống chó Tây Ban Nha cuộn tròn ngủ trên bàn. Khi cô nhìn vào, người đàn ông đứng dậy và mang một chiếc ấm đun nước muội bám đen từ chiếc lò sắt và đổ ít nước nóng vào một chiếc chén vại đã nứt trước khi lại ngồi xuống với tờ báo của mình.

“Chúng ta có nên xin ông ta cho vào nhà không, Pan?” Cô thì thầm, nhưng nó không chú ý. Nó đang trong hình dáng một con dơi, rồi một con cú, rồi lại thành con mèo hoang. Cô nhìn khắp xung quanh, bắt gặp sự hoang mang của nó, cùng một lúc, cả hai nhìn thấy hai người đàn ông chạy về phía cô, từ hai phía, người gần hơn cầm một chiếc bẫy ném.

Pantalaimon thốt ra một tiếng kêu hốt hoảng và trong hình hài một con báo, nó lao đến của người đàn ông gần hơn, một con cáo trông rất hung tợn, xô mạnh vào chân sau nó khiến nó vướng vào chân người đàn ông. Ông ta chửi thề rồi đứng tránh sang bên, Lyra thừa cơ chạy xuống khoảng trống của bến tàu. Cô không thể đứng im chờ chết được.

Pantalaimon giờ là một con đại bàng, xà xuống bên cô và hét. “Bên trái! Bên trái!”

Cô chạy chệch theo hướng đó, thấy một khe trống giữa những thùng than và một chiếc thùng kim loại, cô lao vào đó như một viên đạn.

Nhưng chiếc bẫy ném đã lao đến!

Cô nghe thấy một tiếng rít trong không khí, sát má cô có gì đó quật vào đau nhói, những sợi dây bôi hắc ín ghê tởm trùm qua mặt cô, cánh tay cô, hai bàn tay cô bị kéo giật và trùm chặt lấy cô. Cô ngã xuống, gào thét, khóc lóc, và giãy giụa trong tuyệt vọng.

“Pan! Pan!”

Nhưng con nhân tinh cáo đang xé con mèo Pantalaimon, Lyra cảm thấy chính mình đang đau đớn, cô bật khóc to khi nó ngã xuống. Một gã đàn ông đang buộc chặt sợi dây thừng xung quanh người cô, quanh tay chân, cổ họng, đầu, lăn đi lăn lại cô trên nền đất ẩm. Cô không thể cầu cứu sự giúp đỡ, giống hệt như một con ruồi bị con nhện chộp được. Pantalaimon đau đớn tội nghiệp đang căng mình ra để chạy về phía cô, con nhân tinh cáo đang chặn trên lưng, nó không còn chút sức lực nào để xoay chuyển tình thế. Gã đàn ông còn lại đang nằm trên vũng nước, với một mũi tên xuyên qua họng.

Mọi chuyện như ngừng lại khi gã đang buộc chiếc bẫy nhìn thấy bạn mình.

Pantalaimon đứng lên và chớp mắt, rồi sau đó là tiếng rơi ngã, rồi gã đàn ông ngống ngang qua người Lyra, thở khò khè và mồm há hốc. Cô hét lên vì sợ hãi, má phụt ra từ người gã.

Những bước chân đang chạy, ai đó kéo người đàn ông đi, rồi một cánh tay khác nhấc Lyra lên, một con dao lách vào và kéo những vòng dây đứt dần, cô giằng chúng ra, phun phì phì và lao đến bên Pantalaimon.

Vừa quỳ, cô vừa quay ra nhìn những người mới đến. Ba người đàn ông trong bóng tối, một người cầm cung tên, hai người còn lại cầm dao găm. Khi cô quay ra, người đàn ông cầm cung tên thốt lên:

“Kia không phải Lyra sao?”

Một giọng nói rất quen, nhưng cô không thể nhớ ra cho đến khi anh ta bước về phía cô và ánh sáng chiếu vào khuôn mặt cùng con nhân tinh diều hâu trên vai anh. Giờ thì cô nhận ra rồi. Một người Gypsy Oxford thật sự.

“Tôi là Tony Costa,” anh ta nói. “Cô có nhớ không? Cô thường chơi với em trai Billy của tôi trên những chiếc thuyền ở Jericho, trước khi bọn Gà trống tây bắt cóc nó.”

“Ôi, Chúa ơi, Pan, chúng ta an toàn rồi!” cô khóc thổn thức, nhưng sau đó một ý nghĩ lướt qua trong tâm trí cô: cô đã tấn công chính thuyền của nhà Costa hôm đó. Nhỡ anh ta vẫn nhớ thì sao?

“Tốt nhất là cô đi cùng chúng tôi,” anh nói. “Cô chỉ có một mình đúng không?”

“Vâng, tôi đang chạy trốn…”

“Được rồi, đừng nói gì bây giờ. Chỉ cần im lặng được. Jaxer, hãy kéo những cái xác này vào chỗ khuất. Kerim, trông chừng xung quanh.”

Lyra run rẩy đứng lên, ôm Pantalaimon — mèo hoang vào ngực. Nó đang quay xung quanh tìmkiếm thứ gì đó. Cô nhìn theo ánh mắt nó, hiểu ý và ngay lập tức tò mò: điều gì đã xảy ra với con nhân tinh của những người chết kia? Chúng đã tan biến, đó chính là câu trả lời. Chúng tan ra và biến mất như những hạt cát hay bụi khói, vì chúng cố gắng luôn theo sát chủ mình. Pantalaimon nhắm mắt lại, Lyra hối hả chạy theo sau Tony Costa.

“Anh làm gì ở đây vậy?”

“Im lặng nào cô bé, đã có quá đủ rắc rối rồi, đừng khuấy động thêm nữa. Chúng ta sẽ nói chuyện trên thuyền.”

Anh dẫn cô đi qua một chiếc cầu gỗ nhỏ dẫn vào giữa con kênh. Hai người con trai kia lặng lẽ đi theo sau họ. Tony đi dọc bến tàu và đến một cầu tàu, từ đó anh bước lên một chiếc thuyền hẹp và mở cánh cửa vào cabin.

“Vào đi.” Anh nói. “Nhanh lên nào.”

Lyra làm theo, đập tay vào chiếc túi (cô chưa bao giờ rời nó, ngay cả khi nằm trong bẫy) để chắc chắn chiếc Chân-kế vẫn còn. Trong chiếc cabin hẹp và dài, với ánh đèn dầu treo trên chiếc móc, cô nhìn thấy một người phụ nữ to béo khỏe mạnh tóc muối tiêu, ngồi bên một chiếc bàn cùng một tờ giấy. Lyra nhận đó là mẹ của Billy.

“Ai thế này?” người phụ nữ nói “Không phải Lyra đấy chứ?”

“Đúng cô ấy đấy. Mẹ, chúng ta phải rời đi thôi. Chúng con đã giết hai người đàn ông trên kênh, chúng con nghĩ là bọn Gà trống tây, nhưng con đoán chúng là bọn lái buôn Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng bắt Lyra. Đừng nói chuyện gì hết. Chúng ta sẽ nói trong khi đi.”

“Đến đây nào cô bé,” mẹ Costa nói.

Lyra làm theo, nửa vui sướng, nửa sợ hãi vì Mẹ Costa có hai bàn tay to khỏe, giờ cô đã chắc chắn: đây chính là con thuyền cô đã tấn công cùng Roger và đám đàn em của mình. Nhưng bà mẹ đặt tay lên hai bên đầu Lyra. Và con nhân tinh của bà, một con chó lớn màu xám rất giống sói, nhẹ nhàng cúi xuống liếm chiếc đầu mèo hoang của Pantalaimon. Rồi mẹ Costa vòng cánh tay to lớn của mình quanh người Lyra, ôm chặt cô vào lòng

“Ta không biết cháu đang làm gì ở đây, nhưng trông cháu kiệt sức rồi. Cháu có thể nghỉ ở chỗ của Billy, ta sẽ mang nước nóng vào cho cháu ngay. Hãy ở lại đây, cô bé.”

Có vẻ như tội lỗi của cô đã được tha thứ, hay ít nhất là đã bị lãng quên. Lyra nằm soài người trên tấm ghế dài bọc vải phía sau một chiếc bàn bằng gỗ thông đánh bóng khi tiếng máy khẽ gầm lên làm rung động con thuyền.

“Chúng ta sẽ đi đâu vậy?”

Mẹ Costa đã đặt một chảo sữa lên chiếc lò sắt và gạt chiếc vỉ lò để khơi ngọn lửa cháy to hơn.

“Đi khỏi đây, bây giờ thì không nói gì hết. Sáng mai chúng ta sẽ nói chuyện.”

Bà không nói gì nữa, đưa cho Lyra một cốc sữa sau khi đã hâm nóng và đi lên boong khi con thuyền bắt đầu dời bến, thỉnh thoảng bà lại thì thầm trao đổi với mấy người con trai. Lyra uống từng ngụm sữa và nhấc một góc tấm mà che để nhìn bến tàu tối đen lùi về phía sau. Mấy phút sau cô đã ngủ ngon lành.

Cô thức giấc trong một chiếc giường hẹp, phía dưới là biển cả đang khẽ rì rầm êm đềm. Cô ngồi lên, vỗ đầu, nhăn nhó, nghe ngóng xung quanh và thận trọng đứng dậy. Một ánh đèn màu xám hẹp chỉ cho cô thấy ba chiếc giường ngủ nữa, chiếc nào cũng xếp ngăn nắp và không có người nằm, một chiếc phía dưới giường cô nằm, hai chiếc khác kê ngang căn phòng bé xíu. Cô lăn sang một bên và nhận ra mình đang mặc đồ lót. Cô thấy váy và áo khoác da sói của mình gấp để ở cuối giường cùng chiếc túi du lịch của cô. Chiếc Chân-kế còn nguyên đó.

Cô nhanh chóng mặc quần áo, đi ra cửa và thấy mình trong cabin có chiếc bếp lò, trong đó ấm áp, không có ai cả. Qua những khung cửa sổ, cô nhìn thấy hai bên thuyền là một màn sương dày đặc, thỉnh thoảng lại có những bóng sẫm màu có thể là nhà cửa hoặc cây cối.

Trước khi cô ra ngoài lên boong, cửa bật mở ra mẹ Costa đi xuống, mình quấn áo choàng may bằng vải tuýt, trên đó những giọt sương bám vào như hàng ngàn viên ngọc trai bé xíu.

“Ngủ ngon không?” bà hỏi, với tay lấy chiếc chảo rán. “Giờ thì ngồi sang một bên để ta nấu cho cháu chút gì ăn sáng. Đừng đi lại lung tung, không có chỗ đâu.”

“Chúng ta đang ở đâu vậy?” Lyra hỏi.

“Trên dòng kênh Đại Hội Tụ, đừng có ra ngoài nhé, cô bé. Ta không muốn thấy cháu trên nóc thuyền đâu, sẽ rắc rối đấy.”

Bà thái hai miếng thịt lợn muối xông khói cho vào chảo và đập một quả trứng vào.

“Rắc rối thế nào ạ?”

“Không có gì chúng ta không đương đầu được, nếu cháu ngoan ngoãn nghe lời.”

Bà không nói gì thêm nữa cho đến khi Lyra ăn sáng. Có lúc con thuyền đi chậm lại, có gì đó va chạm vào mạn thuyền, cô nghe giọng những người con trai vang lên giận dữ; rồi có ai đó đùa tếu làm họ bật cười. Những giọng người xa dần, con thuyền tiếp tục tiến về phía trước.

Lúc này Tony Costa đang đi xuống cabin. Giống như mẹ Costa, người anh bám đầy những giọt sương như ngọc trai, anh treo chiếc mũ len phía trên lò nấu để hạt sương rơi xuống và khô đi.

“Chúng ta sẽ nói với cô ấy chuyện gì, Mẹ?”

“Hỏi trước, nói sau.”

Anh đổ một ít cà phê vào một chiếc cốc thiếc và ngồi xuống. Anh là một người con trai khỏe mạnh với khuôn mặt đen sạm. Giờ đây khi nhìn anh dưới ánh sáng ban ngày, Lyra thấy gương mặt anh có những nét quyết liệt và u buồn.

“Đúng vậy” anh nói, “giờ cô hãy nói cho chúng tôi biết cô đang làm gì ở London, Lyra. Chúng tôi đưa cô xuống đây khi cô đang bị bọn Gà trống tây bắt cóc.”

“Tôi đang sống cùng một quý bà, vâng…”

Lyra vụng về cắp vá câu chuyện của mình và sắp xếp nó theo thứ tự như thể cô đang xếp một bộ bài trước khi chơi. Cô kể cho họ tất cả mọi chuyện, trừ về chiếc Chân-kế.

“Và rồi trong bữa tiệc cocktail đêm hôm qua, tôi phát hiện ra điều họ thực sự đang làm. Chính bà Coulter là một trong số bọn Gà trống tây, bà ấy sắp sử dụng tôi để bắt thêm những đứa trẻ khácđiều họ làm là…”

Mẹ Costa ra khỏi cabin và đi lên buồng lái. Tony đợi đến khi cánh cửa đóng lại rồi tiếp tục nói:

“Chúng tôi biết họ làm gì. Ít nhất, chúng tôi cũng biết một phần. Chúng tôi biết bọn trẻ sẽ không trở lại. Bọn trẻ con bị đưa lên miền Bắc, một nơi rất hẻo lánh, và người ta làm thí nghiệm trên người chúng. Lúc đầu chúng tôi đoán họ thử nghiệm những loại bệnh và thuốc lạ, nhưng không có lý do gì để bắt đầu tất cả những việc đó đột ngột hai hay ba năm về trước. Rồi chúng tôi nghĩ về bọn Tartar, có thể họ có những vụ trao đổi bí mật nào đó. Người Tartar muốn tiến càng sâu về phía Bắc càng tốt, vì ở đó có những mỏ than và mỏ khí, lại có những lời đồn về chiến tranh từ lâu trước khi xuất hiện bọn Gà trống tây. Và chúng tôi đoán bọn Gà trống tây đang mua chuộc những tù trưởng Tartar bằng cách cung cấp trẻ con cho họ, vì người Tartar ăn thịt trẻ con, đúng vậy không? Họ nướng trẻ con lên và ăn thịt chúng.”

“Họ không bao giờ làm vậy đâu!” Lyra nói.

“Họ làm vậy đấy. Còn rất nhiều điều khác nữa có thể kể cho cô nghe. Cô đã bao giờ nghe lũ Nalkainen chưa?”

Lyra trả lời:

“Chưa, ngay cả trong thời gian tôi sống cùng bà Coulter. Họ là ai vậy?”

“Đó là một loại ma ở trong những khu rừng trên đó. Chúng lớn bằng một đứa trẻ, nhưng không có đầu. Chúng tự đánh hơi thấy đường trong đêm tối, nếu cô ngủ trong rừng, chúng sẽ bắt cô và không gì có thể làm chúng thả ra được. Nalkainen là một từ của Phương Bắc và Windsucker nữa, chúng cúng rất nguy hiểm. Chúng trôi dạt trong không khí. Thỉnh thoảng cô cũng bắt gặp chúng kết thành từng hòn và trôi nổi, hay vướng vào một bụi cây. Ngay khi chúng chạm vào người cô, mọi sức lực của cô sẽ bị hút hết. Cô không thể nhìn thấy chúng ngoài một loại ánh sáng lờ mờ trong không khí, và những Kẻ tắt thở…”

“Chúng là ai vậy?”

“Những chiến binh bị giết một nửa. Sống là một chuyện, chết là một chuyện khác, nhưng bị giết một nửa thì tệ hại hơn cả hai chuyện đó. Họ không thể chết, và sống là điều vượt quá sức của họ. Họ vĩnh viễn đi lang thang. Họ bị gọi là Những kẻ tắt thở vì điều đã xảy ra với họ.”

“Và đó là gì vậy?” Lyra hỏi, mắt mở to ngạc nhiên.

“Người Tartar trên phương Bắc mở lồng ngực của họ và lấy lá phổi ra. Đó là cả một nghệ thuật tinh vi. Người ta thực hiện việc này mà không giết chết họ, nhưng phổi của họ không làm việc được nữa nếu không có con nhân tinh của họ phải bơm phổi bằng tay, và kết quả là họ nửa thở nửa không thở, nửa sống nửa chết, cô thấy đấy. Con nhân tinh của họ phải bơm phổi họ suốt ngày đêm nếu không nó cũng chết cùng chủ. Thỉnh thoảng có thể bắt gặp cả một đoàn những Kẻ tắt thở trong rừng, tôi nghe nói thế. Và còn có Panserbjorne — nghĩa là những con gấu mặc áo giáp sắt. Chúng giống một loại gấu Bắc cực, ngoại trừ… “

“Có! Tôi đã nghe nói! Một trong những người khách đêm qua nói rằng, chú tôi ngài Asriel, đang bị giam trong một pháo đài do những con gấu mặc áo giáp canh giữ.”

“Thế sao? Ông ấy làm gì trên đó?”

“Thám hiểm. Nhưng theo cách người đàn ông nói chuyện, tôi không nghĩ chú tôi cùng hội cùng thuyền với bọn Gà trống tây. Tôi nghĩ là chúng đang vui mừng vì chú tôi bị cầm tù.”

“Ừ vậy thì ông ấy sẽ không thể thoát ra được nếu những con gấu mặc áo giáp đang canh giữ ông ấy. Chúng giống bọn lính đánh thuê, cô có hiểu ý tôi nói không? Chúng bán sức lực của mình cho bất cứ người nào mua. Chúng có những bàn tay giống như của con người, và chúng học được thủ thuật luyện sắt, phần lớn là sắt rơi từ trên sao băng xuống, chúng làm thành những tấm và phiến để che thân mình. Chúng đã cướp bóc của người Skraeling trong nhiều thế kỷ. Chúng là những sát thủ độc ác, không một chút thương hại nào. Nhưng chúng rất giữ lời. Nếu cô có một thỏa thuận với một Panserbjorne, cô có thể yên tâm về điều đó.”

Lyra sợ hãi cân nhắc sự khủng khiếp đó.

“Mẹ tôi không thích nghe chuyện về phương Bắc,” Tony nói sau một lúc, “vì đó là những chuyện có thể xảy đến với Billy. Chúng tôi biết chúng đã đưa nó lên phương Bắc.”

“Làm sao anh biết được điều đó?”

“Chúng tôi bắt được một trong những tên Gà trống tây và bắt nó phải khai ra. Nhờ đó chúng tôi biết được chút ítề việc chúng đang làm. Hai tên đêm hôm qua không phải bọn Gà trống tây; chúng quá vụng về, nếu chúng là bọn Gà trống tây, bọn tôi đã bắt sống chúng. Cô thấy đấy, những người Gypsy, chúng tôi là những người chịu thiệt thòi hơn cả bọn Gà trống tây. Chúng tôi sẽ họp lại để quyết định cần làm gì. Đó là nguyên nhân chúng tôi có mặt trên kênh đêm hôm qua, vì chúng tôi sắp có một cuộc gặp mặt. Tôi đoán chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc họp bàn về việc giải cứu, khi chúng tôi nghe nói tất cả những người Gypsy khác biết, khi chúng tôi chia sẻ những hiểu biết với nhau. Nếu tôi là John Faa, tôi cũng làm như vậy.”

“John Faa là ai?”

“Vua của những người Gypsy.”

“Và các anh thực sự sẽ đi cứu bọn trẻ? Còn Roger thì sao?”

“Roger là ai vậy?”

“Cậu bé làm bếp tại Học viện Jordan. Cậu ấy cũng bị bắt giống Billy một ngày trước khi tôi đi cùng bà Coulter. Tôi cá là nếu tôi bị bắt, cậu ấy cũng sẽ đến cứu. Nếu anh đang đi cứu Billy, tôi muốn đi cùng để cứu Roger.”

Và cả chú Asriel nữa, cô nghĩ, nhưng cô không nhắc đến điều đó.