Ánh sáng phương Bắc (Tập 1) - Phần II - Chương 10 - Phần 1
PHẦN HAI
BOLVANGAR
Chương 10: Ông Lãnh sự và Con gấu
John Faa và những lãnh tụ khác đã quyết định sẽ đến Trollesund, cảng chính của Lapland. Các phù thủy có một tòa lãnh sự tại thành phố biết nếu không có sự giúp đỡ hay ít nhất là thái độ trung lập thiện chí của họ, sẽ không thể cứu được những đứa trẻ đang bị giam cầm.
Ông giải thích ý nghĩa của mình cho Lyra và Farder Coram vào ngày hôm sau, khi cơn say sóng của Lyra đã hơi giảm. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ và những làn sóng vỗ vào mạn tàu, làm tung lên những làn bọt trắng khi chúng cuộn tròn ra xa. Trên boong tàu, với những làn gió mơn man và cả một đại dương lấp lánh rì rào, cô vẫn cảm thấy hơi bị say sóng. Pantalaimon đang phát hiện sự thú vị khi là một con hải âu, rồi sau đó là một con hải âu pêtren bay là là trên những ngọn sóng, Lyra say sưa trước niềm hân hoan của nó đến nỗi cô cảm nhận thấy nỗi buồn của một người đã quen sống trên cạn.
John Faa, Farder Coram và hai hay ba người khác ngồi ở phía đuôi tàu, dưới ánh nắng mặt trời chan hòa, bàn luận xem sẽ phải làm gì sắp tới.
“Vậy là Farder Coram quen biết những phù thủy đó,” John Faa nói, “và nếu không nhầm thì có một giao ước gì đó trong vụ này.”
“Đúng như vậy, John,” Farder Coram nói, “đó là chuyện của bốn mươi năm về trước, nhưng khoảng thời gian đó chẳng là gì đối với một phù thủy. Một số phù thủy sống lâu gấp nhiều lần như thế.”
“Điều gì sẽ xảy sau khi đồng ý với giao ước này, Farder Coram?” Adam Stefanski, người đàn ông chịu trách nhiệm về quân đội hỏi.
“Tôi đã cứu sống một phù thủy,” Farder Coram giải thích. “Bà ta bị ngã vì có một con chim màu đỏ to đến mức từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhìn thấy đuổi theo. Bà ta bị thương rồi ngã xuống đầm lầy, tôi đã tìm thấy bà ta. Bà ta gần chết đuối, tôi đưa bà ta lên thuyền và bắn rơi con chim. Nó rơi xuống một bãi lầy, tiếc thật, vì nó to như một con vạc, và đỏ như lửa.”
“À!” những người khác thì thầm, bị cuốn hút vào câu chuyện của Farder Coram.
“Trở lại chuyện tôi đưa bà ta lên thuyền.” ông tiếp tục kể. “Tôi đã bị sốc nặng khi biết người phụ nữ trẻ đó không có nhân tinh.”
Điều này đồng nghĩa với việc ông muốn nói “người phụ nữ này không có đầu”. Ý nghĩ này gợi lên cảm giác thật ghê tởm. Những người đàn ông rùng mình, nhân tinh của họ dựng đứng lông lên hay lắc mình hoặc kêu những tiếng chói tai, những người đàn ông vuốt ve chúng. Pantalaimon leo vào lòng Lyra, trái tim họ đập chung một nhịp.
“Ít nhất,” Farder Coram nói, “là cũng có vẻ như vậy. Vì bà ta rơi từ trên trời xuống nên tôi nghĩ bà ta là phù thủy. Chính xác thì bà ta giống một người phụ nữ trẻ, mảnh mai và vô cùng xinh đẹp, nhưng việc không thấy con nhân tinh khiến tôi cảm thấy ghê sợ.”
“Vậy là họ có nhân tinh hay không, những phù thủy ấy?” Michael Canzona, một người đàn ông khác hỏi.
“Nhân tinh của họ vô hình, tôi cho là vậy,” Adam Stefanski nói. “Nó vẫn luôn ở đó, nhưng Farder Coram không nhìn thấy nó.”
“Không phải đâu, anh sai rồi, Adam,” Farder Coram nói. “Nó không hề ở đó. Các phù thủy có một sức mạnh để tách chính mình ra khỏi nhân tinh trong một khoảng cách xa hơn chúng ta rất nhiều. Nếu cần họ có thể để nhân tinh của mình lên những tầng mây, trên những ngọn gió hay lặn sâu dưới lòng đại dương. Phù thủy mà tôi gặp này, bà ta vừa nằm trên thuyền chưa đến một giờ đồng hồ thì con nhân tinh bay trở lại, vì nó cảm nhận được sự sợ hãi và đau đớn của chủ, tất nhiên là như vậy. Tôi tin, dù bà ta không bao giờ thừa nhận, rằng con chim lớn màu đỏ đó làa một phù thủy khác đang đuổi bắt bà ta. Lạy Chúa! Điều đó làm tôi run rẩy khi nghĩ đến. Tôi đã làm không biết bao nhiêu điều, tôi đã đi khắp cùng trời cuối đất, nhưng rồi cuối cùng lại ở đó và cứu sống một phù thủy. Dù sao, không nghi ngờ gì về việc tôi đã cứu sống bà ta, và ta rất biết ơn về điều đó. Bà ta nói tôi có thể nhờ đến sự giúp đỡ của bà ta nếu cần. Lần đầu tiên tôi phải gọi đến sự giúp đỡ của bà ta là khi người Skraeling bắn tôi bằng mũi tên tẩm thuốc độc. Chúng tôi còn có những liên hệ khác nữa… Tôi đã không gặp lại bà ta trong nhiều năm, nhưng bà ta sẽ nhớ thôi.”
“Bà ta có sống ở Trollesund không, bà phù thủy này ấy?”
“Không, không. Họ sống trong các khu rừng và trên các lành nguyên, không phải một hải cảng giữa những người bình thường. Công việc của họ là ở những nơi hoang vu. Nhưng ở đó họ có một tòa lãnh sự, và tôi sẽ nhắn cho bà ấy, chắc chắn là như vậy.”
Lyra mong muốn được biết nhiều hơn về các phù thủy, nhưng mấy người đàn ông đã chuyển sang bàn luận về vấn đề nhiên liệu và đồ đạc. Cho đến lúc này cô chờ đợi thêm để đi xem phần còn lại của con tàu. Cô lang thang dọc boong tàu về phía mũi tàu và nhanh chóng làm quen với một thủy thủ lành nghề bằng cách búng những hạt táo cô giữ lại sau bữa sáng vào người ông. Đó là một người đàn ông mập mạp và điềm tĩnh. Khi ông nói tếu táo với cô và cô đáp trả, họ đã trở thành những người bạn tâm đầu ý hợp. Ông tên là Jerry. Với sự hướng dẫn của ông, cô nhận ra nếu làm một việc gì đó sẽ ngăn cảm giác say sóng, dù là việc cọ rửa sàn tàu cũng được, nếu nó được thực hiện theo cách giống như những người thủy thủ vẫn làm. Cô cảm giác rất thích thú với ý tưởng này, từđó về sau cô gấp tấm chăn trên giường ngủ của mình theo kiểu thủy thủ, xếp đồ đạc của mình trong ngăn tủ giống cách của thủủ, và dùng từ “gọn gàng” thay vì “ngăn nắp” giống cách nói của các thủy thủ.
Sau hai ngày trên biển, Lyra đã khẳng định được đây là cuộc sống dành cho cô. Cô điều hành con tàu, từ phòng máy đến cầu tàu, tên cô nhanh chóng được các thủy thủ nhớ đến. Thuyền trưởng Rokeby cho cô ra còi báo hiệu với một tàu khu trực nhỏ của Hà Lan bằng cách kéo còi hơi nước; người đầu bếp để cô giúp trộn bột với nho kho; chỉ có lời nói nghiêm khắc của John Faa là ngăn cô không dám leo lên cột buồm ở mũi tàu để quan sát đường chân trời.
Suốt cả thời gian con tàu đi về phía bắc, không khí lạnh thêm từng ngày một. Kho hàng của tàu bị lộn tung để tìm loại vải dầu có thể may quần áo cho cô. Jerry dạy cô cách khâu, một nghệ thuật cô sẵn sàng học từ ông, dù ở Jordan cô rất coi thường và thường không thèm quan tâm mỗi khi bà Lonsdale có ý muốn dạy cô học. Họ cùng nhau khâu một chiếc túi bằng vải không thấm nước để đựng La bàn vàng, như thế cô có thể đeo quanh bụng, phòng khi cô bị rơi xuống biền, cô nói thế. La bàn vàng đã có chỗ để an toàn, cô tung tăng trên lan can nhìn những bụi nước tung trắng xóa trước mũi tàu và loanh quanh trên boong. Thỉnh thoảng cô vẫn cảm thấy say sóng, đặc biệt là khi gió thổi mạnh và con thuyền lắc lư ghê gớm trên đỉnh ngọn sóng màu xanh xám. Lúc đó trách nhiệm của Pantalaimon là làm cô mất tập trung bằng cách biến thành một con hải âu pêtren và lướt trên sóng. Như thế cô có thể cảm thấy niềm hân hoan vô bờ bến của nó giữa sóng gió và quên đi cơn say sóng. Rất nhiều lần nó còn thử biến thành một con cá, có lần nó còn hòa vào một đàn cá voi trước sự ngạc nhiên và thích thú của chúng. Lyra đứng run rẩy trên boong trước mũi tàu, cười sung sướng khi Pantalaimon yêu quý của cô, mỡ màng và khỏe mạnh, nhảy lên trên mặt nước cùng nửa tá những chú cá heo màu xám đang lắc lư khác. Đó là niềm vui sướng, nhưng không phải niềm vui sướng thông thường, vì còn có cả sự đau đớn và sợ hãi trong đó nữa. Nhỡ nó thích được làm một chú cá voi hơn thích ở bên cạnh cô thì sao?
Người bạn thủy thủ lành nghề của cô ở gần đó, ông ngừng tay khi chỉnh lại tấm vải bạt che trước cửa hầm chứa hàng để nhìn con nhân tinh của cô bé lướt trên sóng và nhảy lên mặt nước cùng đàn cá heo. Con nhân tinh của ông, một con hải âu đang đậu trên chiếc tời cuốn dây leo, dụi đầu vào cánh. Ông biết cảm giác của Lyra lúc này.
“Tôi nhớ lần đầu tiên ra biển, Belisaria của tôi vẫn chưa cố định ở một hình dạng nào cả. Lúc đó tôi còn trẻ lắm, nó muốn biến thành một chú cá heo. Tôi đã rất sợ nó sẽ biến thành hẳn như vậy. Trên chiếc tàu lần đó có một thủy thủ không bao giờ có thể lên vì nhân tinh của ông ta có hình dáng cố định là cá voi, và nó không thể rời mặt nước. Ông ấy là một thủy thủ tuyệt vời, một nhà đi biển giỏi nhất cô có thể gặp được. Ông ấy có thể kiếm được cả một gia tài bằng nghề đánh cá, nhưng ông ấy không vì thế mà hạnh phúc. Ông ấy chẳng bao giờ thực sự được hạnh phúc cho đến khi chết đi và có thể được mai táng trên biển.
“Tại sao các con nhân tinh lại phải cố định lại hình dáng?” Lyra hỏi. “Cháu muốn Pantalaimon có thể thay đổi hình dạng mãi mãi. Nó cũng muốn thế.”
“À, chúng luôn phải cố định lại, và sẽ là vậy. Đó là một phần của sự trưởng thành. Sẽ đến một lúc nào đó cháu mệt mỏi vì sự luôn thay đổi của nó, và muốn cố định cho nó một hình dạng.” chẳng bao giờ thế đâu.”
“Ồ, cháu sẽ thế đấy. Cháu sẽ muốn lớn lên như tất cả các cô bé khác. Dù sao, cũng có những đền bù cho sự cố định hình dáng đó.”
“Đó là gì vậy?
“Biết được mình là loại người nào. Lấy Belisaria làm ví dụ. Nó là một con hải âu, và như thế bác cũng là một loại hải âu. Bác không vĩ đại, rực rỡ hay đẹp đẽ, nhưng bác là một thứ đồ già bền bỉ và có thể sống sót ở bất cứ nơi nào, luôn tìm được chút thức ăn cũng như tình bạn. Cái đó đáng để biết lắm chứ, phải vậy không. Và khi con nhân tinh của cháu đã cố định lại, cháu sẽ biết cháu là người như thế nào.”
“Nhưng nếu con nhân tinh của bác cố định lại trong hình dáng bác không thích thì sao?”
“Nếu thế, cháu sẽ không hài lòng, đúng không? Rất nhiều người muốn có một con nhân tinh là sư tử nhưng cuối cùng nó lại biến ra một con chó xù. Và cho đến khi họ chưa đọc được cách hài lòng với điều mình có, họ sẽ luôn cáu kỉnh vì điều đó. Cũng mất nhiều thời gian đấy.”
Nhưng dường như với Lyra cô sẽ chẳng bao giờ trưởng thành cả.
Một buổi sáng, có thứ mùi lạ trong không khí và con thuyền đang chuyển động một cách kỳ lạ. Nó lắc liên tục từ bên nọ sang bên kia thay vì chúi về phía trước hay chồm lên. Lyra lên boong tàu ngay một phút sau khi thức giấc, nhìn chăm chú về phía đất liền: một cảnh tượng thật lạ lùng; sau khoảng thời gian xung quanh chỉ có nước, vì dù họ mới chỉ ở trên biển được ít ngày, Lyra tưởng như đã hàng tháng trời; ngay phía trước con tàu là một ngọn núi, sườn núi màu xanh còn đỉnh phủ đầy tuyết trắng. Một thành phố nhỏ và bến cảng nằm dưới chân núi: những ngôi nhà gỗ với mái dốc, một tháp chuông nhà nguyện, những cần cẩu trên cảng, những đám mây chim mòng biển đang bay vòng và kêu ầm ĩ. Mùi nặng nhất là mùi cá, nhưng vẫn pha trộn với những mùi đến từ đất liền: nhựa thông, đất, mùi động vật, mùi xạ hương, và thứ mùi gì đó lạnh lẽo, trống trải và hoang dã: đó có thể là mùi tuyết. Nơi đây có mùi của phương Bắc.
Những con hải cẩu nô đùa quanh tàu, để lộ những khuôn mặt giống các chú hề trên mặt nước trước khi lặn xuống làm nước bắn tung tóe. Làn gió làm tung những ngọn sóng bạc đầu lạnh một cách kỳ lạ, và luồn vào từng khoảng trống trong chiếc áo da sói của Lyra. Tay cô nhanh chóng cảm thấy đau đớn và khuôn mặt cô tê cóng. Pantalaimon, trong hình hài chồn ecmin, giúp ấm chiếc cổ, nhưng sẽ quá lạnh nếu ở bên ngoài lâu mà không làm việc gì, dù chỉ đơn giản ngắm những con hải cẩu. Lyra đi xuống dưới ăn bữa sáng với cháo yến mạch và nhìn ra ngoài qua lỗ thông hơi trong phòng khách.
Bên trong cảng, nước rất yên. Lyra bắt đầu cảm thấy bứt rứt vì thiếu hoạt động. Cô và Pantalaimon thèm thuồng nhìn xung quanh khi con tàu nặng nề chậm chạp tiến dần vào bến tàu. Suốt một đồng hồ tiếp theo đó, tiếng máy tắt dần đến mức chỉ rì rầm khe khẽ phía sau tàu, những tiếng người hét lên ra lệnh hay hỏi han, những sợi dây thừng tung lên, cầu tàu hạ xuống, cửa hầm tàu bật mở.
“Nhanh lên nào, Lyra,” Farder Coram gọi. “Mọi thứ đã được gói ghém chưa?”
Đồ đạc của Lyra, nếu có thể gọi như vậy, đã được thu dọn ngay từ khi cô thức giấc và nhìn thấy đất liền. Tất cả những gì cô cần làm là chạy đến cabin, nhấc chiếc túi ra, giờ thì cô đã sẵn sàng.
Việc đầu tiên cô và Farder Coram làm khi lên bờ là đến thăm tòa nhà được dùng làm Tòa lãnh sự của Phù thủy. Không mất nhiều thời gian để tìm nó; thành phố bé nhỏ chỉ quay xung quanh bến cảng, nhà thờ và Tòa lãnh sự là bề thế nhất. Tòa lãnh sự của các Phù thủy đặt trong một ngôi nhà gỗ thô sơ màu xanh lá cây nhìn ra biển. Khi họ gọi cửa, chiếc chuông rung lên chói tai trên con đường yên tĩnh.
Một người hầu dẫn họ đến một phòng khách, mang cà phê ra cho họ. Ngay lập tức ông Lãnh sựthân chinh ra tiếp họ. Ông là một người to béo với khuôn mặt hồng hào và bộ comple đen nhã nhặn, tên là Martin Lanselius. Nhân tinh của ông là một con rắn, màu xanh lá cây nồng nhiệt và sáng lấp lánh giống như mắt ông, đó là điều duy nhất ở ông giống với một phù thủy dù Lyra cũng không chắc theo cô một phù thủy phải trông như thế nào.
“Tôi có thể giúp gì cho ông, Farder Coram?” ông ta hỏi.
“Có hai việc, thưa tiến sĩ Lanselius. Thứ nhất, tôi đang nóng lòng muốn liên lạc với một bà phù thủy tôi gặp nhiều năm trước, tại vùng Đầm lầy phía Đông Anglia. Tên bà ấy là Serafina Pekkala.”
Tiến sĩ Lanselius ghi chú bằng một chiếc bút chỉ bạc.
“Ông gặp bà ấy lâu chưa?” ông hỏi.
“Phải được bốn mươi năm rồi. Nhưng tôi nghĩ bà ấy vẫn còn nhớ.”
“Và điều thứ hai ông cần đến sự giúp đỡ của tôi là gì vậy?”
“Tôi đang đại diện cho một số gia đình người Gypsy có trẻ em bị bắt cóc. Chúng tôi có lý do đểtin rằng có một tổ chức đã bắt cóc những đứa trẻ này, những đứa trẻ của chúng tôi và những người khác, rồi mang chúng lên phương Bắc vì một vài mục đích nào đó chưa rõ. Tôi muốn biết liệu ông hay người của ông có nghe nói gì về việc này hay không?”
Tiến sĩ Lanselius từ tốn nhấp một ngụm cà phê.
“Không thể có chuyện không chú ý đến một vài hành động như vậy về phía chúng tôi,” ông nói. “Chắc ông cũng nhận thấy, những mối quan hệ giữa người của tôi với những người phương Bắc là rất khăng khít. Sẽ là khó cho tôi nếu gây phiền phức cho họ.”
Farder Coram nói như thế ông rất hiểu vấn đề.
“Chắc chắn là như vậy rồi.” ông nói. “Và tôi không cần thiết phải hỏi ông liệu có cách khác để tôi có được những thông tin này hay không. Đó là lý do tôi hỏi về bà phù thủy trước.”
Giờ thì tiến sĩ Lanselius gật đầu như thể ông rất hiểu vấn đề. Lyra theo dõi cuộc nói chuyện với tâm trạng bối rối và thán phục. Có rất nhiều điều ẩn sau từng lời nói, và cô thấy rằng ông Lãnh sự của các Phù thủy đã có một quyết định.
“Rất tốt,” ông nói. “Tất nhiên, đúng là như vậy, ông sẽ nhận ra là tên ông sẽ không lạ lẫm với chúng tôi, Farder Coram. Serafina là nữ hoàng của một bộ tộc phù thủy trong vùng Hồ Enara. Còn về câu hỏi kia của ông, tất nhiên chuyện này sẽ được hiểu là thông tin đến được với ông không phải qua tôi.”
“Đúng thế.”
“Vậy thì, tại chính thành phố này có một chi nhánh của một tổ chức có tên là Công ty Thám hiểm Phát triển phương Bắc, mục đích hoạt động là thăm dò các mỏ than, nhưng thực chất là được điều hành bởi một Ủy ban Tôn giáo chung nào đấy của London. Tổ chức này, theo như tôi tình cờ được biết, nhập khẩu trẻ con. Điều này không được biết rộng rãi trong thành phố. Chính quyền Norroway không chính thức được biết về điều này. Bọn trẻ không được giữ ở đây lâu. Chúng được đưa đi đâu đó sâu trong đất liền.”
“Ông có biết là ở đâu không, tiến sĩ Lanselius?”
“Không. Nếu biết tôi đã nói cho ông.”
“Và ông có biết chuyện gì xảy ra với bọn trẻ không?”
Lần đầu tiên tiến sĩ Lanselius nhìn sang Lyra. Cô dửng dưng nhìn lại. Con rắn nhỏ màu xanh lá cây ngóc đầu dậy từ cổ áo của ông Lãnh sự và thì thầm lúng búng câu gì đó vào tai chủ.
Ông Lãnh sự trả lời: “Tôi có nghe đến cụm từ quá trình Maystadt có liên quan đến vấn đề này. Tôi nghĩ họ dùng cụm từ này để tránh phải nói tên thật của họ làm. Tôi còn nghe thấy từ ‘sự chia cắt’, nhưng tôi không thể nói nó nghĩa gì.”
“Hiện nay có đứa trẻ nào trong thành phố không?” Farder Coram hỏi.
Ông vuốt ve lông con nhân tinh trong khi nó ngồi cảnh giác trong lòng ông. Lyra để ý thấy nó đã thôi không kêu rừ rừ.
“Không, tôi nghĩ là không.” Tiến sĩ Lanselius nói. “Một nhóm khoảng mười hai đứa đến đây khoảng một tuần trước và đã chuyển đi vào ngày hôm kia.”
“À! Gần đây như vậy sao? Vậy là chúng tôi còn có chút hy vọng. Họ đi bằng gì, tiến sĩ Lanselius?”
“Bằng xe kéo.”
“Và ông không biết họ đi đâu sao?”
“Rất ít. Đó không phải là vấn đề chúng tôi quan tâm.”
“Đúng vậy. Giờ thì ông đã trả lời tất cả các câu hỏi của tôi một cách thành thật, thưa ông, và chỉ còn một câu nữa thôi. Nếu là ông thì ông sẽ hỏi ngài Lãnh sự của Phù thủy câu hỏi nào?”
Lần đầu tiên tiến sĩ Lanselius mỉm cười.
“Tôi sẽ hỏi tôi có thể thuê một con gấu mặc áo giáp sắt ở đâu.” ông trả lời.
Lyra đứng lên, và cảm thấy trái tim Pantalaimon nảy lên trên tay cô.
“Theo tôi hiểu những con gấu mặc áo giáp sắt phải phục vụ Ủy ban Tôn giáo,” Farder Coram ngạc nhiên nói. “Ý tôi là, Công ty Thám hiểm Phát triển phương Bắc, tên nào họ tự gọi mình.”
“Có ít nhất một con không nằm trong số đó. Ông sẽ tìm được nó tại kho chứa xe kéo ở cuối đường Langlokur. Hiện nó đang kiếm sống tại đó, nhưng với tính khí của nó và việc dọa dẫm làm lũ chó ở đó sợ, chắc công việc của nó cũng không kéo dài được lâu đâu.”
“Vậy nó có phải là một con phản bội lại đồng loại không?”
“Có vẻ như vậy. Tên nó là Iorek Byrnison. Ông hỏi tôi xem nếu là ông tôi sẽ muốn hỏi câu hỏi gì, tôi đã nói với ông. Và đây sẽ là điều tôi sẽ làm nếu là ông: tôi sẽ chộp ngay lấy cơ hội thuê một con gấu mặc áo giáp sắt, dù nó có ở cách xa đây hơn chăng nữa.”
Lyra khó mà ngồi yên được. Tuy nhiên Farder Coram hiểu nghi thức cho một cuộc gặp mặt kiểu này và nhón lấy một chiếc bánh mật thơm nức từ chiếc đĩa trên bàn. Trong khi ông ăn bánh, tiến sĩ Lanselius quay sang nhìn Lyra.
“Ta biết cháu đang sở hữu một La Bàn Vàng.” Ông nói, trước sự ngạc nhiên ghê gớm của cô, vì cô không hiểu làm sao ông ta biết được điều này?
“Vâng,” cô trả lời, và sau đó, bị kích thích bởi cú véo của Pantalaimon, nói thêm, “ông có muốn xem không?”
“Ta rất muốn được như vậy.”
Cô không ngần ngại đút ngay tay vào túi chiếc áo khoác da sói và đưa ông cái bọc vải nhung. Ông mở nó ra và rất cẩn thận cầm nó lên, nhìn chăm chú vào mặt la bàn như một học giả quan sát một mẫu vật hiếm.
“Thật là tinh xảo!” ông nói. “Tôi đã nhìn thấy một cái khác, nhưng không đẹp được bằng cái này. Cháu có sở hữu cuốn sách để đọc nó không?”
“Không,” Lyra bắt đầu, nhưng trước khi cô kịp nói điều gì, Farder Coram đã lên tiếng.
“Điều đáng tiếc lớn là tuy Lyra sở hữu nó, nhưng không có cách nào để đọc được nó cả,” ông nói. “Nó cũng bí ẩn như những hồ mực người Hindu dùng để đọc tương lai. Cuốn sách giải thích gần đây nhất tôi biết đang ở Tu viện Thánh Johann tại Heidelberg.”
Lyra có thể hiểu tại sao ông lại nói như vậy. Ông không muốn tiến sĩ Lanselius biết được sức mạnh của Lyra. Nhưng cô còn có thể thấy vài điều Farder Coram không thể, đó là sự kích động của con nhân tinh của tiến sĩ Lanselius, và cô biết ngay rằng không nên giả vờ như vậy.